PGS.TS Nguyễn Công Việt – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, Cựu sinh viên Ngành Hán Nôm Khóa 1 (K17 – Khoa Ngữ Văn – Đại học Tổng
hợp Hà Nội):
BỐN MƯƠI NĂM NHỚ THẦY, NHỚ BẠN
Nguyễn
Công Việt
Đi bộ hết con
đường đất đỏ, tôi leo lên đê lần đầu nhìn dòng sông Cầu trong xanh lặng lẽ trôi
dòng xuôi về hướng biển. Bến đò chiều Đông vắng ngắt thấp thoáng những khóm tre
mái rạ lờ mờ trong khói sương tà; Qua đò sang sông là đã đến được địa điểm tập
trung thôn Ngọ Phúc, huyện Hiệp Hòa. Cái tên bến đò Đông Xuyên, thôn làng Ngọ
Phúc, Ngọ Khổng, Sát Thượng, Chính Trung thuộc đất Kinh Bắc xưa là những địa
danh đầu tiên lưu lại trong ký ức của tôi ngày tựu trường 40 năm trước.
Ngày ấy khóa 17
Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội của chúng tôi có hơn 100 người, được đăng
ký phân vào ba chuyên ngành Văn, Ngữ và Hán Nôm. Văn, Ngữ đã có sẵn từ trước trước
nên nhiều bạn không phải đắn đo, riêng Hán Nôm là khóa đầu nên các thầy phải bỏ
công đi giới thuyết, chiêu mộ. Cuối cùng cũng được 13 trò, trong đó có tôi là
kẻ chưa có một chút khái niệm nào về Hán Nôm mà chỉ làm theo sự hăng hái của
mấy bạn mới quen. Duyên nghiệp định phận từ ngày ấy tới hôm nay, trước tiên
phải kính cẩn nhắc đến quý danh của các thầy Nguyễn Đình Thảng, Lê Văn Quán,
Đinh Gia Khánh, Trần Thuyết, Nguyễn Văn Tu… là những người thầy hướng đạo buổi đầu
nhập môn cho lớp thiếu niên mới trưởng thành.
Buổi học đầu tiên
của chúng tôi vào tiết Đông chí năm Nhâm Tý 1972, đúng đợt gió Bắc giá lạnh ở
ngôi đình hoang xơ xác không cửa. Ghế ngồi của trò là những đệm rơm nắm rạ, bàn
viết là đôi đầu gối chụm thành. Còn thầy chỉ có cách đứng, cấm chỉ ngồi vì
nếu ngồi sẽ bệt xuống đất như trò. Người thầy khai tuệ cho tôi những nét chữ
đầu tiên là thầy Nguyễn Đình Thảng. Những chữ nhập môn ấy là chữ Nhân,
chữ Thiện trong Nhân chi sơ, tính bản thiện. Cái thiện lương bản
căn con người như luôn nhắc nhở theo sát bên chúng tôi – những người theo
nghiệp Hán Nôm suốt mấy chục năm ròng.
Những tháng ngày
nơi sơ tán vất vả đào hầm trú ẩn, vận chuyển kho sách, lương thực, giúp dân
trồng trọt thu hoạch… Rồi chứng kiến 12 ngày đêm máy bay Mỹ dội bom xuống Hà
Nội, pháo ta bắn, bom đạn như mưa, lửa rực ngút trời đêm… Đến sự học phòng lớp
chẳng có, những buổi học nơi đình hoang, lúc nhà kho, khi lều gianh vách đất.
Lớp không ghế không bàn, cũng không cửa che gió mưa, song không bao giờ thiếu
một trò nào. Ở tuổi mới lớn cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, nhưng vẫn hồn
nhiên hăng hái. Những ngày khói lửa, gian nan cơ cực thủa ấy chẳng bao giờ quên
trong tâm trí mỗi người.
Sau Hiệp định Paris, hòa bình được ký
kết đối với miền Bắc, quý I năm 1973, Đại học Tổng hợp Hà Nội lại được trở về
với Thủ đô. Khoa Ngữ Văn về với Mễ Trì, song buổi đầu phải tá túc bên Đại học
Ngoại ngữ. Những thiếu thốn về vật chất vẫn không làm nản lòng lớp sinh viên
trẻ. Rồi chúng tôi cũng trải qua năm thứ nhất với các sách Tam tự kinh, Sơ
học vấn tân, Minh tâm bảo giám, Ấu học ngũ ngôn thi… cùng một số môn học
chung khác.
Thầy dạy chúng tôi
ở Khoa Ngữ Văn khá nhiều nhưng dạy riêng về Hán Nôm chỉ có ba thầy chính là
Nguyễn Đình Thảng, Lê Văn Quán và Trần Thuyết. Đến năm thứ ba và thứ tư, chúng
tôi may mắn được thụ giáo các thầy Cao Xuân Huy, Đỗ Ngọc Toại và Trương Đình
Nguyên. Những thầy giỏi chữ Hán song dạy các môn quan trọng khác như thầy Đinh
Gia Khánh, Nguyễn Tài Cẩn, Trần Đình Hượu, Bùi Duy Tân, Hà Văn Tấn, Phan Huy
Lê, Trần Quốc Vượng. Trong đó hai thầy cao niên nhất là Cao Xuân Huy và Đỗ Ngọc
Toại mà chúng tôi luôn kính cẩn gọi là Cụ, bởi hai bậc tiền bối này tuổi
tác ngang với ông bà mỗi đứa.
Phần cơ bản của Đại
học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử của Tứ thư chúng tôi học trong
năm thứ hai do các thầy Nguyễn Đình Thảng, Lê Quán và Trần Thuyết giảng, bên
cạnh có bổ sung học phần chữ Nôm. Phần Ngũ kinh được học năm thứ ba
nhưng thực tế chỉ có hai kinh là Kinh Thi và Kinh Thư. Kinh Thi do Cụ Đỗ Ngọc
Toại dạy và Kinh Thư được Cụ Cao Xuân Huy dạy. Lúc này hai Cụ đã già yếu song
không tiết nào bỏ lên lớp mà lác đác chỉ thấy trò vắng mặt mà thôi. Khi ấy lớp
tôi có thêm 2 đồng môn là cô Niệm (phu nhân của thầy Hoàng Xuân Nhị -Chủ nhiệm
khoa) và thầy Lê Khánh Xoa (giáo viên Đại học Sư phạm Hà Nội).
Năm thứ 2 và thứ 3
chúng tôi được đi thực tế để nâng cao tri thức. Nơi thực tế đến là các huyện
Hải Hậu, Xuân Trường, Giao Thủy tỉnh Nam Định. Thầy Thảng là Chủ nhiệm lớp nên
luôn đi cùng dạy bảo lứa học trò Khóa 1 với một vài trò cũng khá lập dị. Cầu
Lạc Quần ngày ấy còn là bến phà xác xơ nối với con đường đá dăm mịt mù đất bụi.
Những tên làng xã Hành Thiện, Xuân Bắc, Xuân Trung được chúng tôi ghép vào chữ
thầy kiểu “Tại Xuân Bắc, Xuân Trung, tại chỉ ư Hành Thiện” để vui đùa, cũng
được thầy hòa đồng.
Lần đầu tiên chúng
tôi được tiếp xúc với hiện vật Hán Nôm là bắt đầu từ hoành phi, câu đối. Những
dòng văn khắc trên bia, minh văn trên chuông, khánh, cuốn thư, tuy hồi đó hiểu
còn chưa kỹ song ý thức về văn hóa Hán Nôm của chúng tôi đã được khai mở. Hán
Nôm không chỉ có trên tư liệu thư tịch giấy tờ mà còn sống động trên tư liệu
hiện vật với các chất liệu khác như bia đá, chuông đồng, biển gỗ… tồn tại khắp
các di tích ở nhiều địa phương khác nhau.
Lớp chúng tôi có
13 người là Trần Kim Anh, Nguyễn Duy Chính, Nguyễn Hải Đường, Cao Văn Dũng (tức
Cao Tự Thanh), Nguyễn Thị Lâm, Trần Thị Liên, Nguyễn Thúy Nga, Hoàng Thị Ngọ,
Trương Đức Quả, Võ Văn Sạch, Nguyễn Hữu Tưởng, Trần Xuân Viết và tôi. Sàn sàn
cùng lứa, người nhiều tuổi nhất sinh năm 1953 và thấp nhất là năm 1956. Con số
13 phải chăng có gì tâm linh mà học nửa chừng thì Quả phát bệnh phải nghỉ một
năm, và năm 1975 sau giải phóng, Dũng thôi học về Nam. Năm thứ 4 làm khóa luận tốt
nghiệp chỉ còn 11 người, và chúng tôi đều bảo vệ thành công vào cuối năm 1976.
Ra trường từ giữa
năm 1977, lớp chúng tôi đã được phân công công tác ngay. Chính ở lại Trường
giảng dạy; Sạch, Đường, Viết nhận việc ở Cục Lưu trữ, sau đó Đường và Viết vào
Trung tâm Lưu trữ I ở Sài Gòn. Liên về Sở Văn hóa Thanh Hóa. Năm người Anh,
Nga, Ngọ, Tưởng và tôi về Ban Hán Nôm thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Một năm
sau khi Quả, Dũng (ra Bắc học tiếp) tốt nghiệp, Quả và Lâm về Ban Hán Nôm, còn
Dũng biên chế tại Viện Khoa học Xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Nói đến quá trình
hình thành đi lên của chuyên ngành Hán Nôm thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
không thể không nói tới sự hình thành phát triển của Ban Hán Nôm. Ban Hán Nôm
được thành lập năm 1970, năm 1977 đón nhận lớp Hán Nôm Khóa 1, đến năm 1978,
Ban được tăng cường một số sinh viên lớp Hán Nôm Khóa 2 của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội. Đó là những anh em đồng khoa như Trịnh Khắc Mạnh, Đinh Công Vĩ, Đỗ
Thanh Hồng (Anh Đỗ Thanh Hồng sau chuyển sang Viện Xã hội học và qua đời khoảng
10 năm sau đó); Năm 1980 bổ sung thêm Nguyễn Doãn Tuân, Phạm Thùy Vinh của Khóa
3. Năm 1979, Ban Hán Nôm được nâng lên thành Viện Nghiên cứu Hán Nôm với chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức nhân sự phong phú hơn trước. Song đúng vào giai đoạn kinh
tế đất nước khó khăn nhất nên cơ sở vật chất thiếu thốn nhiều. Là Cơ quan khoa
học hàng đầu nhưng không có được một tờ Tạp chí chuyên ngành. Mãi đến năm 1984,
mới có Tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm được xuất bản khổ nhỏ và đến 1986 mới
chính thức ra đời số 1 của Tạp chí Hán Nôm.
Ngót 10 năm trời
về Ban rồi Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không có điều kiện và may mắn
được công bố nghiên cứu, mà đối với mỗi cán bộ nghiên cứu thước đo chính là
những bài viết, công trình nghiên cứu và xuất bản. Cái nghèo nàn lạc hậu đã kéo
lùi bánh xe lịch sử ít nhất một, hai chục năm trời. Điều này không riêng chỉ
Hán Nôm mà thấy ở nhiều lĩnh vực khác. Đồng thời ở đây là chỉ tiêu biên chế
không đạp ứng được đầu ra trong công tác giáo dục đào tạo. Nhiều khóa Hán Nôm
tiếp sau nữa không được về đúng cơ quan chuyên môn mà phải tan tác đi khắp nơi
làm những việc không hợp với chuyên ngành.
Hơn mười năm trời
đóng cửa không nhận sinh viên tốt nghiệp Hán Nôm. Mãi đến năm 1993 mới rục rịch
bổ sung cho lớp người về hưu thì một số sinh viên từ Khóa 33 Khoa Ngữ Văn mới
có cơ hội về Viện. Lứa sinh viên hăng hái như Nguyễn Xuân Diện, Cao Việt Anh,
Đào Phương Chi, Lê Thu Hương tiếp nối cùng lứa sinh viên trẻ nhiệt huyết về sau
bổ sung cho lớp cao niên ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm sắp nghỉ. Theo thống kê sơ
bộ, có phòng nghiên cứu tuổi đời bình quân tới ngót 50. Từ đó đến nay, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm đã đáp ứng được phần nào đầu ra của chuyên ngành Hán Nôm, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. Đã có thêm hơn 30 sinh viên từ Khóa
43 về sau trở thành cán bộ nghiên cứu của Viện. Hiện nay ba phần tư số cán bộ
của Viện Nghiên cứu Hán Nôm được đào tạo từ mái trường Đại học Tổng hợp xưa –
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn nay.
Công tác đào tạo
Sau đại học của Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho đến năm 1993 mới được chính thức
hóa với khóa đào tạo ngắn hạn lớp Phó Tiến sĩ. Viện có 12 người tham gia trong
đó có 7 người lớp Hán Nôm Khóa 1 đến Khóa 3. Bên cạnh các anh được đào tạo Phó
Tiến sĩ ở Nga, những lớp Hán Nôm này một số đã được phong học hàm Phó Giáo sư.
Năm 1997, khóa đào tạo Cao học Hán Nôm đầu tiên đã đào tạo thành công hơn 20 Thạc
sĩ. Sau đó theo quy chế mới, Viện kết hợp với Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn trong đào tạo Thạc sĩ, trong đó Trường giữ vai trò chủ đạo. Từ đó đến nay,
sự liên kết đào tạo chuyên ngành Hán Nôm giữa Trường và Viện được thực hiện khá
nhịp nhàng, đã có mấy chục học viên cao học bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ.
Không ngừng phấn đấu, những Thạc sĩ sau đã trở thành Tiến sĩ, tính từ lớp
Nguyễn Hữu Mùi đến lớp trẻ Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan, Nguyễn Thị Hường,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có thêm gần 10 Tiến sĩ.
Bên cạnh công tác
đào tạo Sau đại học, việc giảng dạy các khóa sinh viên chuyên ngành Hán Nôm
Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn cũng được các cán bộ chuyên
gia của Viện tham gia tích cực, trong đó có các anh chị Hán Nôm Khóa 1,2 và 3.
*
*
*
40 năm qua, thành
tựu khoa học văn hóa Hán Nôm của những lớp người Hán Nôm từ cựu sinh viện Khóa
1 đến nay thật to lớn. Hàng trăm công trình khoa học đã xuất bản, hàng nghìn
bài viết đã công bố… và biết bao thành tích khác nữa không thể kể hết ra được.
40 năm qua, mái
tóc xanh của lớp thiếu niên ngày nào nay đã trắng màu sương tuyết, những nếp
nhăn thời gian trên gương mặt mỗi người không làm mất hẳn nét hồn nhiên chân
tình mỗi khi họ có dịp tụ hội hoài niệm về một thời đã qua. Tưởng nhớ đến các
bậc thầy tiền bối như Cao Xuân Huy, Đỗ Ngọc Toại và các thầy khai cơ như Nguyễn
Đình Thảng, Đinh Gia Khánh, Trần Thuyết, Nguyễn Tài Cẩn, Bùi Duy Tân cùng các
thầy cô khác…, chúng ta không quên tên tuổi của các anh chị lớp sư huynh, sư đệ
đầu tiên đã theo về cùng thầy học là Nguyễn Duy Chính, Đỗ Thanh Hồng, Đào Văn
Khải, Nguyễn Thị Hồng Minh. Nỗi nhớ thương còn gửi đến Tân Tiến sĩ Nguyễn Thị Hường,
sinh viên Hán Nôm Khóa 43 – Gương mặt trẻ tiêu biểu của Đại học Quốc gia Hà Nội
năm 2002, Chị ra đi khi còn đầu xanh tuổi trẻ. Tất cả đã để lại cho đời những
tác phẩm và công trình khoa học có giá trị không chỉ của lĩnh vực Hán Nôm mà
cho cả khoa học xã hội và văn hóa dân tộc.
Tháng 11/2012
PGS.TS Nguyễn Công Việt
Nguồn: Khoa Văn học.
Tôi thường xuyên vào trang của TS. Nguyễn Xuân Diện. Hôm nay đọc bài của PGS. TS. Nguyễn Công Việt, tôi rất cảm kích và trân trọng tình cảm thấy trò, tình bạn bè của các anh chị khoa Ngữ văn ĐHTH HN cũ.Cám ơn anh Việt còn nhớ đến chồng tôi- anh Đỗ Thanh Hồng. Tôi sẽ giới thiệu cho các con tôi đọc bài này để chúng biết lớp cha chú đã học tập và sống có tình nghĩa như thế nào.
Trả lờiXóaTôi rất muốn liên lạc được với anh Trịnh Khắc Mạnh. Vì tôi ít khi về Hà Nội nên mong anh Mạnh liên lạc với tôi qua email: quynhnhu50@yahoo.com
Chúc các anh chị em ngành Hán Nôm đạt được nhiều thành tựu để dóng góp cho sự phát triển văn hóa nước nhà.
Mình xin bác Diện bài này đưa về trang nhà, mình và Việt cùng chung khóa.
Trả lờiXóa