Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

HÔM NAY, HỘI NGHỊ THÔNG BÁO HÁN NÔM HỌC NĂM 2013


THÔNG BÁO HÁN NÔM HỌC là Hội nghị thường niên của Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhằm thông tin các hoạt động của ngành Hán Nôm trên lĩnh vực SƯU TẦM, BẢO QUẢN, NGHIÊN CỨU KHAI THÁC tư liệu thư tịch Hán Nôm và một vài lĩnh vực khác có liên quan, được tổ chức vào tháng 12 hàng năm. Hội nghị lần thứ nhất là vào năm 1995.

Hội nghị đã quy tụ về đây hầu hết các Nhà giáo, Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ, các nhà nghiên cứu đang công tác trong ngành Hán Nôm và một số ngành có liên quan, từ những người đầu tóc bạc phơ cho đến các bạn sinh viên đang còn trên ghế nhà trường từ khắp nơi trong cả nước. Một số người đang học tập và công tác ở nước ngoài cũng nhiệt tình gửi bài tham luận cho Hội nghị, mang đến Hội nghị muôn màu sắc bằng hàng trăm bài viết tâm huyết về tất cả các lĩnh vực có liên quan đến công tác Hán Nôm.Tham luận gửi đến các kì Hội nghị đã tập trung vào các vấn đề sau đây:

1/ Thông báo, giới thiệu những phát hiện mới trong các công tác sưu tầm các tư liệu Hán Nôm hiện còn nằm rải rác ở các địa phương, trong các kho tư liệu trong cả nước và cả ở những thư viện ngoài nước;

2/ Giới thiệu các tác gia, tác phẩm Hán Nôm và tư liệu về các nhân vật lịch sử đem đến nhiều thông tin mới, bổ ích góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về các lĩnh vực này; cung cấp những tư liệu Hán Nôm có giá trị khi nghiên cứu những giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam. Nhưloại hình văn khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ, thư tịch, gia phả, thần phả, hoành phi, câu đối.

3/ Thông tin những kết quả nghiên cứu lý luận bổ sung cho tri thức cơ bản của ngành Hán Nôm và các ngành khoa học liên quan, đặt vấn đề trao đổi kiến thức tạo nên bầu không khí học thuật sôi nổi và lành mạnh. Đó là các là các bài viết công phu về văn bản học Hán Nôm, Hán Nôm với Sử học, Văn học, Triết học, với Y dược học cổ truyền... ngay cả lĩnh vực ứng dụng tin học Hán Nôm còn rất mới mẻ cũng được đề cập đến trong các Hội nghị.

Có thể nói, với hàng ngàn bài viết đề cập đến hết thảy mọi lĩnh vực của ngành Hán Nôm, đã góp phần rất to lớn cho công tác sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu khai thác tư liệu thư tịch Hán Nôm và đào tạo đội ngũ có chuyên môn ngày càng cao cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm nói riêng và ngành Hán Nôm Việt Nam nói chung. Hội nghị không chỉ là tiếng nói riêng của Viện Nghiên cứu Hán Nôm mà còn là tiếng nói chung của tất cả những ai yêu mến di sản Hán Nôm.

Sau mỗi Hội nghị, Viện Nghiên cứu Hán Nôm thấy cần phải tập hợp các bài viết và biên tập lại, có bài để nguyên toàn bộ, có bài tóm lược và tiến hành in ấn xuất bản thành một tập kỷ yếu lấy tên là THÔNG BÁO HÁN NÔM HỌC.

Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2013 sẽ được tổ chức vào ngày hôm nay:
Thời gian: 8h30’ ngày 27 tháng 12 năm 2013 (thứ Sáu);
Địa điểm: Hội trường Viện Nghiên cứu Hán Nôm,
183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội.

DANH SÁCH TÁC GIẢ BÀI VIẾT
THAM DỰ THÔNG BÁO HÁN NÔM HỌC NĂM 2013
***

TT
Tên tác giả
Tên tham luận
1. 
Nguyễn Công Việt
Phát biểu khai mạc Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2013
2. 
Nguyễn Văn An
Tư liệu văn tế và sắc phong ở đình làng Đại Chu, xã Long Châu, huyện Yên Phong, Bắc Ninh
3. 
Trần Thị Kim Anh
“Cổ quái bốc sư truyện” – vấn đề niên đại tác phẩm và mục đích sáng tác
4. 
Vũ Thị Lan Anh
Tư liệu về Kính phi họ Nguyễn- Cung phi của Vua Lê Thánh Tông qua Văn bia “Thọ An Kính phi Nguyễn thị thần đạo bi”
5. 
Thế Anh
Mộc Lan truyện và một bản diễn âm mới được sưu tầm
6. 
Nguyễn Thị Anh
Thân thế sự nghiệp và tác phẩm hiện còn của Trương Quốc Dụng
7. 
Phạm Văn Ánh
Khảo cứu văn bản tác phẩm của Trần Kỷ
8. 
Nguyễn Gia Bảo
Về 3 tấm bia khắc bằng chữ Hán và chữ Pháp của di tích đình Hàng Phố ở thành phố Thái Nguyên
9. 
Nguyễn Khắc Bảo
Vài ý kiến về cuốn “Truyện Kiều – bản Nôm cổ nhất - 1866”
10. 
Nguyễn Phạm Bằng
Văn bia cổ nhất Việt Nam mới phát hiện và vấn đề niên đại của nó
11. 
Vũ Việt Bằng
Giới thiệu văn bản Hồ thượng thư gia lễ lưu trữ tại nhà ông Hồ Sỹ Yên xã Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An
12. 
Nguyễn Thị Châm
“Sứ Tây nhật ký” và giá trị của tác phẩm
13. 
Đào Phương Chi
Cưới hỏi, tang ma, khao vọng sau cải lương hương tục thí điểm ở Bắc Kỳ qua văn bản tục lệ
14. 
Ngô Đức Chí
Bản kê chùa Phước Lâm của Hòa thượng Phổ Minh
15. 
Nguyễn Văn Chiến
Phân loại chữ Nôm và những đặc trưng của chữ Nôm trên đồ gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX
16. 
Nguyễn Đình Chỉnh
Bài thơ chữ Hán trên cuốn thư tại di tích Quốc gia đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, Hải Phòng
17. 
Nguyễn Thị Thanh Chung
“Tự cảnh tứ thủ” (Bốn bài thơ răn mình) của Nguyễn Văn Siêu
18. 
Lý Xuân Chung
Bàn thêm về giá trị của “Nhật ký trong tù” trong thời đại ngày nay và vấn đề thư pháp
19. 
Nguyễn Tuấn Cường
Một số thông tin về việc thành lập Hội Khổng học Việt Nam (1957-1975)
20. 
Nguyễn Xuân Diện - Tạ Duy Phượng
Giới thiệu di sản sách Toán trong kho thư tịch Hán Nôm
21. 
Vũ Tuấn Doanh
Cụm di tích văn hóa, lịch sử đền Ngọc Sơn
22. 
Lê Phương Duy
Đại tự, câu đối tại đền thờ Kiên Thái Vương, thành phố Huế
23. 
Phạm Đức Duật
Thày Nam Trân giảng thơ Đường
24. 
Phan Anh Dũng
Đối chiếu sơ lược các văn bản chữ Nôm tuồng “Sơn Hậu”
25. 
Trần Văn Dũng
Điện Phước Linh - dấu xưa trên phố cổ Chi Lăng
26. 
Nguyễn Thị Dương
Hoàn cảnh ra đời của “Trung Việt dược tính hợp biên”
27. 
Trần Trọng Dương
Từ nguyên một số từ trỏ thực vật
28. 
Thích Đồng Dưỡng
Hành trạng thiên sư Tính Chúc Đạo Chu (1698-1775) qua hai tấm bia chùa Bằng
29. 
Bùi Xuân Đính
44 đạo sắc phong và một số vấn đề về Thành hoàng làng Bát Tràng
30. 
Phạm Minh Đức
Giá trị sắc phong huyện Can Lộc qua sách “Hà Tĩnh tập biên”
31. 
Phạm Thị Gái
Giá trị sử liệu của tập thơ “Du Hiên thi thảo
32. 
An Hà - Nguyễn Thị Diệu Thúy
Về một số vấn đề sử liệu xung quanh đàn Xã Tắc ở Thăng Long
33. 
Nguyễn Thanh Hà
Tính hai mặt và giá trị xã hội của “Hiếu”
34. 
Bàn Thị Hà
Phát hiện quyển Truyện Kiều cổ chữ Nôm ở xã Bảo Lý, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
35. 
Nguyễn Thị Tâm Hạnh
Sắc phong, chiếu chỉ trong gia phả dòng họ Nguyễn Thế: tư liệu về một dòng họ “lũ xuyết khoa danh” trên đất Quảng Bình
36. 
Nguyễn Văn Hải
Hiểu thêm về Đốc học Nam Định Mai Khả Nguyện qua tư liệu sắc phong, văn bằng cấp sự hiện lưu giữ tại địa phương
37. 
Lã Minh Hằng
Nguồn tư liệu từ vựng thế kỉ 17- qua khảo sát Truyện ông Thánh INAXU
38. 
Nguyễn Thu Hiền
Họ Nguyễn Quan Giáp làng Bát Tràng và truyền thống khoa bảng
39. 
Nguyễn Thị Xuân Hiền
Văn bia Điện Bàn - Quảng Nam
40. 
Võ Thị Ngọc Hoa
Thân thế và sự nghiệp của Thống chế Hà Tiên Nguyễn Công Nhàn qua tư liệu Hán Nôm ở Phú Yên
41. 
Dương Văn Hoàn
Giới thiệu 15 đạo sắc phong đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên
42. 
Tống Đại Hồng
Bước đầu tìm hiểu chữ Nôm Tày ở Tuyên Quang
43. 
Nguyễn Quang Hồng
Ghi nhận thêm một số từ ngữ cổ qua tư liệu chữ Nôm
44. 
Đào Thị Huệ
Đôi nét về hiện tượng thanh phù trong chữ Hán theo cách đọc Hán Việt
45. 
Bùi Quang Hùng
Góp phần tìm hiểu truyền thống hiếu học ở làng Dương Liễu thành phố Hà Nội
46. 
Trương Sỹ Hùng
Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm với Đề thám Trương Văn Nghĩa qua tài liệu Hán Nôm
47. 
Nguyễn Gia Huy
Di sản Hán Nôm qua 10 di tích lịch sử văn hóa ở huyện Phú Bình (Thái Nguyên)
48. 
Nghiêm Thị Thanh Huyền
Thay đổi địa dư Bắc Kỳ hoài cảm của một nhà Nho
49. 
Nguyễn Đình Hưng
Câu đối và văn tế ông tổ chè Tân Cương
50. 
Hoàng Thị Mai Hương
“Dân ca cổ ngâm” - khúc hát ru yêu nước thương nòi
51. 
Lê Thị Thu Hương
Sơ bộ khảo sát sách Hán Nôm có nội dung giáo dục gia đình tại thư viện Quốc gia
52. 
Phạm Thị Hường
Tư liệu “Lễ ký” trong “Tang lễ bị kí”
53. 
Vương Thị Hường
Hành trạng danh sĩ Nguyễn Duy Thì qua hai bản gia phả và sự nghiệp văn chương
54. 
Nguyễn Thị Thu Hường
Bản thảo một bài văn bia chùa Hoằng Ân
55. 
Nguyễn Quang Khải
Văn mục lục ở Bắc Ninh
56. 
Nguyễn Quốc Khánh
Bàn về cuốn “Từ điển Chu Dịch”
57. 
Lý Kim Khoa
Tư liệu sách cổ của người Dao Đại Bản xã Nậm Lành (Yên Bái)
58. 
Lý Kim Khoa - Nguyễn Thị Kim Oanh
Minh văn bến Lăn - Tân Lĩnh (Yên Bái)
59. 
Dương Văn Khoa
“Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch Trung Quốc
60. 
Nguyễn Huy Khuyến
Về 8 bài thơ “Thuận An tứ cảnh của Hoàng đế Minh Mệnh”
61. 
Phạm Thị Hương Lan
Giới thiệu tấm biển gỗ và hai đạo sắc phong tại nhà thờ Thám hoa Dương Cát Phủ ở Quỳnh Đôi, Nghệ An
62. 
Nguyễn Tô Lan
Văn bản tuồng Tam Quốc trong các kho lưu trữ của nhà Nguyễn
63. 
Lê Tùng Lâm
Thêm một tư liệu về nàng Bích Châu trong “Truyền kỳ tân phả”
64. 
Nguyễn Thị Lâm
Một chứng tích thơ Nôm Đường luật ở thời kỳ đầu
65. 
Lê Thành Lân
Nguyên tắc lập quái trong Chu Dịch để tương đồng với mã di truyền
66. 
Ngô Thế Lân
Giới thiệu bia đá chùa Bầu
67. 
Nguyễn Thị Hoa Lê
Góp phần tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của quan Đô đài Ngự sử Nguyễn Tiến Tài thông qua quyển gia phả dòng họ Nguyễn Tiến
68. 
Đinh Mỹ Linh – Lương Thị Thu
Về địa danh động Khuất Lão trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí thế kỷ VI
69. 
Đặng Văn Lộc
Di sản Hán Nôm về Binh bộ Thượng thư Đặng Trần Thường
70. 
Hoàng Phương Mai
So sánh định lệ và phẩm vật triều cống nhà Thanh giữa Lưu Cầu (Nhật Bản) và triều Nguyễn (Việt Nam)
71. 
Đinh Thị Thanh Mai
Quan niệm về đạo đức trong “Giáo huấn diễn ca”
72. 
Phạm Đức Mạnh – Nguyễn Chiến Thắng
Lạm bàn về quốc hiệu trên bia mộ cổ Nam Bộ
73. 
Trịnh Khắc Mạnh
Tư liệu Hán Nôm Việt Nam tại Bảo tàng Quốc gia Kyushu Nhật Bản
74. 
Nguyễn Kim Măng
Bia Hán Nôm về đạo Thiên Chúa Giáo ở Ninh Bình
75. 
Nguyễn Hữu Mùi
Giới thiệu văn bia Học điền ở thôn Đồng Cầu (Văn Lâm - Hưng Yên)
76. 
Nguyễn Đăng Na
Bài thơ Du chơi vườn hoa chẳng gặp - “Du viên bất trị”
77. 
Đặng Công Nga
Nguyễn Thượng Hiền với núi Non Nước
78. 
Đặng Công Nga
Bức phù điêu đá trang trí hoa văn cổ
79. 
Lê Viết Nga – Nguyễn Phạm Bằng
Tấm bia “Phúc Thánh tự bi” và thân thế sự nghiệp của Thụy quận công Nguyễn Đức Trung
80. 
Nguyễn Thị Ngân
Đi tìm xuất xứ câu thơ “Tây Dương chung cảng Cao Ly riêng hàng”
81. 
Hoàng Thị Ngọ
Một bản dịch chữ Hán “Truyện Kiều” của Nguyễn Du theo thể thơ thất ngôn
82. 
Phan Thị An Ngọc
“Ngọc phả về Mãnh Bát Lang Đại vương” trên tấm bia đá tại đình làng Vũ Dương, xã Bồng Lai, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
83. 
Phan Thị An Ngọc - Vũ Thủy
Bảo tàng Bắc Ninh với việc bảo tồn hệ thống di sản văn hóa Hán Nôm
84. 
Đặng Thị Bích Ngọc
Các vị thần được thờ ở huyện Thanh Trì (Hà Nội) đầu thế kỷ XX
85. 
Đinh Thị Nguyệt – Lê Đình Duật
Di tích liên quan đến vua Lê Anh Tông (thôn Kim Lũ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội)
86. 
Thích Minh Nghiêm
Bia ghi điều ước lập Hương học làng Quỳnh Đô
87. 
Nguyễn Tá Nhí
Bài văn chiêu hồn trong đám hiếu ở làng Mỹ Lương huyện Mỹ Lương
88. 
Nguyễn Ngọc Nhuận
Văn bia chùa Thiên Mụ và những tư liệu di văn chữ Hán liên quan tới chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725)
89. 
Nguyễn Thị Oanh
Về các bản Đại việt sử ký hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
90. 
Nguyễn Văn Phong
Văn bia chùa Vĩnh Nghiêm () những trang sử đá về chốn tổ Trúc Lâm qua các thời kỳ suy vi và phát triển
91. 
Nguyễn Đình Phúc
Tài liệu Hán Nôm làng Đại Tự (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội)
92. 
Trương Quang Phúc
“Bổn từ cựu sắc” ở Đáp Cầu - Bắc Ninh (Sắc phong của nhà vua đời xưa ban cho các vị thần được thờ trong ngôi đền của họ nhà ta)
93. 
Trương Đức Quả
Bài thơ Nôm chùa Nguyệt Đường của Trịnh Cương
94. 
Trần Mạnh Quang
Tồn nghi về tấm bia niên hiệu Cảnh Hưng thứ 38 (1777) ở chùa Cảm Ứng, thôn Đông Cao, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
95. 
Võ Vinh Quang - Nguyễn Văn Trung
Văn bia lăng mộ Hiển Quận công Dương Quốc Cơ do Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm soạn
96. 
Mai Thu Quỳnh
Tác phẩm “Lương Khê văn thảo” có bao nhiêu bài?
97. 
Vũ Văn Sạch
Về hai bài thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Võ Liêm Sơn
98. 
Nguyễn Văn Sơn
Nội dung 2 đạo sắc phong trong di tích nhà thờ họ Nguyễn Cảnh
99. 
Nguyễn Văn Sơn - Nguyễn Quang Hạ
- Hoàng Văn Định và chữ “Cần” do vua Thiệu Trị ban tặng
100. 
Nguyễn Sử
Về bia mộ của Cốc Lãng - Thái thú quận Cửu Chân
101. 
Thái Trung Sử
Giới thiệu văn bản “Sơn Tây địa dư nhân vật toàn thư” của Cao Xuân Dục
102. 
Nguyễn Hữu Tâm
Giới thiệu hệ thống sắc phong cho ba vị Quận công họ Vũ tại Miếu Tây, thôn Đại Đê, huyện Vụ Bản, Nam Định
103. 
Trương Sỹ Tâm
Thần Cao Sơn và Quý Minh trong tài liệu Hán Nôm ở Bắc Giang
104. 
Ngô Thị Thanh Tâm
Tìm hiểu chế độ Quan lang qua tác phẩm “Hòa Bình quan lang swe lược ca âm”
105. 
Nguyễn Văn Thanh
Giới thiệu bản “Tân soạn các bản văn chầu”
106. 
Bùi Chí Thành
Tìm hiểu câu thơ “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” của Đỗ Phủ trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
107. 
Kim Thành
Phát hiện tượng đá ở Phú Bình
108. 
Phạm Thuận Thành
Tiểu Than xã thần linh sự tích thừa sao
109. 
Nguyễn Phương Thảo
Tư liệu Hán Nôm về việc mở đất lập làng của người Việt ở xã Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
110. 
Phạm Văn ThắmPhạm Văn Thắm
Hai mã chữ Công tính ( ) trong châu bản thời Gia Long ( 1802-1819)
111. 
Nguyễn Quang Thắng
Ngô Bảo –danh gia thư pháp thời Vĩnh Thịnh
112. 
Nguyễn Hoàng Thân
Văn bia Hội quán người Hoa tại Hội An
113. 
Chương Thâu
Giới thiệu PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP (bản dịch tiếng Việt)
114. 
Ngô Đức Thọ
Phát hiện mới về di văn và di vật của trạng nguyên Lê Văn Thịnh
115. 
Nguyễn Cung Thông
Tản mạn về từ Hán Việt - áp dụng phiên thiết (phần 9)
116. 
Đinh Khắc Thuân
Thơ vua Lê đề Lục Vân động (Thanh Hóa)
117. 
Trương Thị Thủy
Giới thiệu hai bức thư phúc đáp của Lang trung bộ Binh Phan Duy Thanh và Phạm Đình Toái
118. 
Đoàn Thị Thu Thuỷ
Giới thiệu bản phụng thượng dụ về việc đổi tên Trấn Vũ quán thành Chân Vũ quán trên Châu bản triều Nguyễn
119. 
Nguyễn Văn Thư - Nguyễn Xuân Cao
Về cuốn sách Hán Nôm "Văn chầu Tiên Thánh" mới hiến tặng Bảo tàng Nam Định 
120. 
Dương Xuân Thự
Một ngộ nhận đáng tiếc trong thi cử dưới triều Nguyễn và nhân cách một nhà Nho
121. 
Phạm Văn Thưởng
Hệ thống bia đá tại chùa Bảo Phúc thôn Đồng Lâm, xã Quỳnh Phú, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
122. 
Kiều Thị Thơm
Tấm bia “Sự tích bi ký” ở chùa làng Cổng
123. 
Thích Minh Tín
Giới thiệu tư liệu Hán Nôm ở chùa Nhạc Lâm xã Tân Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội
124. 
Nguyễn Đức Toàn - Thích Minh Tín
Tư liệu Hán Nôm đền Kính Thiên xã Lại Yên, Hoài Đức, Hà Nội
125. 
Tuấn Tú
Về bản chúc thư “Chí chúc vĩnh thùy” bằng đồng tại nhà thờ Vũ Công (miếu Tây thôn Đại Đê, xã Đại An, huyện Vũ Bản, tỉnh Nam Định)
126. 
Nguyễn Thanh Tùng
Một số vấn đề văn bản bài “tựa Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương
127. 
Nguyễn Minh Tuân
Tám đạo sắc cấp cho Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường
128. 
Phạm Văn Tuấn
Về bài tựa “Thiền điển thống yếu kế đăng lục” trong “Liêu Trung xã cổ tự chỉ”
129. 
Võ Thị Ánh Tuyết
Hai tấm bia ở hậu điện hội quán Phúc Kiến (Hội An – Quảng Nam)
130. 
Nguyễn Thị Tuyết - Phạm Văn Thưởng
Bản thần tích khắc trên biển gỗ tại đình Ngọc Khám, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh
131. 
NNguyễn Đông Triều
Hoành phi, đối liên ở Thị xã Gò Công và nội dung của đối liên trong một số ngôi chùa ở vùng đất ấy
132. 
NNguyễn Quang Trung
Tìm hiểu hương ước làng Phương Quế qua tư liệu Hán Nôm
133. 
Lê Quốc Việt
Văn bia “Tân tạo đình từ bi ký” (Bia ghi về việc làm mới lại đình, đền)
134. 
Nguyễn Thị Việt
Tấm bia đá ở di tích lịch sử đình Bá Vân (Thái Nguyên)
135. 
Phạm Thị Thùy Vinh
Địa danh hành chính huyện Từ Liêm từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
136. 
Phạm Thị Thùy Vinh và các cộng sự phòng NC Văn khắc
Về văn bản trên khu bia mộ Mường Đống Thếch Hòa Bình
137. 
Trần Thúy Vinh – Nguyễn Hữu Tưởng
Báo cáo toàn văn Mối quan hệ giữa các ngôn ngữ Thái – Việt – Hán thông qua các từ chỉ số lượng và một số trợ từ
138. 
Hoàng Kim Vũ
Giới thiệu bốn đạo sắc pong thời Mạc và quyển gia phả họ Hoàng xã Hữu Tiệm huyện Vũ Tiên
139. 
Nguyễn Thị Hoàng Yến
Giới thiệu tục lệ xã Thượng Cát huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội
140. 
Nguyễn Ngọc Yến
Nên đọc tên tác gia là Bùi Văn Dị hay Bùi Văn Tự (1833- 1895)
141. 
Nguyễn Vân Yên
Về văn bản Hán Nôm lời giáo phường múa rối Thẩm Rộc ATK Định Hóa (Thái Nguyên)

7 nhận xét :

  1. Nếu từ thời phôi thai chữ Nôm bị miệt thị là " nôm na cha mách qué " thì sau này chữ Nôm đã tiến lên địa vị là ngôn ngữ chính thức của các thi sĩ VN. Những tên tuổi nổi bật như Nguyễn Du , Đoàn thị Điểm , Hồ Xuân Hương ... cuối tk 18, đầu tk 19 và cứ thế thơ Nôm phát triển thật nhanh và thật rực rỡ với những Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Đầu tk 20, văn Nôm không chỉ là thơ mà còn là văn xuôi nhưng mặc áo chữ Quốc Ngữ cho đến Tự Lực Văn Đoàn, thơ văn Nôm bị đẩy lùi vào quá khứ ! Chữ Nôm là biểu thị tinh thần dân tộc của VN . Nó cũng giống như chữ Nhật của người Nhật, chữ Hàn của người Hàn đều dựa trên cơn bản là chữ Hán. Người Hoa, Việt, Nhật, Hàn trong tiếng nói thì không hiểu nhau nhưng bút đàm bằng chữ Hán thì hiểu nhau dễ dàng và rất gần nhau .
    Hán Nôm trở thành cái nền cho Văn Hiến Việt Nam. Chữ Nôm không chỉ là thơ, nhưng chữ Nôm là cách suy nghĩ và diễn đạt triết lí , tư tưởng của người bình dân VN biểu thị qua ca dao tục ngữ . Cái nền móng thật sâu và vững chắc này không thể bỏ qua được . Nghiên cứu Hán Nôm có khác nào khai thác cái mỏ vàng ngàn năm của dân tộc Việt ! Thơ văn Hán Nôm là cái hồn dân tộc làn tỏa trong máu người Việt nối kết người Việt từ Nam Quan tới Cà Mau, Rạch giá , Hà Tiên. Thơ Văn Hán Nôm trở thành xương sống và máu thịt của dân tộc Việt mãi mãi trường tồn trong văn học dân gian lan sang các lãnh vực ca kịch , tuồng hát . Văn Nôm ở miền Nam pha lẫn với tiếng đàn cò, tiếng ghi ta phím lõm, tiếng đàn độc huyền của các nghệ sĩ dân gian ! Ôi, Văn Nôm thật dễ thương và thú vị !

    Trả lờiXóa
  2. SAO KHÔNG THẤY TS NGUYỄN XUÂN DIỆN ?

    Trả lờiXóa
  3. Thật là phấn khởi. Số lượng báo cáo khoa học năm nay nhiều hẳn lên so với năm ngoái nếu tôi không nhớ lầm. Đội ngũ các nhà Hán Nôm học thấy cũng xuất hiện tên nhiều vị mới. Rất vui. Cứ đà này thì rất hứa hẹn một mùa gặt lớn trong tương lai gần. Hy vọng lắm các bác ạ.

    Trả lờiXóa
  4. Mỗi lần nghe tin Hội nghị Thông báo Hán Nôm học là tôi lại tặc lưỡi tiếc rẻ. Rất mong Viện Nghiên cứu Hán Nôm đủ mạnh để có thể xuất bản được tạp chí định kỳ cũng như các tác phẩm (phim, ảnh, tài liệu...) - online cũng được - với nội dung sao cho vừa có giá trị chuyên môn lại vừa hấp dẫn được bạn đọc đại chúng gần xa. Được thế, Viện có thể có được một nguồn thu đáng kể để tài trợ thêm cho những nghiên cứu sâu rộng hơn vốn rất cần. Tôi hy vọng đồng bào ở hải ngoại sẽ là "khách hàng" đáng kể.
    Hic, có phải tôi mơ mộng quá không?

    Trả lờiXóa
  5. Bấy giờ tôi mới thấy hán Nôm (HN) nó là nền tảng của nền văn hiến nước nhà. Thịnh suy cũng ở đây. Tốt xấu cũng ở đây. Các nhân tài cũng ở đây kể cả tiền nhân lẫn người đương thời. Tôi có cảm giác người HN mang trong người các chuẩn mực đạo đức và nhân thế. Không khơi dậy HN thì không thê phục hưng được đất nước. Miệt thị nó chính là tội đồ của phản quốc. Không nghiên cứu để cải tạo bản thân và đất nước là tạo phản dân tộc. Đưa nó lên ngang với vị thế chính trị chính là thay đổi cuộc sống này.

    Trả lờiXóa
  6. Thưa tiến sĩ Diện,
    Ông nội tôi là cụ Ngô Lập Chi, trước công tác ở bộ phận phiên dịch Đại học Tổng hợp Hà Nội. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc có nhã ý tang tôi bản chụp Phủ biên tạo lục do ông tôi dịch (số đăng ký VT 180). Tôi cũng có mua được quyển Truyền kỳ tân phả (cũng do ông tôi dịch). Nay thấy tiến sĩ có bài thuyếtt trình trong hội nghị này, tôi mạn phép xin tiến sĩ bài thuyết trình với hy vọng biết them về đề tài này và cũng hy vọng trong dach mục có them bản dịch của ông tôi tôi chăng.
    Ngô Lâm
    Viện Đông Nam Á (KITLV)
    Leiden - Hà Lan

    Trả lờiXóa