Sương xuân và hoa đào
Tùy bút của Vũ Thư Hiên
Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa đông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn bị không thể nào thiếu được để cho ta bước vào một cái mốc thời gian mới đối với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp xuân sang tôi vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi có gì làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã trở thành không kém thân thương:
Tự thuở mang gươm đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
(Huỳnh Văn Nghệ)
Chuyện đó chẳng có gì lạ. Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía ngoài kia.
Người xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối
đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.
Người xông nhà, theo sự mê tín từ xưa, là một
nhân vật rất quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người xông nhà là
ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận
thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết đến. Người
xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà hòa
thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng, chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ
vọng của gia chủ mong muốn điều gì.
Bác Nguyễn, nổi tiếng về tính kỳ quặc của mình,
chắc hẳn chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chắc chúng tôi không
kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi thì ông cũng
không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà thì, theo lệ
thường, chẳng hay ho gì. Xét về danh giá, theo truyền thống hiếu học và trọng
kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về mặt tài lộc
thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên,
không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc, cũng rửng mỡ xông
vào làng văn mà viết sách in thơ.
Bố tôi rất quý Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân
hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông, Nguyễn Tuân là
một trong những đại diện cuối cùng cho lớp kẻ sĩ Bắc hà mỗi ngày một hiếm,
những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù vân, không cúi đầu
vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ nhận. Ông luôn phô
rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn sợ lắm lắm. Cái sự
phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.
Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc áo choàng
màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen thường nhật. Trời rét
ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách
diện của ông, của Nguyễn Tuân, bao giờ cũng phải khác người. Tôi mở cửa đón
ông, hơi ngỡ ngàng một chút. Tôi không chờ đợi một người xông nhà không phải
người trong gia tộc, những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Lại
càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi của ông. Nhưng không ai đi hỏi
người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người xông nhà nào ta chỉ
có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng Một ra đốt.
Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:
- Nói thực, mình đến đây sớm vì chẳng biết đi
đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong cái ngày
đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ?
Bố tôi nghe léo xéo bước ra, tươi cười ôm lấy bạn
dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng mấy con mực. Bố
tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không
được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi tay cóng sưởi
trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn phòng nhỏ
của bố tôi. Bố tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng ấy chứ không phải ngoài
phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau, chạm ly trong im
lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả bố tôi đều không thích những lời ồn ào.
- Ngon tuyệt - NguyễnTuân nhắp vài nhắp rượu
trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
- Làng Vân chính hiệu đấy!
Bố tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt. Ông thích
được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được vui.
- Tuyệt!
- Mình phải đặt loại đặc biệt cho cái Tết đoàn
viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên gia đình tôi đủ
mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha
tôi bị lưu đầy ở Nam
Định.
- Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ họng là biết
ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được phép ngồi bên cạnh các cụ
làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của
ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ, độc đáo mà không người
nào khác có. Về đời sống cũng như trong văn chương, ông là người uyên bác.
Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi phải gọi ông
bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người: "Họ xa rồi, cùng
cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình đẳng, gia trưởng
lắm". Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng cháu với ông. Mẹ
tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.
Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng văn làng họa,
ai mới viết cái gì hay, bức hoạ cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu thích
của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi với Văn Cao ("bà
Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tý!"), đến Nguyễn Sáng
("Tết nhất mà nó có một mình, buồn muốn chết!")
Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại hồi lâu trên
hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông
nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
- Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng Một này thiếu
cái gì không?
Tôi không cần động não để tìm câu trả lời. Câu
hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn là sẽ rất
Nguyễn Tuân.
- Thiếu sương! - Nguyễn Tuân, mắt vẫn nhìn chung
quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi không trách. Anh còn
quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè nhẹ, không nhiều,
một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như
có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu
lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là
Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không
biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó, thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận xét của ông. Tôi nhớ
đến những năm xa xưa khi tôi còn rất nhỏ. Đúng là Hà Nội những ngày đầu năm ấy
sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ, bụi cây.
- Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều
nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương thay đổi, nhiệt độ
do đó mà cao hơn trước!
- Đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì
cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như chung quanh mình
toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà - không nhìn tôi, ông nhăn mặt
cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà
cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn của hiện tượng là việc
của người khác.
- Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng.
Tiếc quá đi mất! - Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự.
- Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy, sang năm phải tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay sang chuyện khác:
- Này, năm nay giáp Tết mưa thuận gió hòa, hoa
đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa?
Đã thành cái lệ, năm nào bố tôi và Nguyễn Tuân
cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà
từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
- Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi vì tôi không
thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược ngày thường đầy
rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trên là
trời, dưới là hoa. Và người đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất trĩu quả vàng
chen lẫn với các cành đào được cầm trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại cúc,
loại hồng, lay-ơn, thược dược... Ở đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch
quá. Nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn cái cảnh chợ chiều ba mươi
Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt
ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông
hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội nghiệp bởi cái thân phận
hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản những đào
là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố có tìm ở
Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt! Không chê
vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi
sửng sốt: "Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!"
Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi
đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Để
ngắm cành đào của bố anh.
Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để
ngắm có một cành đào mà thôi.
Bố tôi không phải là nghệ sĩ. Ông, nói của đáng
tội, đã từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có
cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có hai nghề nhập
một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và các văn nghệ sĩ,
hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là lập dị. Có điều,
như một người thuộc lớp nho sĩ cuối cùng còn rớt lại, mặc dầu có Tây học, ông
thích cuộc sống thanh đạm và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó
khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi là một vườn phong
lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.
Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ hoa: thuỷ
tiên và và đào.
Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không
thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức. Để cho thủy
tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên
không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Bố tôi
mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ nước ta thời
ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống một củ hành tây lớn,
rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy
tiên, bố tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao
mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ
vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu
cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những
nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng
đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng cho nó.
Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của bố
tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những
việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi vắng nhà, trên bàn
thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy
tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng
chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể
chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.
Thuỷ tiên do bố tôi gọt bao giờ cũng nở hết số
hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng
liêng nhất của sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người thuộc cõi dương,
giữa tổ tiên và con cháu. Bố tôi đứng lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi.
Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của
một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm
ran.
Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào
lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng
Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy
mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn náu,
thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào.
Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do
ảnh hưởng câu chuyện chàng Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc
đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở
thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.
Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà
tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong
những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi
trước để lại.
Trước Tết một tháng, bố tôi, thường có tôi đi
theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa
cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, bố
tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành
thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường
rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra,
đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai
khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố tôi đã hiện lên cành đào
trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày
Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, bố tôi mới
lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với vẻ tiếc
rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá
của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này.
Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng
một số nụ.
Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào.
Bố tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui
phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Đó là một cái lọ
lớn, thường là lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi
cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được
đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể
nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ
tịch.
- Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm
tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - bố tôi tâm sự trước
cành đào
- Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà
mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải nó về với mình.
Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân.
Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm
giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra
cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Bố tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe khoang
quá, hợm hĩnh quá.
- Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ
phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - bố tôi dạy - Người
Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của
Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào
Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa
lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những
cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Đã thế
có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ
mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ.
Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm
với mình.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố tôi nhìn vẻ
đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:
- Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có
mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được.
Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao
ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ
cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng
ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn
toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải
có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố tôi, đều đã
khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm
đắc ở trong tôi. Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.
24/12/2002
Vũ Thư Hiên
___________________
Xin dâng nén hương thơm lên phần mộ của các cụ thân sinh nhà văn Vũ Thư Hiên:
Nơi yên nghỉ hai cụ Vũ Đình Huỳnh và Phạm Thị Tề tại Khu A - Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội
Lời ghi trên mộ:
Bố Mẹ đã ra đi
Nhưng tâm hồn của bố mẹ
máu thịt của bố mẹ
vẫn còn đây
trong chúng con
Ảnh: Lâm Khang
Tễu ơi,
Trả lờiXóaTrên Dân Trí có đăng một bài hay lắm về quả báo "Quan-Phỉ liên minh" :
Hải Phòng - Đi bắt sòng bạc, ba công an bị đánh dã man.
Mình đăng lại lên đây cho bà con đọc thử coi.
Vũ Thư Hiên có cách viết thật nhẹ nhàng, như trong MIÊN THƠ ẤU.
Trả lờiXóaThậm chí đọc ĐÊM GIỮA BAN NGÀY vẫn thấy sự dung dị trong đó, có cái gì rất "mẫu mực", không quá lời hay quá đà !
Bài này viết về Tết lẫn tưởng niệm Song Thân cực hay.
Lại giúp cho độc giả có một cái nhìn khác về Tết
Như sương khói la đà những ngày đầu năm
Rồi thú ngắm hoa đào hoa thủy tiên ..
Xin cám ơn nhiều nhà văn VTH.
Chúc anh Hiên nhiều sức khoẻ
Lại Mạnh Cường
Một nhà văn Pháp đã nói : Văn tức là người " Style c ' est l ' homme " . Đọc Vũ Thư Hiên qua văn thấy con người của ông . Đó là những mẫu người được đi học trước 1945 : cái gốc nho gia tiếp thu Tây học, hình thành một lớp trí thức thành thị mà sau này VM gọi là trí thức tiểu tư sản , gọi tắt là tạch tạch sè, một trong 4 kẻ thù VM rất ghét : trí, phú, địa, hào cần phải đào đến tận gốc , đánh cho tận rễ !
Trả lờiXóaCảm ơn Tễu và các bạn đã cùng tôi nhớ về một mùa xuân xa.
Trả lờiXóaNăm mới chúc nhà văn mạnh khoẻ an khang . Rất mong được đọc nhiều hơn nữa những tác phẩm của ông.
XóaCảm ơn nhà văn Vũ Thư Hiên. Bài tùy bút cực hay. Kính chúc nhà văn luôn mạnh khỏe!
XóaCái Tết ở Hà Nội thơ mộng với sương và hoa như vậy thì làm sao bác Vũ Thư Hiên không thương nhớ được chứ? Người Saigon như cháu đọc mà mê luôn. Tiếc quá bác. Không biết có bao giờ Hà Nội được trở lại như ngày xưa? Câu chuyện của bác đọc xong rồi nhưng lòng cháu cứ lâng lâng như sương sớm ngày Tết bay bay đó bác. Cám ơn bác Vũ Thư Hiên, cháu cũng có cuốn Miền Thơ Ấu và rất thích nó.
XóaNhẹ nhàng nhưng sâu sắc,tôi có cảm giác gần giống như đọc "Ông đồ" của Vũ Đình Liên
Trả lờiXóaChúc nhà văn mạnh khỏe,chúc đất nước tươi sáng hơn trong năm gà.
Trả lờiXóaxin góp ý về 2 câu thơ của tác giả HUỲNH VĂN NGHỆ. Nguyên tác đó là:
"Từ thuở mang gươm đi mở cõi,
TRỜI NAM thương nhớ đất Thăng Long"
Xin lưu ý rằng "TRỜI NAM" chứ không phải "NGÀN NĂM" như trong bài viết.
Về lỗi này, tôi cho là nhầm lẫn ở khâu soạn thảo chứ một tác gia có tên tuổi như ông Vũ Thư Hiên thì chắc chắn không thể nào mắc lỗi sơ giản như vậy được.
Kính
Cảm ơn bài viết của anh Vũ thư Hiên.
XóaTôi đọc một sô bài không nhớ chính xác họ cũng viết "Ngàn năm"thương nhớ đất Thăng long.
Đến nay mỗi lần qua phố Hai bà Trưng qua ngôi nhà của 2 cụ tôi vẫn hình dung lại các bạn tôi là em của anh như chị Khanh,em Dũng có năng khiếu nghệ thuật.
Chơi hoa là thú vui tao nhã , cùng với thưởng thức hoa thì chơi hoa chỉ có ở những người có tâm hồn yêu thương cái đẹp .
Trả lờiXóaTinh tế, đáng yêu quá! 1 nét tinh tế của người trí thức, văn nghệ sĩ (không phải văn công) Bắc Hà.
Trả lờiXóaQuý hơn ngàn lẵng hoa của bọn "làm bộ" văn hóa.
Xuân là gì với vài ba ngày tết / Để hoa đào rụng vội dưới gót chân /Để chén sầu đong nỗi nhớ người thân / Tiếng pháo nổ xé lòng ta muôn mảnh / Phút giao thừa sụt sùi cơn mưa lạnh / Nén hương đời đã cháy tận chân nhang .....
Trả lờiXóaHay quá ạ, và buồn
XóaHay quá! Cái tinh túy của kẻ sỹ Bắc Hà! Than ôi, có còn lại gì hôm nay?
Trả lờiXóaBuồn nhớ bâng khuâng tet xua
Trả lờiXóa