Các bài học Munich và những nơi khác: Đẩy lùi nổi sợ để cứu đất nước
André Menras, Hồ Cương Quyết
Nguyên Ngọc dịch từ nguyên văn tiếng Pháp.
Nhiều đồng bào Việt kiều Đức của chúng
ta đã tường thuật trên Internet: cuộc biểu tình ở Munich ngày 20 tháng mười, chống bành trướng Trung Quốc, các buổi chiếu ở Munich và Nurnberg
bộ phim tài liệu « Hoàng Sa Việt Nam, Nổi đau mất mát » – vẫn luôn bị
cấm ở Việt Nam – đã thật sự thành công.
Được mời tham dự các hoạt động ấy, tôi
đã là đối tượng của một sự đón tiếp bất ngờ và rất cảm động của những
người những người bạn trước đó chưa từng quen. Ở Munich : căn nhà với
các phòng bằng kính nơi trồng một cây thông Alep cao 3 mét và một cây
chuối trổ những quả chuối Việt Nam tại ngay trung tâm thành phố Đức đẹp
đẽ này. Ở Nurnberg : phòng ngủ khắc khổ mà thịnh tình của chùa phật giáo
Vĩnh Nghiêm nơi đứng cạnh nhau là tượng vua Hùng Vương và tượng Đại đế
Carolus (Karl der Groβe). Hai nơi thật khác biệt song đều thấm đượm cùng
một không khí thanh tịnh bình thản và mạnh mẽ, hòa nhập đến tận cùng
với đất nước tiếp nhận chúng mà vẫn sâu đậm tâm hồn Việt Nam quê hương.
Một cuộc biểu tình tuyệt đẹp !
Cuộc tuần hành ở Munich thật mẫu mực về
tư thế. Khởi đầu là một giờ phát biểu của các bộ phận tham gia tổ chức
trước quảng trường Đại học. Bốn chiếc xe cảnh sát địa phương cực kỳ thân
thiện và sẵn sàng bảo vệ theo suốt, đoàn người đã tuần hành trong hai
giờ liền, yên tĩnh và vui vẻ trên ba cây số của đại lộ lớn nhất của
Munich nối liền trường Đại học với các con đường đông người qua lại ở
trung tâm thành phố. Tại đấy, trước hàng trăm người qua đường và những
người Đức tò mò đã biến thành khán giả, lại có một cuộc phát biểu mới,
kéo dài một tiếng đồng hồ. Trên những tấm băng rôn lớn màu xanh là những
khẩu hiệu được suy tính rất kỹ, chữ trắng, bằng tiếng Việt, tiếng Anh
và tiếng Đức, tố cáo chính sách bành trướng của những người lãnh đạo Bắc
Kinh. Tấm bản đồ Việt Nam lớn, với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
nổi bật, được giương lên kiêu hãnh ở đầu đoàn người. Những tấm băng rôn
dài được bố trí dọc hai bên, thuận tiện cho người qua đường có thể đọc,
trong khi các cô chủ nhà duyên dáng mặc áo dài và đội nón lá truyền
thống vừa phân phát những tờ gấp có minh họa và in tiếng Đức, vừa giải
thích cho họ lý do và mục đích của cuộc biểu tình.Một hoạt náo viên nang
nổ và vui vẻ dùng loa hô vang các khẩu hiệu được mọi người đáp
lại : « Hoàng Sa, Trường Sa, của Việt Nam ! », « Tôi yêu Việt Nam ! »
Hoang Sa, Truong Sa, mein Vietnam ! » « I love Vietnam ! », « Wir lieben
Vietnam ! ».Những bài hát dân gian tuyệt vời, cũng tuyệt vời như vô số
áo dài và những nụ cười khiến đoàn người rực rỡ sắc màu, biến cuộc biểu
tình thật sự trở thành một buổi trình diễn đường phố vừa đậm đà văn hóa
vừa rất chinh trị, mang lại cho thông điệp chống xâm lược Trung Quốc của
chúng ta một sức hấp dẩn và thuyết phục sống động và đầy truyền cảm.
Một thành công. Một thành công lớn sẽ được đánh dấu trong lịch sử phong
trào chống xâm lược kiểu mới của Trung Quốc. Một tham khảo cho tương
lai, ở Munich và những nơi khác. Nói về điều này, một người bạn của tôi
đã gọi đấy là « tinh thần Munich ». Chính xác là vậy. Nhưng tinh thần
của « tám người Munich » là trái ngược với cái tinh thần mà Lịch sử đã
ghi lại.
Quả thật về mặt lịch sử, Munich là ký ức
buồn. Chình trong thành phố này, tháng chín năm 1938, những người đại
diện của Pháp và Anh đã ký với Hitler một hiệp ước nhục nhã sẽ mở cửa
cho tên độc tài lao vào cuộc xâm lược bành trướng trên toàn bộ châu Âu.
Họ tưởng nhân nhượng cho nước Đức của Hitler sáp nhập bằng vũ lực Tiệp
Khắc thì sẽ xoa dịu được sự hung hăng bành trướng và hiếu chiến của
chúng. Họ tưởng đã cứu vãn được hòa bình bằng cách phản bội quyền của
các dân tộc, trong thực tế họ dọn đường cho chiến tranh ! Sợ hãi không
đẩy xa được hiểm nguy. Hèn nhát cũng không. Trái lại, là khuyến khích
nó. Tại Munich, về điều này lịch sử đã cho một bài học đau đớn : không
thể ký hòa ước với chủ nghĩa bành trướng, nhất là khi nó được tuyến bố
rõ ràng và ta là nạn nhân đầu tiên của nó !
Nhưng, rất thận trọng trong so sánh,
tinh thần của « tám người ở Munich », những người đã hoàn toàn độc lập
tổ chức cuộc biểu tình và chiếu phim HSVNNDMM, không phải là tinh thần
cúa sợ hãi cũng không phải của hổ thẹn.
Tôi có thể làm chứng cho tinh thần ái
quốc bất diệt của tám đồng bào này. Và tôi có thể nói lòng ái quốc ấy
phải đạt đến một sức mạnh kỳ lạ để có thể cho phép họ vượt qua các khác
biệt, các đối lập của họ, vượt qua những vết thương quá khứ, vẫn mãi tứa
máu, để kháng cự lại những đe dọa trực tiếp hay ngụy trang, và đôi khi
cả những lời thóa mạ mà họ là nạn nhân của cả hai phía.
Họ nằm trước làn đạn kín đáo mà hoàn
toàn có thực của một chế độ run rẩy cứ đeo bám đến thảm hại « 16 chữ
vàng » với lại « 4 tốt » của lũ cướp biển Bắc Kinh (« Hội người Việt » ở
Stuttgart đã từ chối hợp tác với Munich để chiếu bộ phim HSVNNDMM). Họ
đã nhận được những lời đe dọa hung hăng hay được phát biểu một cách tế
nhị hơn của những người lãnh đạo một cộng đồng thuyền nhân khăng khăng
trương ngọn cờ đầy đắng cay của mình lên trên trách nhiệm bảo vệ dân
tộc. Bao nhiêu nhân nhượng, bao nhiêu thảo luận hăng say, mà cũng biết
bao nhiêu khoan dung, thương mến, bao nhiêu tình yêu đất nước. Bao
nhiêu trách nhiệm và can đảm ở tám người đàn ông và đàn bà hữu trách ấy.
Cho đến nay tôi chưa bao giờ được chứng kiến một sự chín muồi mang tính
người và về chính trị đến như vậy từ những con người đã từng qua những
trải nghiệm sống khác nhau sâu đậm đến thế. Thấy tôi ngạc nhiên về điều
đó lúc dự cuộc họp tổ chức cuối cùng của họ hôm trước ngày tuần hành,
một người trong số họ mỉm cười trả lời tôi : « Chúng tôi học dân chủ ».
Vâng, bạn ạ, dân chủ, đẹp đẽ biết bao, khó khăn biết bao để dân chủ
được sinh thành, mong manh biết bao cho ta phải giữ gìn nó, và đắt giá
biết bao để nuôi cho nó lớn lên ! Nó chỉ có thể ra đời và lớn lên trong
dũng cảm. Đẹp đẽ biết chừng nào là bài học về cuộc chiến đấu dân chủ mà
những người bạn ở Munich đã cho chúng ta. Họ đã thắng nổi sợ hãi để
giải phóng được lời nói và hành động, để bảo vệ Việt Nam,
Thắng những nổi sợ
Tôi đã bao nhiêu lần cận kề với nổi sợ
chế độ ấy ở trong nước : sợ bị đe dọa, bị theo rỏi, bị ngược đãi, sợ bị
mất việc, sợ thấy người thân của mình bị gây khó khăn trong công việc,
trong học tập, sợ bị bắt, bị tống vào tù … cái nổi sợ chế độ, thậm chí
lại được thay thế bằng các sứ quán mà ta sợ các hành động khủng bố hành
chính tại chỗ hoặc các báo cáo về trong nước có thể khiến ta không còn
gặp lại được gia đình, bạn bè. Cái mũ đáng sợ sẽ nhanh chóng xuất hiện:
« diễn biến hòa bình », « thế lực phản động » …
Một loại nổi sợ khác mà tôi từng được
chứng kiến khi gặp các cộng đồng Việt kiều, cũng hiện diện rất rõ ở
« phe bên kia », trong cái phe muốn tự coi mình vừa là nạn nhân đặc
quyền của chiến tranh và là người đặc quyền nắm giữ dân chủ. Nổi sợ này
được nuôi dưởng bởi các nhóm cực đoan, quả là rất thiểu số nhưng có thể
có hành động bạo lực và các hình thức gây sức ép khác. Ở những chỗ ấy
bốc lên mùi vị của một nổi hận thù thật sự, giống như nổi hận thù tôi
từng phải chịu đựng trong tù. Một nổi thù hận mù quáng được nuôi dưỡng
bằng những trải nghiệm đau đớn, đã đóng băng trong ký ức. Một nổi thù
hận muốn trở thành vĩnh cữu và đòi phải đáp trả. Chỉ cần ta ghé tai về
phía bên kia một chút là lập tức bị khoác cho một cái mũ khác : « phản
bội », « chơi trò cộng sản », « cộng sản nằm vùng » …
Để không mất mình và để bảo vệ đất nước
Những nổi sợ ấy, dù đến từ đâu, là một
tai họa thật sự đối với con người, với xã hội và quốc gia. Chúng là tội
ác vì chúng giam hãm người ta trong tình trạng bất động đồng nghĩa với
đồng lõa với bất công, với bạo lực tùy tiện, với tham nhũng mang tính
chất mafia chính trị, với tình trạng đất nước bị uy hiếp. Chúng sĩ nhục
và thiến hoạn con người vì chúng bóp nghẹt niềm kiêu hãnh công dân và ái
quốc, cùng ý chí sáng tạo cái mới. Chúng hủy hoại nhân tính và đẩy một
số người vào tuyệt vọng. Đôi khi được biện minh là phản xạ tự vệ, cuối
cùng chúng có tác dụng tự hủy hoại. Ở cấp độ quốc gia, chúng gây ức chế
và chỉ nuôi dưỡng sự bất động có lợi cho tất cả hành vi xâm lược của
Trung Quốc và cho những kẻ tiếp tay hay ủng hộ các cuộc xâm lược ấy mà
không bị trừng phạt. Các nổi sợ hãi tước vũ khí của con người !
Tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam mong
muốn hòa giải, thống nhất dân tộc trong một nền hòa bình mà mình làm
chủ. Đấy là nhu cầu sống còn của đất nước để có thể đối mặt với thách
thức khủng khiếp của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc hau háu tài nguyên
thiên nhiên và con người, tàn phá các căn tính văn hóa, chỉ mang đến
bạo lực và chiến tranh … Đất nước cần điều đó để chiến thắng nạn dịch
tham nhũng, để thắng tình trạng đói nghèo vẫn còn đó.
Thắng những nổi sợ hãi ấy để hành động
chặt chẽ cùng nhau trong một cuộc chiến đấu thật sự với chính mình và vì
đất nước. Một cuộc chiến đấu nhất thiết phải thắng để không mất đi tất
cả. Kể cả đánh mất chính mình. Một chiến thắng cần thiết và khả thể.
Đấy là bài học mà nhóm tám người ở
Munich, và cả những người ở Berlin, Kholn, Praha, Warsava, Leipzig,
Hannover, Frankfurt-Offenbach, Sarrebruken, Nurnberg, Toulouse, Lyon,
Paris… đã cho chúng ta … Thắng nổi sợ hãi như các đồng bào của chúng ta
ở Bình Châu và Lý Sơn mỗi lần họ ra khơi trên vùng biển Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam để mưu sinh. Thắng nổi sợ hãi như các bạn của
chúng ta ở Sài Gòn và Hà Nội đã xuống đường để bảo vệ tổ quốc mình.
Cám ơn tất cả, tất cả các bạn của tôi, đã nuôi dưởng tôi thêm mỗi ngày bằng dũng khí của các bạn.
Ôi, tôi còn quên một chuyện : trong hai
ngày, các đồng bào của chúng ta đã góp ủng hộ các ngư dân, góa phụ và
trẻ mồ côi 5300 ơ-rô !
—
Leçons de Munich et d’ailleurs : faire reculer la peur pour sauver le pays.
Nos compatriotes Viet Kieu allemands en ont déjà rendu compte sur
internet : la manifestation de Munich, le 20 octobre, contre
l’expansionnisme chinois, la projection à Munich et à Nurnberg du film
documentaire « Hoang Sa Vietnam Noi Dau Mat Mat »-toujours empêché au
Vietnam- ont été un franc succès.
Invité à participer à ces actions, j’ai fait l’objet d’un accueil
inattendu et très touchant par des amis jusque –là inconnus. A Munich :
appartement aux pièces de verre où poussent un pin d’Alep de 3 mètres
de haut et un bananier qui donne des bananes vietnamiennes en plein
centre de cette belle ville allemande !…. A Nurnberg : dortoir austère
mais chaleureux de la pagode bouddhiste Vien Nghiem où se côtoient la
statue du roi Huong Vuong et du Đại đế Carolus (Karl der Große). Deux
lieux si différents mais empreints de la même sérénité tranquille et
forte, parfaitement intégrée au pays hôte mais profondément enracinée
dans l’âme du pays natal vietnamien.
Une belle manifestation !
La marche de Munich a été exemplaire par sa tenue. Elle a débuté
devant la place de l’université par une heure de prise de parole de la
part les diverses composantes de l’organisation. Encadré d’un bout à
l’autre par quatre voitures de policiers locaux parfaitement aimables et
extrêmement protecteurs, le défilé s’est tranquillement et joyeusement
déroulé pendant deux heures sur les trois kilomètres de la plus grande
avenue de Munich qui relient l’Université aux belles rues passantes du
centre ville. Là, devant des centaines de passants et curieux allemands
transformés en spectateurs, eut lieu, pendant une heure, une nouvelle
prise de parole. Sur les grandes banderoles bleues, les slogans en
lettres blanches étaient méticuleusement pensés, accusant, en
vietnamien, en anglais et en allemand la politique expansionniste des
dirigeants de Pékin. La grande carte du Vietnam avec, bien en évidence,
les archipels de Hoang Sa et de Truong Sa, se dressait fièrement en tête
du cortège. Les longues banderoles étaient disposées sur chaque côté
du défilé, à la vue des passants auxquels de charmantes hôtesses en ao
dai et chapeau traditionnel distribuaient des dépliants illustrés et
imprimés en allemand tout en leur expliquant les raisons et le but de la
manifestation. Un animateur plein d’énergie et de gaité envoyait au
micro les slogans repris par tous : « Hoang Sa, Truong Sa, mein
Vietnam !», « I love Vietnam ! », « Wir lieben Vietnam ! ». De belles
chansons populaires, belles comme la multitude d’ao dai et de sourires
qui coloraient le défilé, ont transformé cette manifestation en
véritable spectacle de rue, à la fois culturel et très politique,
donnant à notre message contre l’agression chinoise un attrait et une
force de persuasion vivante et émouvante. Un succès. Un grand succès qui
fera date dans l’histoire du mouvement résistant à l’agression chinoise
de type nouveau. Une référence pour le futur, à Munich et ailleurs.
Pour en parler, un de mes amis a employé l’expression : « tinh than
Munich ». C’est exactement cela. Mais l’esprit des « huit de Munich »
est le contraire de celui que l’Histoire a retenu.
En effet historiquement, le nom de Munich est de triste mémoire.
C’est dans cette ville qu’en septembre 1938 les représentants de la
France et de l’Angleterre ont signé avec Hitler un humiliant traité qui
allait ouvrir au dictateur la porte de l’agression expansionniste dans
toute l’Europe. Ils pensaient que concéder à l’Allemagne hitlérienne
l’annexion par la force de la Tchécoslovaquie calmerait ses ardeurs
expansionnistes et guerrières. Ils pensaient avoir sauvé la paix en
trahissant le droit des peuples, ils ont en fait préparé la guerre ! La
peur n’écarte pas le danger. La lâcheté non plus. Au contraire, elles
l’encouragent. A Munich, l’histoire en a donné une douloureuse leçon :
on ne signe pas de traité avec l’expansionnisme, surtout quand celui-ci
est clairement annoncé et qu’on en est la première victime !
Mais, toutes proportions gardées, l’esprit des « huit de Munich » qui
ont, en toute indépendance, organisé la manifestation et la projection
du film HSVNNDMM, n’est pas celui de la peur ni celui de la honte.
Je peux témoigner du patriotisme indéfectible de ces huit
compatriotes. Et, je peux dire que ce patriotisme a dû être d’une force
extraordinaire pour leur permettre de dépasser leurs différences, leurs
oppositions, d’aller au-delà des blessures du passé, toujours ouvertes,
de résister aux menaces directes ou déguisées et quelques fois aux
invectives dont ils ont été victimes des deux côtés. Ils ont été sous le
feu discret mais bien réel d’un régime frileux qui s’accroche
pitoyablement aux « 16 chu vang et 4 cai tot » avec les pirates de Pékin
(La « Hoi nguoi Viet » de Stuttgart a refusé de se joindre à Munich
pour projeter le film HSVNNDMM). Ils ont reçu les menaces violentes où
plus délicatement exprimées de dirigeants d’une communauté de réfugiés
thuyen nhan qui fait passer son drapeau chargé d’amertume avant la
défense de leur peuple. Combien de concessions, combien de discussions
passionnées, mais aussi combien de tolérance, d’affection, d’amour du
pays. Combien de responsabilité et de courage chez ces huit hommes et
femmes responsables. Jamais jusqu’ici je n’ai été témoin d’une telle
maturité humaine et politique de la part de personnes aux parcours de
vie si fortement différents. Comme je m’en étonnais devant eux quand
j’assistais à leur dernière réunion d’organisation, la veille du défilé,
un d’entre eux m’a répondu en souriant: « Nous apprenons la
démocratie ». C’est vrai, mon ami, la démocratie, si belle, est si dure
à enfanter, si fragile à préserver et si coûteuse à faire grandir !
Elle ne peut voir le jour et grandir que dans le courage. Quelle belle
leçon de combat démocratique nous donnent ces amis de Munich ! Ils ont
vaincu la peur pour libérer la parole et l’action, pour protéger le
Vietnam.
Vaincre les peurs
Cette peur du système, je l’ai maintes fois côtoyée dans le pays :
peur d’être menacé, suivi, maltraité, peur de perdre son emploi, de voir
ses proches inquiétés dans leur travail, dans leurs études, peur d’être
arrêté, jeté en prison… Cette peur du système qui, même à l’étranger
est relayée par les pouvoirs des ambassades dont on redoute des
représailles administratives sur place ou les rapports envoyés au pays
pouvant priver l’accès à la famille, aux amis. Le redoutable chapeau est
vite sorti : « dien bien hoa binh », « the luc phan dong »…
Un autre genre de peur, dont j’ai également été témoin au contact des
communautés Viet Kieu, est aussi entretenu bien réellement dans
« l’autre camp » qui se veut être à la fois victime exclusive de la
guerre et tenant exclusif de la démocratie. Cette peur est entretenue
par des groupes extrémistes, certes très minoritaires mais capables de
violence et d’autres formes de pression. On sent monter de ces milieux
une vraie haine, pareille à celle que j’ai subie en prison. Une haine
aveugle nourrie d’expériences douloureusement vécues, figées dans les
mémoires. Une haine qui se veut éternelle et vengeresse. Pour peu qu’on
soit à l’écoute de « l’autre côté », on est vite affublé d’un autre
chapeau : « traître », « qui-fait-le-jeu-des-communistes »,
« communiste infiltré »…
Pour ne pas se perdre et pour protéger le pays
Ces peurs, d’où qu’elles viennent, sont un véritable fléau humain,
social, national. Elles sont individuellement angoissantes. Elles
culpabilisent car elles confinent à l’inaction synonyme de complicité
devant l’injustice, la violence arbitraire, la corruption
politico-maffieuse, le pays menacé. Elles sont humiliantes et
castratrices car elles étouffent la fierté citoyenne et patriotique, la
volonté de créer du nouveau. Elles déshumanisent et poussent certains au
désespoir. Quelque fois justifiées comme un réflexe protecteur, ces
peurs sont, en fin de compte, auto-destructrices. Nationalement, elles
sont inhibitrices et ne font que nourrir l’immobilisme favorable à
toutes les agressions chinoises et à l’impunité de ceux qui les
favorisent ou les soutiennent. Les peurs désarment !
Le peuple vietnamien, dans son immense majorité, veut la
réconciliation, l’unité nationale dans une paix qui lui appartienne. Il
en a un besoin vital pour faire face au terrible défi que lui lance
l’expansionnisme chinois prédateur des ressources naturelles et
humaines, destructeur des identités culturelles, porteur de violence et
de guerre… Il en a besoin pour vaincre la corruption endémique, pour
vaincre la pauvreté encore bien présente.
Vaincre ces peurs pour agir solidairement est un vrai combat sur
soi-même et pour le pays. Un combat qu’il faut gagner sous peine de tout
perdre. Y compris de se perdre soi-même. C’est nécessaire et possible.
C’est la leçon donnée par le groupe des huit de Munich, mais aussi
par ceux de Berlin, Kholn, Praha, Warsava, Leipzig, Hannover,
Frankfurt-Offenbach, Sarrebruken, Nurnberg, Toulouse, Lyon,
Paris…Vaincre la peur comme nos compatriotes de Binh Chau et de Ly Son
le font chaque fois qu’ils prennent le large pour aller gagner leur vie
dans le eaux vietnamiennes d’Hoang Sa et de Truong Sa. Vaincre la peur
comme nos amis de Saigon et de Ha Noi qui descendent dans la rue pour
les protéger et défendre leur patrie.
Merci à vous tous, mes amis, pour me nourrir chaque jour un peu plus de votre courage.
Ah, une information oubliée : en deux jours, nos compatriotes ont
contribué à l’aide des pêcheurs, veuves et orphelins pour un montant de
5300 euros !
André Menras, Ho Cuong Quyet
Texte français par l’écrivain Nguyen Ngoc.
Một bài viết quá hay, tinh tế đến từng lời! Cám ơn vị "đồng bào gốc Pháp" mà lịch sử đã trao tặng cho dân Việt tôi!
Trả lờiXóaTôi xin chia sẻ cảm nghĩ của tôi về một phần trong bài viết của bác Hồ Cương Quyết. Là con em miền Nam và giờ đã sống giữa cộng đồng hải ngoại, ở Mỹ, nhiều lần tôi đã nghiền ngẫm điều mà tác giả gọi là "nỗi sợ của phe bên kia, cái phe muốn tự coi mình là nạn nhân đặc quyền của chiến tranh và là người đặc quyền nắm giữ dân chủ".
Tôi đồng ý là có một nỗi sợ nào đó, nhưng tôi không nghĩ là chỉ do "lòng hận thù được nuôi dưỡng bằng những trải nghiệm đau đớn, đã đóng băng trong ký ức". Tôi tự hỏi tại sao hận thù và đau đớn ấy không tan dần đi với liều thuốc thời gian? Vả lại, hận thù và đau đớn thì sao lại liên quan đến nỗi sợ hãi?
Theo tôi, nỗi sợ nằm ở chỗ: nếu buông bỏ cái "căn cước tỵ nạn", "căn cước nạn nhân" ấy đi, thì mình còn biết mình LÀ AI đây, ở một đất nước mà dù có sống thêm mấy chục năm nữa thì cũng vẫn là xa lạ đối với mình này? Đó là một nỗi sợ sâu xa liên quan đến vấn đề "căn tính". Con cái lớn lên và nói tiếng "nước ngoài" sành sõi hơn tiếng mẹ đẻ, tôi nghĩ đó là một trong những thí dụ nói lên nỗi cô đơn sâu xa nơi lòng người hải ngoại, và đó cũng là một phần của nỗi sợ chăng?
Thử thách lớn nhất của cộng đồng hải ngoại có lẽ là ở chỗ phải khó nhọc xác định lại căn tính của mình trong hoàn cảnh mới. Nỗi sợ sâu xa nhất tôi nghĩ có lẽ chính là đó - sợ đánh mất chính mình. Nhưng, đúng như lời tác giả nói, cần phải chiến đấu với chính mình, với nỗi sợ đó nơi mình. Một cuộc chiến đấu nhất thiết phải chiến thắng, bởi nếu không thì sẽ mất tất cả, mất nước và mất luôn cả chính mình.
Nhìn người mà ngẫm đến ta ... thật là buồn cho đất nước VN !
Trả lờiXóa