Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

NGÀY NÀY 38 NĂM TRƯỚC, TRUNG QUỐC CƯỚP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

38 năm trước, Trung Quốc đã cưỡng chiếm trái phép Quần đảo Hoàng Sa như thế nào?

Nguồn: Basamnews on 18/01/2012

BTV: Vào những ngày này 38 năm trước, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tại thời điểm đó, Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang làm chủ hợp pháp quần đảo Hoàng Sa nên đã ra sức chống trả, kết quả là 74 người lính VNCH đã vĩnh viễn nằm xuống để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Hôm nay, có lẽ chúng ta cần dành riêng những giây phút để tưởng niệm 74 người lính VNCH, đã anh dũng hy sinh bảo vệ Hoàng Sa, và cũng không quên rằng, quần đảo này mặc dù hiện đang bị Trung Quốc chiếm giữ, nhưng đó là một phần lãnh thổ của Việt Nam.

Để hiểu thêm những người lính VNCH đã chiến đấu giữ gìn biển, đảo ra sao, cũng như đã phải đối đầu với kẻ thù hung bạo như thế nào, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của những kẻ xâm lược, mô tả lại trận Hải chiến Hoàng Sa. Bài này được viết vào ngày 7 tháng 7 năm 1974, chỉ hơn 5 tháng sau khi trận chiến kết thúc, nên đã mô tả khá chi tiết về trận đánh này. Chúng tôi xin giữ nguyên văn các danh từ riêng mà phía Trung Quốc gọi tên các hòn đảo, với  chú thích kèm theo ở cuối bài, cũng như nguyên văn những từ ngữ mà phía Trung Quốc đã sử dụng để mô tả trận chiến này, khi cho rằng họ chỉ là những kẻ “tự vệ”, thay vì những kẻ xâm lược.
—————

Báo Trung Quốc mô tả trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974: 
Hải chiến Tây Sa Trung – Việt
Ghi chép đầy đủ ngày 7-7-1974
Quốc Thanh dịch




Hải chiến Tây Sa là trận tác chiến phản kích tự vệ vào tháng 1 năm 1974, được tiến hành đối với quân đội Nam Việt (1) xâm nhập vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc (2) thuộc Tây Sa (3), với sự phối hợp giữa Hạm đội Nam Hải của hải quân Trung Quốc cùng các phân đội lục quân và dân binh. Đây là một cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc, đồng thời cũng là lần tác chiến hải quân đầu tiên với một nước khác của hải quân Trung Quốc kể từ sau năm 1949. Quy mô của trận hải chiến này tuy không lớn, nhưng lại có sức ảnh hưởng sâu rộng đến thế cục chiến lược của Trung Quốc ở Nam Hải, đủ để ghi vào sử sách mãi mãi. Hơn nữa, bản thân trận hải chiến này lại còn có thể được gọi là ky tích của lịch sử hải quân thế giới.

Quần đảo Tây Sa là một quần đảo lớn trong số 4 quần đảo lớn ở Nam Hải (4) của Trung Quốc, nằm ở vùng biển cách đảo Hải Nam khoảng 330 km về phía đông nam, được hợp thành từ 2 quần đảo Tuyên Đức (5) và Vĩnh Lạc cách nhau 42 hải lý, với tổng diện tích khoảng 10km2. Trong đó, đảo Vĩnh Hưng (6) có diện tích lớn nhất trong quần đảo Tuyên Đức, là đảo chính của Tây Sa. Quần đảo Tây Sa từ thời Hán Vũ Đế đã là lãnh thổ của Trung Quốc, các triều các đời đều đã khai thác kinh doanh, từ sau đời Tống đã từng điều các thủy sư đi tuần tra theo định kỳ. 

Quần đảo Vĩnh Lạc gồm các đảo San Hô (7), Cam Tuyền (8), Kim Ngân (9), Thâm Hàng (10), Quảng Kim (11), Tấn Khanh (12), Toàn Phú (13), Áp Công (14) quây lại với nhau thành một bãi đá ngầm có hình vó ngựa, bãi đá ngầm này quây quanh một hồ đá ngầm có chu vi 100 km2.

Nhưng từ nửa sau thập kỷ 50, nhà cầm quyền Nam Việt bắt đầu thèm muốn 2 quần đảo lớn là quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (15) trong số nhiều đảo ở Nam Hải của Trung Quốc. Bắt đầu từ ngày 26 tháng 5 năm 1956 đã ngang nhiên đưa ra yêu sách về lãnh thổ. Từ năm 1956 đến năm 1958 đã lần lượt xâm chiếm 4 đảo San Hô, Cam Tuyền, Thâm Hàng và Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc, sau đó, ngoài việc tiếp tục chiếm cứ đảo San Hô ra còn lần lượt rút quân khỏi ba hòn đảo đã xâm chiếm còn lại.

Ngày 22 tháng 2 năm 1959, trợ chiến hạm HQ 225 của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào Tây Sa, sử dụng vũ lực để đánh đuổi 5 tàu cá Trung Quốc với 69 ngư dân. Để bảo vệ chủ quyền Tây Sa, chính phủ Trung Quốc quyết định cho Hạm đội Nam Hải của hải quân tổ chức các biên đội đi tuần tiễu ở Tây Sa. Ngày 17 tháng 3 năm 1959, chính ủy Viên Ý Phấn ở căn cứ Du Lâm, Hạm đội Nam Hải của Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và chi đội trưởng Vương Phát Minh chi đội 11 xuồng máy đã dẫn các tàu hộ tống 172, phiên hiệu Nam Ninh và tàu chống ngầm 153, phiên hiệu Lô Châu, lần đầu tiên tới tuần tra vùng biển Tuyên Đức thuộc Tây Sa.



Hoạt động tuần tra Tây Sa diễn ra cho đến khi thu hồi được quần đảo Vĩnh Lạc vào năm 1974 thì ngưng. Trong thời gian ấy, đã tiến hành tuần tra tổng cộng 77 lần, với 170 lượt tàu tham gia tuần tra, thông qua tuần tra Tây Sa để bảo vệ cá và bảo vệ đi lại, tiến hành trinh sát và cảnh cáo bước đầu. Đây là nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi ở cự ly xa nhất cho hải quân Trung Quốc thừa hành khi ấy, đó là một lần thử thách gay gắt đối với hải quân Trung Quốc với những tàu thuyền được trang bị còn khá lạc hậu.
.
Sau khi đã ký kết “Hiệp định đình chiến Paris” tháng 1 năm 1973, chính phủ Nam Việt nhân lúc thế cục đánh trên bộ còn đang ổn định, đã tích cực triển khai hoạt động cưỡng chiếm các yếu điểm chiến lược ở Nam Hải. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1973, quân hạm Nam Việt liên tục xua đuổi, va chạm và bắt bớ các ngư dân Trung Quốc ở vùng biển Tây Sa, sau khi xâm chiếm phi pháp 6 hòn đảo thuộc các quần đảo Nam Sa, Tây Sa của Trung Quốc, vào tháng 9 năm 1973, lại ngang nhiên tuyên bố là đã đưa 11 hòn đảo như Nam Uy (16), Thái Bình (17)… trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc vào diện quy hoạch quản lý của tỉnh Phước Tuy (18). Sau đó không lâu, hải quân Nam Việt lại càng táo tợn hơn khi tạo ra các rắc rối ở vùng biển Tây Sa, đâm hỏng các thuyền cá của Công ty Ngư nghiệp Nam Hải Trung Quốc đang đánh bắt cá ở vùng này, thậm chí còn bắt cả ngư dân Trung Quốc về cảng gác, tiến hành tra tấn bức cung, cưỡng bức họ phải thừa nhận quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Nam Việt. 
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố, nhắc lại “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với những hòn đảo này”. Nhà cầm quyền Nam Việt không vì thế mà lui lại hành trình xâm lược của mình.
.
Vào 10 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1974, tàu khu trục số 16 và tàu “Lý Thường Kiệt” của hải quân Nam Việt đã xâm nhập vào vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc của Tây Sa, đồng thời vào 13 giờ 50 phút, đã bắn 10 phát đạn pháo vào căn cứ đánh bắt cá của ngư dân Trung Quốc ở đảo Cam Tuyền, ngang nhiên hủy hoại quốc kỳ Trung Quốc. Ngoài ra còn có ý đồ đổ bộ lên các tàu cá Nam Ngư số 402, số 407 của Công ty Thủy sản Bạch Mã Tỉnh của Quảng Đông đang sản xuất đánh bắt cá ở quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc khi ấy, các công nhân nghề cá của Trung Quốc đã đấu tranh trực diện với họ.  
.

Báo cáo về việc quân đội Nam Việt tiến hành khiêu khích quân sự lập tức được đệ trình lên cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai đã nghiên cứu đối sách cùng với Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Diệp Kiếm Anh, sau khi trình lên và được sự đồng ý của Chủ tịch Mao Trạch Đông, đã quyết định tăng cường tuần tra và áp dụng các biện pháp quân sự tương ứng, để bảo vệ quần đảo Tây Sa. Đây là hành động quân sự cuối cùng mà Mao Trạch Đông đã ra quyết sách trong cuộc đời mình.

Vào 8 giờ sáng ngày 16 [tháng 1 năm 1974], tàu số 16 của Nam Việt đã điều 16 lính, đáp một xuồng máy xâm chiếm đảo Kim Ngân thuộc quần đảo Vĩnh Lạc của Tây Sa. 14 giờ, Bộ tổng tham mưu hạ lệnh cho Hạm đội Nam Hải lập tức điều 2 tàu chống ngầm đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. 19 giờ 37 phút, các tàu chống ngầm 271, 274 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm đã chở một trung đội bộ binh thuộc sư đoàn 131 lục quân cùng vật tư chuẩn bị chiến đấu trên 7 chiếc xe tải khởi hành từ căn cứ Du Lâm, đến đảo Vĩnh Hưng vào 10 giờ 30 phút ngày 17, thừa hành nhiệm vụ tuần tra lần thứ 77, đồng thời cũng là lần cuối cùng, đối với Tây Sa. Đảm nhận chỉ huy biên đội trên biển là Ngụy Minh Sâm, Phó tư lệnh căn cứ Du Lâm, sở chỉ huy trên biển đặt tại tàu số 271 thuộc đại đội 73 tàu chống ngầm.   

Ngày 17 [tháng 1 năm 1974], quân Nam Việt lại điều tàu khu trục số 4 “Trần Khánh Dư” và tàu số 16 hợp cùng nhau. 14 giờ 20 phút, 2 tàu, mỗi tàu thả một chiếc xuồng máy, chở 27 lính xâm chiếm đảo Cam Tuyền, cưỡng bức trục xuất các công nhân nghề cá Trung Quốc đang phơi hải sâm trên biển. 15 giờ 15 phút, biên đội 271 đưa thêm một trung đội dân binh, thuộc Bộ vũ trang Tây Sa, thừa lệnh khởi hành tới quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc để bảo vệ cho các tàu cá Trung Quốc sản xuất được an toàn. 17 giờ 49 phút, đi vào quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc từ giữa các đảo Thâm Hàng và đảo Tấn Khanh, nhằm thẳng tới 2 tàu khu trục “Lý Thường Kiệt” và “Trần Khánh Dư” Nam Việt đang giương oai diễu võ, chặn tàu cá Trung Quốc ở gần đảo Cam Tuyền. Hai tàu chống ngầm số 271, 274 của ta lập tức phát tín hiệu cảnh báo tới đối phương, buộc họ cuối cùng phải chuyển hướng rời đi.

Đến đêm, 2 trung đội bộ binh và dân binh do biên đội hải quân chở đến đã đổ bộ lên 3 đảo phụ cận, xây dựng công sự, chuẩn bị cố thủ. Cho đến lúc này, trong số 8 hòn đảo chính của quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, Nam Việt đã chiếm cứ 3 đảo: San Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân ở phía Tây, biên đội hải quân Nam Việt thả neo ở đảo San Hô; Trung Quốc chiếm 3 đảo: Thâm Hàng, Tấn Khanh, Quảng Kim ở phía đông, hải quân Trung Quốc cùng biên đội tàu cá thả neo ở đảo Tấn Khanh, hai bên tiếp tục cuộc đối đầu cách nhau 9 hải lý.   



Ngày 18, với sự trợ giúp của tàu hải quân Trung Quốc, các ngư dân đang đánh bắt cá ở đảo Thâm Hàng tiếp tục giữ vững sản xuất, đồng thời giám sát chặt chẽ mọi hành động của địch. Ngày hôm đó, hải quân Nam Việt lại điều thêm tàu khu trục số 5 và tàu “Trần Bình Trọng” đến quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, 3 tàu khu trục Nam Việt tiến hành vây chặn các tàu cá Nam Ngư số 402 và 407 ở hồ đá ngầm, lần lượt đâm vào tàu cá Trung Quốc 8 lần, làm hỏng cửa sổ buồng lái tàu cá số 407, mưu đồ uy hiếp buộc tàu cá Trung Quốc phải rời khỏi vùng biển đang tác nghiệp. Hai tàu cá không hề sợ hãi, quần nhau với địch. Tàu hải quân Trung Quốc lại phát tín hiệu cảnh báo, tàu địch treo cờ tín hiệu “mất lái” để trốn tránh tội lỗi, rồi vội lẩn đi.

Những bước tiến triển thêm về tình thế ở Tây Sa đã được kịp thời truyền đến cấp quyết sách tối cao của Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc ý thức được cục diện nghiêm trọng ở Tây Sa, nên đã thành lập riêng một Nhóm lãnh đạo Tây Sa, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Hạm đội Nam Hải điều thêm các tàu chống ngầm số 281, 282 thuộc đại đội 74, tàu chống ngầm chạy đến chờ lệnh ở đảo Vĩnh Hưng. Biên đội 281 khẩn cấp khởi hành từ căn cứ Du Lâm vào 2 giờ 45 phút ngày 18 [tháng 1 năm 1974], đã đến đảo Vĩnh Hưng vào 12 giờ 20 phút. Các tàu số 396 và 389 đại đội 10 tàu rà bom mìn vận chuyển nước ngọt và thực phẩm cho Tây Sa đã khởi hành từ căn cứ Du Lâm lúc 7 giờ 35 phút ngày 18, 22 giờ 30 phút, cập bến thả neo ở đảo Tấn Khanh hội hợp với biên đội 271. Để phối hợp hành động với bộ đội trên tàu, 14 giờ 21 phút ngày 18, trung đoàn 22, sư đoàn 8 thuộc Hải Nam Airlines đã điều 2 máy bay bay đến vùng trời quần đảo Vĩnh Lạc thực thi tuần tra trinh sát. Quân khu Quảng Châu yêu cầu điều một bộ phận bộ binh sẵn sàng chuẩn bị chi viện.  Quân khu Quảng Châu căn cứ theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương đã yêu cầu sở chỉ huy trên biển và các biên đội tàu sẵn sàng duy trì cảnh giới cao độ, đồng thời tiến hành đấu lý với Hải quân Nam Việt, nếu như chúng dám tấn công bất ngờ, thì cần lập tức phản kích tự vệ.

Phía quân Nam Việt cũng gấp gáp bố trí, 2 giờ 30 phút lại điều thêm pháo hạm hộ tống số 10 “Sóng dữ” (19) đuổi theo đến vùng biển quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, hợp cùng 3 tàu khu trục đã xâm nhập từ trước. Cho đến giờ phút này đã có tới 4 quân hạm Nam Việt xâm nhập vùng biển Vĩnh Lạc. Nhằm đối phó với kẻ thù, lúc 5 giờ ngày 19 tháng 1, Hạm đội Nam Hải đã chỉ thị cho biên đội trên biển chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, kiên quyết đánh trả.



Xét về năng lực, 3 tàu khu trục và 1 pháo hạm của hải quân Nam Việt, lớn 1.770 tấn, nhỏ cũng tới 650 tấn, tổng trọng tải hơn 6.000 tấn, trên tàu trang bị tổng cộng 50 khẩu hỏa pháo cỡ từ 127 ly trở xuống. Còn 4 chiếc tàu của biên đội tàu hải quân Trung Quốc thì lớn nhất mới có 570 tấn, ít hơn chiếc nhỏ nhất của đối phương tới 80 tấn, nhỏ nhất chỉ có 300 tấn, tổng trọng tải chưa được 1.760 tấn, chưa bằng trọng tải chiếc tàu lớn nhất của đối phương. Ngoài ra, 4 chiếc tàu bên ta chỉ được trang bị có 16 khẩu hỏa pháo cỡ 85 ly trở xuống, trong đó phần lớn là những khẩu hỏa pháo hai nòng cỡ nhỏ, thực lực trang bị hết sức thảm hại. 
    
Tương quan thực lực giữa hai bên đối trận thảm hại như vậy cũng thuộc loại hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới. Khi ấy, hải quân Nam Việt tự đánh giá thực lực của mình thuộc top 10 hàng đầu thế giới, đồng thời nhận định máy bay chiến đấu của Trung Quốc không thể chi viện máy bay chiến đấu tầm ngắn như Tây Sa, nên cảm thấy vẫn có thể chiến đấu với Hạm đội Nam Hải có trang bị kém nhất của Hải quân Trung Quốc.

Nhưng tính cơ động, mật độ hỏa lực của quân hạm Nam Việt lại khá kém, rồi sĩ quan binh lính lại nhát gan sợ chết, đây là nhược điểm không có cách gì khắc phục nổi ở chúng. Còn hải quân Trung Quốc, mặc dù trang bị và sự chuẩn bị tác chiến khi ấy không bằng quân Nam Việt, nhưng lòng dũng cảm và sĩ khí của họ thì lại là nhất, cộng thêm với sự giàu kinh nghiệm tác chiến, lấy nhỏ đánh lớn ở eo biển Đài Loan từ nhiều năm nay, nên không hề tỏ ra khiếp nhược khi phải đối mặt với hải quân Nam Việt chiếm ưu thế áp đảo. 

Hải quân Nam Việt xâm nhập quần đảo san hô vòng Vĩnh Lạc, quyết tâm với ưu thế tàu to pháo lớn, ra tay một phát là xơi gọn các tàu tuần tra của hải quân Trung Quốc với trang bị ở hàng yếu thế, từ đó mà cưỡng chiếm được quần đảo Vĩnh Lạc. Sáng sớm ngày 19, hạm đội hải quân Nam Việt nhổ neo từ đảo San Hô, chạy hết tốc lực về phía biên đội hải quân Trung Quốc, dẫn đầu mở thế trận hải chiến. Hai tàu số 10 và số 16 tiến vào hồ đá ngầm, từ rạn san hô Linh Dương tiếp cận tới đảo Tấn Khanh rồi neo lại ở đó, nhằm thu hút binh lực của biên đội hải quân Trung Quốc; còn 2 tàu số 4 và số 5 thì từ đảo Kim Ngân ra ngoài khơi về phía nam chạy vòng quanh 2 đảo Thâm Hàng, Quảng Kim, chuẩn bị điều binh cưỡng chiếm các đảo Thâm Hàng, Quảng Kim… mà quân dân Trung Quốc đang đóng ở đó.



6 giờ 35 phút, biên đội hải quân Trung Quốc nhận ra mưu đồ của hạm đội Nam Việt, ngay lập tức phát tín hiệu cảnh báo chiến đấu, khẩn cấp nhổ neo. 4 tàu làm thành tung đội đơn chạy hết tốc lực về phía tây, vây hãm các tàu số 10, số 16 của Nam Việt ở mặt biển phía tây bắc đảo Quảng Kim, còn giữ lại biên đội 396 ở đằng sau để đối đầu tại đây, biên đội 271 từ đảo Tấn Khanh đi ra hồ đá ngầm, tiến đến vùng biển đông nam đảo Thâm Hàng, chi viện cho quân dân Trung Quốc đang đóng trên đảo.  
.
7 giờ 40 phút ngày 19 tháng 1, tàu số 4 của Nam Việt điều 23 lính lên 2 chiếc xuồng cao su chạy về phía đảo Thâm Hàng, dân binh Trung Quốc đóng trên đảo bị quân Nam Việt đuổi khỏi đảo với sự chi viện của biên đội tàu hải quân.
.
7 giờ 49 phút, tàu số 5 của Nam Việt điều 21 lính lên 2 chiếc xuồng cao su đổ bộ lên đảo Quảng Kim, lính Nam Việt đổ bộ lên đảo Quảng Kim đã khiêu khích với dân binh Trung Quốc đang đóng trên đảo, khi cảnh báo không có hiệu lực, dân binh Trung Quốc đã quả cảm nổ súng, giết chết 1 tên địch, làm bị thương 3 tên, buộc quân lính Nam Việt phải rút lui, quay về tàu vào lúc 9 giờ 20 phút.  
.
Trong thời gian này, biên đội 271 chạy cắm vào giữa 2 tàu số 4, số 5 của Nam Việt, chỉ cách tàu Nam Việt khoảng 1 dây (20), dùng hỏa pháo nhằm bắn vào quân Nam Việt đổ bộ lên đảo, để chi viện cho dân binh đóng trên đảo. Còn quân hạm Nam Việt vì ở cự ly quá gần, hỏa pháo rơi vào góc chết, nên không thể bắn trả. Hai bên đối trận lúc này chĩa pháo vào nhau, tuốt lưỡi lê, muôn phần căng thẳng.  
.
8 giờ 15 phút, tàu số 16 của Nam Việt bị biên đội 396 của hải quân Trung Quốc đánh chặn đã điều chỉnh hướng lái, xông thẳng vào tàu 389 của hải quân Trung Quốc, mưu đồ buộc tàu 389 phải chuyển hướng. Đây là một pha thử thách ý chí còn hơn cả gang thép, tàu 389 không hề khiếp sợ đối thủ có trọng tải lớn hơn mình gấp 4 lần, vẫn không hề giảm tốc lực mà cũng không chuyển hướng đứng đón đầu. Cuối cùng buộc tàu số 16 phải chuyển hướng, nhưng mũi tàu vẫn đâm vào tàu 389, khiến cho cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy rà bom mìn của tàu 389 bị hỏng.  
.

Sau hành động đổ bộ lên đảo bị thất bại, hải quân Nam Việt quyết định thay đổi chiến thuật, mưu toan tìm cách rút lui dễ dàng ra khỏi trận hải chiến. 10 giờ 20 phút, 4 chiếc quân hạm của hải quân Nam Việt cùng lúc chạy ra phía ngoài, sau khi đã chiếm cứ được vị trí chiến trận có lợi, đã triển khai đội hình chiến đấu xông lại. Biên đội tàu Trung Quốc cũng lái đủ mã lực nghênh đón quân hạm Nam Việt. Khi phía quân Trung Quốc chạy ngay vào góc chết của hỏa pháo cỡ lớn bên hạm đội Nam Việt, hạm đội Nam Việt cuối cùng đành bó tay.
.
10 giờ 22 phút, tàu số 5 là tàu đô đốc của hải quân Nam Việt truyền cờ lệnh, các tàu đồng loạt nổ đạn pháo về phía quân Trung Quốc, ngay khi lửa đạn nòng hỏa pháo bên quân Nam Việt vừa lóe lên, các pháo thủ bên quân Trung Quốc cũng ấn luôn nút điện, đạp cò, đạn pháo bên quân ta gần như đồng loạt ra khỏi nòng, trận hải chiến Tây Sa chính thức nổ ra bên trong và ngoài hồ đá ngầm! 
.
Do phát đạn pháo đầu tiên của cả hai bên đều nổ trong tình trạng ngắm chuẩn ổn định, cho nên độ chuẩn xác của đạn pháo rất cao. Cả 8 chiến hạm của hai bên tham chiến đều bị bắn trúng, đều bị hỏng ở các mức độ khác nhau. Trong đó, tàu 274 của hải quân Trung Quốc bị bắn trúng vào đài chỉ huy, chính ủy Phùng Tùng Bá, phó tàu Chu Tích Thông hy sinh ngay trên đài chỉ huy.
Căn cứ theo tình hình trang bị và tư thế chiến đấu của hai bên địch – ta, sở chỉ huy biên đội đã quyết đoán, ra lệnh tiếp tục tiếp cận địch với tốc độ cao, dùng thủ pháp tiếp cận địch để tử chiến. Các tàu chống ngầm 271 và 274 tấn công các tàu số 4 và số 5 ở bên ngoài hồ đá ngầm; các tàu rà phá bom mìn 396 và 389 tấn công các tàu số 16 và số 10 ở bên trong hồ mặn.
.

Hải quân Nam Việt thấy thế liền có ý đồ nhanh chóng kéo giãn khoảng cách, để phát huy được hết uy lực của hỏa pháo tầm xa bên phía mình. Tuy tàu của hải quân Trung Quốc nhỏ, hỏa lực yếu, nhưng lại có ưu thế về tốc độ cao. Hai tàu liên tục thu hẹp khoảng cách – tàu hải quân Trung Quốc áp sát vào mạn tàu hải quân Nam Việt rất nhanh, ra lệnh rót như mưa một loạt đạn hỏa pháo cỡ nhỏ, tốc độ cực nhanh vào đó, trên mặt biển quần đảo Vĩnh Lạc dày đặc tiếng rú rít của đạn hỏa pháo và những tiếng nổ vang trời, khói lửa mù mịt, những cột nước bắn lên trời, vị thế làm chủ chiến trận của hải quân Nam Việt đã bị đánh hoàn toàn tan tác. 
Mặc dù chịu sự nhiễu loạn và hủy hoại của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, việc huấn luyện quân đội bị giảm bớt, trình độ chiến thuật và kỹ thuật bị hạ thấp, nhưng trong chiến đấu, các thủy thủ đã thể hiện lòng yêu nước cao độ, tinh thần trách nhiệm mạnh mẽ, sĩ khí hiên ngang, dũng cảm quật cường, không sợ hy sinh, người trước ngã người sau tiếp bước. Các tàu đều kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, chủ động phối hợp chi viện lẫn nhau.
.
Các tàu hải quân Trung Quốc được lắp đặt cặp đôi hỏa pháo cỡ nhỏ 25, 37… ở đầu tàu và đuôi tàu, uy lực bắn trúng đích từng phát không lấy gì lớn lắm, bắn liên tục trúng đích với mười mấy phát mỗi giây lại là chuyện liều mạng, tàu Nam Việt giống như chú trâu già ương ngạnh bị từng đàn chó săn hung hãn vây đánh, uy thì mạnh nhưng ở thế đơn độc đáng thương, lực mạnh nhưng không còn nhanh nhạy, nên khó lòng thoát khỏi. Do khoảng cách giữa biên đội tàu phía quân Trung Quốc với quân Nam Việt quá gần, nên rất nhiều hỏa lực phía quân Nam Việt đều rót vào tàu của họ, các tàu bên quân Nam Việt đều bị chính họ bắn nhầm ở các mức độ khác nhau.
Cùng lúc đó, quân hạm Nam Việt cũng cố sức nổ súng bắn về phía quân Trung Quốc, pháo cỡ lớn bắn gần không được liền bắn vào các tàu Trung Quốc ở xa, để chi viện cho đồng bọn. Nhưng các tàu phía quân Trung Quốc vẫn tiếp tục tiếp cận quân dịch với tốc độ cao, phát huy ưu thế cự ly gần của tốc độ bắn pháo cỡ nhỏ, áp chế quân hạm Nam Việt. Còn các quân hạm Nam Việt thì lúc này do tốc độ bắn của pháo cỡ lớn chậm, lại cộng thêm tàu bên quân Trung Quốc nhỏ, mạn tàu chỉ cao có 2 mét, cự ly quá gần mà đi vào góc chết của tàu thì điều chỉnh rất khó, không phát huy nổi ưu thế hỏa lực, nên đã bị tàu phía quân Trung Quốc bắn như điên cuồng. Để thoát khỏi thế bị động, các quân hạm Nam Việt mưu toan kéo giãn khoảng cách, nhưng tàu bên quân Trung Quốc quyết truy kích không tha, tập trung hỏa lực hết về phía các tàu số 4 và số 6 của quân Nam Việt.  
.

Theo phương án đã định, hỏa lực các tàu 271 và 274 bên quân Trung Quốc trong trận hải chiến chuyên rót đạn nhằm đến hệ thống chủ pháo, điều khiển hỏa lực, thông tin và chỉ huy tàu số 4 (nguyên là tàu chỉ huy của Nam Việt, nhưng sáng sớm ngày hôm đó tạm thời biến thành tàu số 5) của Nam Việt, tàu này bị đánh làm thông tin bị cắt đứt, chỉ huy mất hiệu lực rất nhanh, trên đài chỉ huy bốc khói mù mịt. Tàu số 4 thấy thế bất lợi, đã vội vàng tháo chạy về hướng đông nam, kéo theo làn khói cuồn cuộn.
.
Tàu số 274 của quân ta vội truy đuổi theo để khỏi làm mất lợi thế chiến đấu. Lúc này, tàu số 5 của Nam Việt từ phía bên trái tiến hành đánh chặn tàu 274 của ta. Trong thế ngàn cân treo sợi tóc, bánh lái điện của tàu 274 đột nhiên phát sinh sự cố, lúc này nếu không thể điều khiển được nữa, thì chắc chắn sẽ bị đâm vào chính giữa 2 tàu địch, rơi vào thế bị động, thọ địch đằng sau lưng. Lý Phúc Tường, thuyền trưởng tàu 274, một mặt bình tĩnh ra lệnh chuyển sang lái bằng sức người để đổi hướng, đồng thời chỉ huy tổ lái chính chuyển từ dùng hết tốc lực chạy lên trước, sang dùng hết tốc lực ngoặt chuyển hướng, cuối cùng đã chiếm lại được vị trí lợi thế.
.
Song, tàu 274 tuy phát huy được ưu thế của mình ở mức tối đa khi cận chiến, nhưng sự mạo hiểm gặp phải khi cận chiến cũng tương đối lớn. Tổng cộng bị bắn trúng 5 phát đạn pháo 127 ly, hơn 10 phát 76 và 40 ly, đường dây thông tin trên tàu bị bắn hỏng hoàn toàn, chỉ huy bị gián đoạn. Các chỉ huy gặp nguy không hoảng hốt, đã điềm tĩnh dùng khẩu lệnh và tay ngoan cường chỉ huy tác chiến, vẫn tiếp cận tàu số 5 của địch hết tốc lực, bắn từ 1000m đến 300m, đạn pháo hung hãn rót như mưa lên tàu địch, khiến cho tàu số 5 của Nam Việt bị trúng đạn nhiều chỗ, chủ pháo bị câm tịt, viên thượng tá chỉ huy hải quân Nam Việt bị bắn trọng thương, mấy tên lính Nam Việt trên boong tàu và lá quân kỳ trên cột buồm cũng bị hỏa pháo quét rơi xuống biển. 

Cùng lúc đó, các tàu 396 và 389 cũng áp sát tàu số 16 của Nam Việt, tiến hành tập trung bắn gần, khiến cho tàu này bị trúng đạn bốc cháy rất nhanh, kéo theo khói, hoảng hốt tháo chạy. 
.
Tàu số 10 của hải quân Nam Việt tới giải vây cho tàu số 16, thừa cơ đánh trộm các tàu 389 và 396. Các tàu 389 và 396 lập tức chuyển hướng hỏa pháo, đồng loạt bắn gấp vào tàu số 10, cả băng đạn pháo bắn sang mặt cabin tàu, khoang đạn dược bị bắn trúng rất nhanh, tàu số 10 lật nghiêng rồi nổ bốc cháy trong nháy mắt. Để làm cho tàu “Sóng dữ” bị trọng thương không thể chạy thoát, tàu 389 tiếp tục áp sát không tha, bắn dữ dội về phía đó.
.

Một điều đáng nói là, tàu 389 là con tàu cũ kỹ từ hồi thập kỷ 50 của hải quân Trung Quốc, khi tiếp nhận mệnh lệnh là lúc mới sửa chữa xong trong xưởng 1 năm, lấy về được 3 ngày, thậm chí còn chưa kịp chạy thử, bắn hỏa pháo thử thì đã phải chạy suốt ngày đêm đến Tây Sa tham gia trận hải chiến. Trải qua một trận kịch chiến khủng khiếp, tuy tàu “Sóng dữ” của Nam Việt bị thương tháo chạy, nhưng tàu 389 thực tế cũng phải mang theo thương tích mà truy kích. Đài chỉ huy của tàu 389 khi ấy đã bị hỏa pháo địch bắn hỏng, số người thương vong rất lớn. Nhưng sĩ quan binh lính cả tàu cùng chung chí căm thù địch, coi thường cái chết, đã giữ vững vị trí chiến đấu, dũng cảm tác chiến. 
.
Khi tàu 389 đang truy kích, do bánh lái bị hỏng, tốc độ quá nhanh, nên đã đâm thẳng vào giữa 2 tàu của quân Nam Việt, chịu sự tấn công của hỏa lực chằng chịt. Còn tàu 396 ở phía sau thì sợ bắn nhầm bị thương tàu mình nên đã không dám chi viện. Một phát đạn pháo bắn vào giữa hai máy chính của tàu 389, trong khoang phát nổ bốc cháy, lan ra xung quanh rất nhanh. Sĩ quan binh lính trên tàu một mặt kiên trì chiến đấu, mặt khác tổ chức cho mọi người cố sức dập lửa. Cuối cùng đã kịp thời dập được lửa, bảo vệ được con tàu. Để cứu chữa động cơ bị bắn hỏng, 5 chiến sĩ trong khoang máy phụ, trong khói lửa mịt mù, đã kiên trì chiến đấu ở tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng, cuối cùng tất cả đều dũng cảm hy sinh. 
.   
Hỏa pháo của hai bên lúc này đều không thể điều ra được, Tiêu Đức Vạn, thuyền trưởng tàu 389 đã tùy cơ ứng biến: Ném lựu đạn! Khi ấy trên tàu 389 chở tới mấy hòm lựu đạn chuyển cho dân binh đóng trên đảo, do đêm 18 có sóng gió quá lớn nên không đưa lên đảo được, đến lúc này lại phải điều ra để dùng. Thế là các thủy thủ Trung Quốc vội ba chân bốn cẳng ném từng chùm lựu đạn sang tàu số 10 của Nam Việt, nhiều người ôm cả súng tiểu liên bắn quét ngang vả mặt boong tàu số 10 của Nam Việt, thậm chí còn bồng cả tên lửa chống tăng nhằm vào mọi vị trí chiến đấu trên tàu địch mà bắn! (Đây chính là xuất xứ của dòng tin “quân Trung cộng sử dụng cả lựu đạn” mà Nam Việt đã cung cấp cho báo chí quốc tế sau đó). Ở lần tác chiến áp sát mạn tàu hiếm hoi trong trận hải chiến hiện đại này, thuyền trưởng tàu số 10 của Nam Việt đã bị bắn chết ngay tại trận (21).        
.
Nhân lúc kẻ địch đang hoảng hồn chuyển hướng, tàu 389 ngoặc hết tốc lực, đuổi theo tấn công quân Nam Việt, tàu 389 đã bị trọng thương, 3 khoang bị nước vào, thân tàu bị nghiêng, tốc độ lái cũng  chậm hẳn lại, nên đành lao vào bãi san hô tự cứu.
.

Lúc này nước biển từ đằng sau khoang đạn chảy vào khoang máy chính, máy chính đang vận hành với tốc độ cao bị đe dọa nghiêm trọng.  Quách Ngọc Đông và Quách Thuận Phục trên mình đang bị thương nặng đã kiên trì bít chặt khoang đạn để bảo vệ cho máy chính được vận hành bình thường, cả hai người đều đã hy sinh tại vị trí chiến đấu ở tư thế đang bít khoang đạn.  
.
10 giờ 42 phút, tàu số 16 của Nam Việt luôn ở vị trí quan sát bên ngoài, cho rằng thời cơ đã đến, liền lập tức ngoặc đầu tàu, hướng tới đánh tàu 389. Đạn pháo trên tàu 389 đã bắn hết sạch, trưởng tàu Tiêu Đức Vạn thấy thế, lập tức ra lệnh lắp bom chống ngầm, rất có thể sẽ gây sát thương cả chính mình, nhưng trong trận hải chiến sống mái này, ngoài phương án này ra đã không còn lựa chọn nào khác, khi tàu 389 đã lắp xong bom chống ngầm đang chuẩn bị bắn, tàu 396 vừa kịp đuổi tới chi viện, yểm hộ cho tàu 386 rút khỏi trận chiến. Tàu số 16 sợ lại bị đánh đau nên đã vội vàng tháo chạy ra ngoài khơi.  Khoang động cơ đằng trước của tàu số 16 chìm dưới nước, bị trúng phải 1 phát đạn pháo 127 ly của tàu số 5 (may mà quả đạn pháo này không nổ, nếu không thì quân Nam Việt đã tự đánh chìm 1 tàu của mình trước), sau đó lại bị các tàu 389 và 396 của phía Trung Quốc tấn công, lúc này cả hệ thống thông tin, điều khiển, cung cấp điện của tàu ấy đều đã mất, tàu bị nghiêng lệch 20º, khi về đến quân cảng Nam Việt sau đó đã bị nghiêng lệch đến 40º, chỉ còn mỗi một máy chính là còn vận hành.
.
Tình trạng của các tàu Trung Quốc lúc này cũng không hay: Tàu 389 bị cháy to, chưa tắt, thân tàu nghiêng lệch nặng, buộc phải lao lên bãi cạn với sự hiệp trợ của tàu cá bên quân ta để khỏi bị chìm. Ba tàu còn lại cũng bị tổn thương ở các mức độ khác nhau, hơn nữa số đạn còn lại cũng không nhiều.
.

11 giờ 20 phút, rađa của hạm đội hải quân Nam Việt phát hiện thấy hạm đội chi viện của hải quân Trung Quốc. Đây là 2 tàu 281 và 282 thuộc đại đội 74 tàu chống ngầm do Lưu Hỷ Trung chỉ huy. Để có thể đến vùng chiến địa được sớm, 2 tàu này đã vượt qua sóng gió, chạy gấp với tốc độ đối đa 34, cao hơn so với thiết kế tàu, cuối cùng đã đến kịp, khiến cho cán cân thắng lợi của trận hải chiến Tây Sa cuối cùng đã nghiêng về phía quân Trung Quốc.   
.
Các tàu Nam Việt tự biết không thể thắng được, nên đã lần lượt quay đầu tháo chạy, tản mát về phía tây bắc và phía đông nam, còn tàu số 10 do bị thương quá nặng, nên đã bị bỏ mặc mãi tít tận đằng sau. Nghe nói giữa đường chúng từng yêu cầu hải quân Mỹ can thiệp, đồng thời cứu viện các binh lính trên tàu số 10, nhưng đã bị quân Mỹ từ chối.  
.
Từ lúc tàu Nam Việt nổ súng cho đến khi hạm đội của chúng bị đánh tan tác, chỉ vẻn vẹn trong vòng 58 phút. Sau trận chiến, hải quân Nam Việt kiểm lại, ngoại trừ tàu số 10 bị đánh chìm, tàu số 16 bị trúng 820 phát đạn, các tàu số 4, số 5 đều bị trúng cả trên ngàn phát đạn, có thể thấy được độ ác liệt của tình hình chiến sự cùng lòng dũng cảm trong tác chiến của hải quân Trung Quốc khi ấy.
11 giờ 30 phút, biên đội 281 chạy tới chỗ cách đảo Thâm Hàng 6,4 hải lý về phía đông, lúc này, sở chỉ huy biên đội tàu hải quân Trung Quốc lập tức ra lệnh cho các tàu 281 và tàu 282 quyết không để cho tàu số 10 của Nam Việt tháo chạy. 
.
11 giờ 49 phút, các tàu chống ngầm 281 và 282, từ phía đông đảo Thâm Hàng, đi vào hồ đá ngầm, lập tức lao tới truy diệt tàu số 10 của địch. 12 giờ 12 phút, 2 tàu chuyển hướng nổ súng từ vị trí 1200 m, cả 16 khẩu pháo đồng loạt nhả đạn. Loạt đầu tiên bắn hỏng buồng lái của tàu địch, loạt thứ hai tập trung bắn vào bộ phận trung tâm chìm dưới nước, trong 4 phút bắn tới 1.766 phát đạn pháo, khoang dầu tàu số 10 của địch bốc cháy, kho đạn lập tức nổ tung. 12 giờ 30 phút, tàu 281 ngừng bắn. 14 giờ 52 phút, tàu số 10 bị nổ và chìm ở cách bãi đá ngầm Linh Dương 2,5 hải lý về phía nam.  
.
Khi ấy, biên đội hải quân Trung Quốc bận rộn tổ chức hạm đội phòng không và tàu 389 cứu hộ cứu nạn, không tổ chức lực lượng cứu vớt tù binh. Bốn, năm ngày sau, một chiếc tàu dầu của Đan Mạch đã cứu được 23 lính Nam Việt đang trôi giạt trên biển, 60 thuyền viên còn lại trên tàu “Sóng dữ” của Nam Việt đã bị mất xác trong sóng dữ của Nam Hải.
.

Trận hải chiến Tây Sa cùng kết quả của nó đã khiến cho cả chính phủ Trung Quốc và Nam Việt cùng cảm thấy kinh hoàng ngoài dự kiến. Chính phủ Trung Quốc lập tức bắt đầu động viên chiến tranh, với ý đồ mở rộng chiến quả, thu hồi lại 3 đảo San Hô, Cam Tuyền, Kim Ngân đã bị Nam Việt xâm chiếm, ra một đòn là giải quyết được vấn đề Tây Sa. 
.
Đêm ngày 19 tháng 1, hạm đội hải quân Nam Hải tuân theo chỉ thị của cấp trên đã nhanh chóng điều tổng cộng 15 tàu, gồm 1 tàu cứu hộ, 1 tàu  chống ngầm, 8 tàu cứu hộ loại nhỏ, 5 tàu ngư lôi, vận chuyển 3 đại đội thuộc trung đoàn 10 pháo đài đồn trú Du Lâm, 2 đội trinh sát cùng một bộ phận các phân đội và dân binh tăng cường thuộc Quân khu Quảng Châu, tổng cộng 508 người, lần lượt tới vùng biển quần đảo Vĩnh Lạc từ 4 giờ 30 phút đến 8 giờ ngày 20, với sự yểm hộ của hàng chục lượt máy bay chiến đấu của lính hàng không thuộc Hạm đội Nam Hải. Chuẩn bị thu hồi lại các đảo đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, đồng thời đánh các tàu Nam Việt có khả năng tái xâm nhập.  
.
9 giờ 35 phút, phân đội thủy thủ phát lệnh tấn công lần lượt từng đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân đã bị quân đội Nam Việt xâm chiếm, trận chiến được bố trí như sau:  Đầu tiên tập trung binh lực tấn công vào đảo Cam Tuyền không có công sự kiên cố, nằm giữa 2 đảo San Hô và Kim Ngân, đánh hạ đảo này xong, sẽ tiến công tiếp vào đảo San Hô có công sự kiên cố, binh lực tương đối nhiều, cuối cùng tấn công đảo Kim Ngân. Đồng thời với việc tấn công, sẽ tổ chức cho các lực lượng trên biển dánh các tàu hải quân của quân đội Nam Việt tới tăng viện cho quần đảo Vĩnh Lạc. 
.
Sau khi đến được vị trí đã định, bộ đội đổ bộ chuyển sang xuồng cao su và xuồng nhỏ, với sự yểm hộ của hỏa pháo hải quân, đại đội 4, đại đội 5 và 2 đội trinh sát dàn quân thành 3 đội đổ bộ lên bãi cạn đông nam đảo Cam Tuyền. 
.

Đối mắt với sự tấn công ngoan cường dũng mãnh của quân đội Trung Quốc, quân đội Nam Việt xâm chiếm đảo này thấy khó bề chống cự, nên sau khi buộc phải rời bỏ trận địa bãi cạn, đã rút về khu vực giữa đảo Cam Tuyền. Sau khi đại đội 4 đánh đầu trận đã chiếm lĩnh được trận địa đầu bãi cạn xong, không để cho quân địch được nghỉ, chỉ mất 10 phút đã buộc toàn bộ sĩ quan binh lính của quân đội Nam Việt đang bị bao vây phải nộp vũ khí làm tù binh. 
.
Sau khi nắm được đảo Cam Tuyền, đại đội 5 và 2 đội trinh sát cùng một bộ phận dân binh đã không quản mệt nhọc, lại phân nhau lê 4 tàu cứu hộ và 1 tàu rà phá bom mìn tiến vào mặt biển rạn san hô phía nam đảo San Hô, rồi lại chuyển sang xuồng cao su, chia làm 3 thê đội, từ phía tây nam, đông nam và nam của đảo này, đồng thời ra lệnh tấn công quân đội Nam Việt xâm nhập. 
.
Chỉ huy thê đội 1 của đại đội 5 trên đường xuất kích tới đảo San Hô, chiếc xuồng cao su không may đã bị đạn địch bắn thủng, người và vũ khí đều bị nhào xuống biển, để khỏi lỡ thời cơ chiến đấu, họ đã đạp sóng tiến tới, bảo đảm chiếm cứ được trận địa bãi cạn đúng giờ.  Hơn 30 tên sĩ quan binh lính Nam Việt xâm nhập đảo này chỉ còn cách tháo chạy khỏi khu vực giữa đảo.
.
Sau khi cuộc chiến nổ ra, các chỉ huy 2 đội trinh sát thuộc thê đội 2, phối hợp hành động với đại đội 5, đã tới tấp nhảy xuống biển ở chỗ cách bờ hơn 700m, sau khi bơi đổ bộ lên bờ, đã kề vai chiến đấu với đại đội 5, khiến cho phần lớn quân lính Nam Việt đang tháo chạy tan tác phải giơ tay đầu hàng.
.

Nhưng cũng còn một số ít quân địch ngoan cố chui vào lô cốt ở giữa đảo, nổ súng chống cự, quân đội Trung Quốc đánh trả dữ dội, đồng thời gọi chúng ra bằng tiếng Việt, cuối cùng buộc những tên quan quân Nam Việt này phải giương cờ trắng ra khỏi lô cốt nộp vũ khí đầu hàng. Trong quá trình dọn dẹp chiến trường và tìm kiếm tiêu diệt địch, bộ đội đổ bộ lên đảo của ta còn bắt được Phạm Văn Hồng, thiếu tá chỉ huy tối cao của quân đội Nam Việt trên đảo San Hô trong bụi cây.  
.
Khi đã thu hồi được 2 đảo Cam Tuyền và San Hô, đại đội 1 phát lệnh tấn công đảo Kim Ngân. Sau khi đổ bộ lên đảo, phát hiện thấy có 15 tên địch xâm chiếm đảo này đã đáp xuồng cao su tháo chạy khỏi đảo từ trưa ngày 19. Mười ngày sau được một tàu cá Nam Việt cứu, có 1 người đã chết. Thế là bộ đội chủ công thu hồi đảo Kim Ngân chưa phải bắn một viên đạn nào, đã hoàn thành nhiệm vụ tác chiến một cách thuận lợi. Đến 13 giờ 45 phút đã thu hồi được cả 3 đảo, tiêu diệt hoàn toàn quân đội Nam Việt xâm nhập. 
.
Đến đây, toàn bộ quần đảo Tây Sa đã trở về lòng tổ quốc.
.
Trưa ngày 20 tháng 1, nhà cầm quyền Nam Việt sau khi được tin 2 đảo Cam Tuyền, San Hô đã bị quân đội Trung Quốc đoạt lại, liền lập tức điều tàu đổ bộ phiên hiệu “Kỳ Lân” chở binh lực gồm 1 tiểu đoàn lính đánh bộ chạy đến đảo San Hô. Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc và không quân của Quân khu Quảng Châu cũng lập tức điều quân hạm và hàng chục lượt máy bay tác chiến triển khai nghênh chiến, để bảo đảm cho việc chiến đấu thu hồi 3 đảo được tiến hành một cách thuận lợi. Nhà cầm quyền Nam Việt qua cuộc đọ sức của trận hải chiến, đã sợ tàu “Kỳ Lân” có khi mà không có về, nên chỉ để cho tàu này chạy đến vị trí cách quần đảo Vĩnh Lạc hơn 40 hải lý là hạ lệnh quay về.
.
Sau trận hải chiến và trận chiến đổ bộ Tây Sa kết thúc, để cứu vãn lại thể diện, nhà cầm quyền Nam Việt một dạo đã nhiều lần điều động máy bay và quân hạm, mưu đồ đọ lại cao thấp, ngoài việc điều 2 tàu khu trục chạy từ Vũng Tàu và Nha Trang đến tập kết ở cảng Đà Nẵng ra, còn điều cả 6 quân hạm xuất phát từ cảng Đà Nẵng chạy về hướng quần đảo Tây Sa, đồng thời ra mệnh lệnh đặt hải quân, không quân ở khu vực này vào tình trạng cảnh giới khẩn cấp, phát tín hiệu chiến tranh lần nữa với Trung Quốc. Nhưng sau khi đối mặt với cảnh tăng viện quy mô lớn của Trung Quốc, với bộ đội hải quân Tây Sa đã nghiêm trận chờ từ trước, nhà cầm quyền Nam Việt đã không dám manh động, cuối cùng buộc phải thốt ra lời than “nên tránh tiếp tục tác chiến với Trung Quốc” vào ngày 21 tháng 1.
.

Sau vụ việc này, nhà cầm quyền Nam Việt ra sức che đậy cho những thất bại của mình, Lê Trọng Hiên, phát ngôn viên quân sự Nam Việt, đã tuyên bố trước cuộc họp báo: “Lần chiến đấu này, con số tàu của Trung Quốc từ 11 chiếc tăng lên 16 chiếc, bao gồm 4 tàu khu trục Komar trang bị tên lửa Styx, các tàu Nam Việt đều bị loại ‘tên lửa Styx’ này bắn trúng”.  Đã lấy đó để truy tìm cớ thất bại cho mình. Ngụy Minh Sâm, Tổng chỉ huy trên biển của quân Trung Quốc nghe xong cười sảng khoái, nói: “Nếu thực sự chúng ta có những đồ chơi tiên tiến như vậy, thì trận hải chiến Tây Sa sẽ còn đánh hay hơn”.

Lần hải chiến này là lần đầu tiên hải quân Trung Quốc ra khỏi bờ biển, tác chiến ở vùng biển mới lạ. Trong trận hải chiến oai hùng mà quân dân Trung Quốc thề chết bảo vệ quần đảo Tây Sa, hải quân Trung Quốc chỉ được trang bị ở mức yếu thế, các sĩ quan binh lính đã chiến đấu dũng cảm, vận dụng chiến thuật thành công, làm chìm 1 pháo hạm hộ vệ của hải quân Nam Việt, bắn bị thương 3 tàu khu trục, bắn chết thuyền trưởng, thuyền phó tàu “Sóng dữ”, thuyền trưởng tàu “Trần Khánh Dư” cùng hơn 100 sĩ quan binh lính dưới quyền của chúng, bắn bị thương viên thượng tá chỉ huy hiện trường phía địch là Hà Văn Ngạc; trong khi tác chiến đổ bộ thu hồi 3 đảo Cam Tuyền, San Hô và Kim Ngân, bộ đội và dân binh Trung Quốc đã bắt sống thiếu tá Phạm Văn Hồng cùng 48 sĩ quan binh lính dưới quyền của quân đội Nam Việt, trong đó có cả viên sĩ quan liên lạc Gerald Emile Koch, thuộc Lãnh sự quán Mỹ, thường trú tại Đà Nẵng, Nam Việt, cũng đã bị quân dân Trung Quốc bắt làm tù nhân. Nhìn nhận lại sự thảm hại trong đối sánh lực lượng giữa hai bên, kết quả trận chiến như vậy cũng là hiếm gặp trong lịch sử hải quân thế giới.

Trong trận chiến bảo vệ quần đảo Tây Sa, quân dân Trung Quốc cũng đã phải có những sự trả giá nhất định. 18 sĩ quan binh lính là Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương, Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân, Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông, Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý, Hà Đức Kim, Thạch Tạo… đã anh dũng hy sinh, 67 người tham chiến bị thương, tàu rà phá bom mìn 389 bị trọng thương nằm trên bãi cạn, tàu chống ngầm 274 bị hỏng nặng, tàu rà phá bom mìn 396 và tàu chống ngầm 271 bị hỏng nhẹ.

Ngày 27 tháng 2 năm 1974, Bộ ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố với toàn thế giới, chính phủ Trung Quốc quyết định toàn bộ 48 sĩ quan binh lính Nam Việt như Phạm Văn Hồng… cùng 1 sĩ quan liên lạc Mỹ bị bắt làm tù binh trong trận phản kích tự vệ ở quần đảo Tây Sa được hồi hương.


Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa cùng danh sách những người đã hy sinh

Nghĩa trang liệt sĩ trận hải chiến Tây Sa được xây dựng năm 1975, tọa lạc ở Âu Gia Viên, thị trấn Hồng Sa, thành phố Tam Á. Hạm đội Nam Hải trong trận hải chiến Tây Sa tổng cộng có 18 người đã hy sinh oanh liệt vì tổ quốc, vì nhân dân. Họ là:

Phùng Tùng Bá, Chu Thích Thông, Tăng Đoan Dương, Vương Thành Phương  
Khương Quảng Hữu, Vương Tái Hùng, Lâm Hán Siêu, Văn Kim Vân,
Hoàng Hữu Xuân, Lý Khai Chi, Quách Thuận Phúc, Quách Ngọc Đông
Dương Tùng Lâm, La Hoa Thắng, Chu Hữu Phương, Tăng Minh Quý
Hà Đức Kim, Thạch Tạo
———–
Ghi chú:
(1) Tức Việt Nam Cộng hòa.
(2) Tức nhóm đảo Trăng Khuyết, còn có tên khác là nhóm Nguyệt Thiềm. Tên tiếng Anh là Crescent Group.
(3) Tức Hoàng Sa.
(4) Tức biển Đông.
(5) Nhóm An Vĩnh, tên tiếng Anh là Amphitrite Group.
(6) Tức đảo Phú Lâm, tiếng Anh là Woody Island.
(7) Không rõ đảo San Hô này có tên tiếng Việt là gì.
(8) Tức Đảo Hữu Nhật, tên tiếng Anh là Robert Island.
(9) Tức Đảo Quang Ảnh, tên tiếng Anh là Money Island.
(10) Tức Đảo Quang Hòa Đông và Quang Hòa Tây. Tên tiếng Anh là Duncan Islands.
(11) Không rõ đảo Quảng Kim mà Trung Quốc nhắc ở đây có phải là đảo Đá Lồi với tên tiếng Anh là Discovery Reef?
(12) Tức Đảo Duy Mộng. Tên tiếng Anh là Drummond Island.
(13) Không rõ.
(14) Không rõ.
(15) Tức quần đảo Trường Sa.
(16) Tức đảo trường Sa.
(17) Tức đảo Ba Bình.
(18) Tỉnh Đồng Nai sau này.
(19) Tức hộ tống hạm Nhật Tảo.
(20) 1 dây, tức 1 chain, là đơn vị đo chiều dài ở Anh, tương đương 66 bộ hay 22 yards, khoảng 20.1168 mét.
(21) Tức Trung tá Ngụy Văn Thà, thuyền trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo, HQ-10.
Nguồn: TIEXUE.NET
NGUỒN: BA SAM.

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

HIỀN GIANG: TƯỜNG THUẬT CHUYẾN ĐI TIÊN LÃNG


Sáng sớm vừa mới tập thể dục, làm vệ sinh cá nhân xong định đi chợ thì nghe chuông điện thoại reo, mở máy thì thấy luôn là của Nguyễn Xuân Diện gọi:

-   Chị Hiền Giang ơi, 8 giờ đến Viện Hán – Nôm rồi cùng với chị Hoa đi mua quà tết cho các chiến sĩ công an, bộ đội bị thương và gia đình anh Vươn nhé!
-    Diện gọi cả Phương Bích đi, Phương Bích quen với việc này lắm mà.
-    Không được rồi chị ơi, chị Phương Bích hôm nay mắc bận không thể đi được, hai chị cố gắng nhé!
-     Ok!

Thế là mình vội vã chợ búa, làm đồ ăn sáng cho mấy bố con rồi thông báo với mấy bố con chương trình đi Hải Phòng của mình và bảo thằng con trên đường đi làm chở mẹ qua cơ quan chú Diện.

Đúng 8 giờ có mặt ở trước cổng Viện Hán – Nôm, nhìn quanh đã thấy Hoa cũng vừa kịp đến, hai chị em được bác bảo vệ mời vào phòng chờ để gặp Nguyễn Xuân Diện, mấy phút sau Diện đến và nói: Hai chị chờ em và Lã Dũng ra ngân hàng rút tiền đã. Vừa lúc đó chị Trần Thanh Vân gọi phone cho Xuân Diện trao đổi về kế hoạch của chuyến đi, dặn dò mình mua những quà gì cho có ý nghĩa thiết thực mang đúng tinh thần cứu trợ người bị nạn vào những ngày tết cổ truyền.  Khiếp, chị Thanh Vân bận bao nhiêu việc mà chu đáo thế, dặn dò mình tỉ mỉ từng li từng tí một.

Trong lúc chờ đợi Xuân Diện và Lã Dũng đi rút tiền mình và Hoa lập các danh mục hàng (quà) cần mua rồi hai chị em đi BigC mua sắm. Chao ôi! Có hai chị em mà bao nhiêu là hàng hóa, nào là măng, miến, mộc nhĩ, nấm hương…rồi cả dầu ăn, nước mắm, mì chính…rồi cả bánh, mứt, kẹo… nghĩa là đầy đủ các thứ thường dùng  ngày tết cho cả mấy gia đình anh em nhà anh Vươn là những người bị hại. Trả tiền ở quầy thu ngân xong phải nhờ nhân viên BigC chở hàng ra cửa. Ngoài đó chị Trần Thanh Vân đã cho xe và lái xe của chị (chú Tuấn) chờ sẵn, mình cũng quen chú Tuấn rồi. Tuấn  bảo chị để em rồi giành khuân hết hàng lên cốp xe, cũng còn một vài thứ không mua được trong BigC đành mua bên ngoài vậy. Mình lên xe còn Hoa Hoa chỉ đi mua sắm chứ không tham gia đi xuống Hải Phòng được vì công việc lút đầu.

Xong việc mua sắm Tuấn cho xe về Viện Hán – Nôm đón bác Quang, Nguyễn Xuân Diện và  Lân Thắng đã đang chờ sẵn. Như vậy theo kế hoạch của “cơ quan đầu não” đã bàn và thống nhất thì chuyến đi này tất nhiên là bác Quang làm trưởng đoàn, thành viên gồm: Nguyễn Xuân Diện, Lân Thắng, Tuấn và mình. Đoàn bắt đầu khởi hành lúc 11giờ, mình định gọi Cường NO – U cùng đi nhưng lại thương em ý vừa đi lên miền núi Tây Bắc trao quà cho học sinh nghèo về vẫn còn đang mệt…

Xe ra khỏi thành phố bác Quang mới bình tĩnh trao đổi và bàn bạc với mọi người chương trình, đường đi nước bước của chuyến đi này. Điều mà mọi người lo lắng nhất là làm thế nào để đưa được quà đến cho các đối tượng đã được tất cả mọi người tin tưởng gửi gắm, bây giờ động tý là người ta nói đến hai từ “nhạy cảm”, ngay cả việc mang quà trao cho 6  người vừa lãnh đạo vừa là chiến sĩ CA và bộ đội của huyện Tiên Lãng cũng không phải là việc dễ dàng cứ muốn là được, rồi  còn khó khăn là đến với gia đình anh Vươn nữa chứ, được biết là ở đó người ta không hoan nghênh, còn đe dọa nhà báo  và những chuyện “can thiệp nội bộ” của địa phương, liệu rồi trên đường dẫn tới gia đình người thân đang cho vợ con anh Vươn và anh Quý tá túc có bị cản trở gây khó dễ gì không…Lo lắng bộn bề! Đúng như những băn khoăn của một bạn đọc trên blog Nguyễn Xuân Diện: Nghĩ mãi xem "phái đoàn" sẽ đến thăm các chiến sĩ CA và quân đội bị thương bằng cách nào? như thế nào? Làm sao để có thể gặp nhau thân tình vui vẻ? Làm sao để có thể vượt qua mọi nghi ngại cách trở để nói với nhau tình đồng bào ruột thịt chân tình ấm cúng? Làm sao để bày tỏ rằng đã cùng là người Việt, đã là con cùng một Mẹ Việt Nam thì luôn có thể hòa giải, thương yêu, đùm bọc nhau…Mấy bác cháu, chị em bàn bạc, đưa ra các tình huống có thể gặp và phương án xử lý.

Tôi có người quen làm ở UBND Tp Hải Phòng và Sở CA Hải Phòng nên biết các chiến sĩ CA và bộ đội bị thương nằm ở bện viện đã được ra viện cả rồi, nhưng 6 người này chỗ ở khác nhau. Bác Quang và mọi người thống nhất đối với 6 CA và bộ đội: Phương án 1 là đến Trụ sở CA huyện và Huyện đội Tiên Lãng để gặp lãnh đạo trao quà. Phương án 2, nếu phương án 1 vì khó khăn nào đó mà không thực hiện được thì phải tìm cách đến gia đình trao tận tay (ôi, thế này thì mệt lắm, mới nghĩ đến đó đã mường tượng được những khó khăn nối tiếp khó khăn…). Tôi có người quen một người làm to to ở UBND Tp Hải Phòng, tôi đã đặt vấn đề giúp chúng tôi trong việc trao quà  cho 6 CA và bộ đội bị thương, tối hôm trước đã nhận lời vui vẻ là sẽ đưa “phái đoàn” đến gặp lãnh đạo CA huyện và Huyện đội Tiên Lãng, sáng ra lại báo tin là bận công tác không đi giúp được (chả biết có phải bận không hay là tại vì hai chữ “nhạy cảm”), tôi đành phải gọi điện cho một thượng tá công an Sở CA Hải Phòng là người quen nhờ anh ta, bác Quang trao đổi tình hình qua điện thoại với anh thượng tá CA đó  (tất nhiên là không đả động gì đến việc “phái đoàn” còn có chương trình trao quà cho gia đình anh Vươn rồi, chả dại, nói chuyện đó ra là “tèo” ngay), anh vui vẻ nhận lời, được đà tôi nói luôn:

-   Anh ơi, em có chút việc riêng nhờ anh, anh sai lính của anh mua giùm em 4 cây(kg) giò lụa và 8 chiếc bánh chưng thật ngon nha! (Anh Ok liền)

Bác Quang và mọi người nghe tôi nói vậy tất cả cùng cười ồ, khen sao mà khéo thế, chả là khi mua sắm ở BigC theo danh mục đã kê thì còn thiếu giò lụa và bánh chưng cho các gia đình anh em nhà anh Vươn là chưa mua được (tuy biết là còn sớm nhưng hai thứ đó lại là hai thứ đặc trưng của hương vị ngày tết). Nguyễn Xuân Diện cười bảo “Thế này thì thật đúng là CA mua quà tết cho gia đình anh Vươn đấy nhé”.

Bàn đến việc gặp trở ngại khi đến với gia đình anh Vươn thì mọi người thống nhất nhanh chóng: Chẳng …khó khăn nào ngăn nổi bước ta đi.

Xong việc bàn bạc đề xuất các phương án và biện pháp xử lý mình thấy ruột gan đói cồn cào (lúc sáng nào đã kịp ăn gì đâu, dọn đồ ăn ra rồi chỉ mấy bố con ăn, mình sợ nếu ăn sẽ trễ giờ Diện hẹn) nhưng không dám kêu (“con gái” mà, ý tứ chút chút), vừa may lúc bây giờ không biết ai la: Đói lắm rồi, kiếm chỗ nào ăn đi. Thế là mọi người chăm chăm để ý hai bên đường đi xem có nhà hàng ăn uống nào không, chả thấy hàng ăn nào đã thế lại gặp ngay một tai nạn giao thông ở đâu đó mãi tít ở phía trước, tắc đường tới mấy km, nóng ruột quá, lại càng đói… Thế rồi mãi cũng qua, chả ai có lòng dạ nào để theo dõi sự cố tắc đường mất bao lâu.


Cũng phải đi tới đầu Tp Hải Dương mới có quán ăn, lúc bấy giờ cũng gần 2 giờ chiều rồi, tắc đường chết tiệt mất toi mấy tiếng đồng hồ mới về tới Hải Dương. Có chị Thanh Vân chi tiền ăn nên mình để Tuấn lái xe của chị “đi chợ” còn mình nhờ chủ quán đưa đi mua bao bì để đóng quà cho từng đối tượng vì bao nhiêu hàng mua xong Tuấn chỉ kịp chuyển tất cả lên cốp xe, đã đóng gói gì đâu! Mấy bác cháu, chị em ăn ngốn ngấu, như chưa bao giờ bị đói như vậy. Ăn xong mọi người vội vàng tập trung vào phân loại và đóng gói quà cho từng đối tượng, cả chị chủ quán và mấy người phụ việc cũng ra giúp một tay, vừa làm mọi người vừa nói cho chị chủ quán biết quà này chuyển tới tay những ai, chị cứ tấm tắc khen tấm lòng vàng của tất cả mọi người đã hảo tâm giúp đỡ người bị hại, chị cứ nhắc đi nhắc lại: Quí hóa quá, quí hóa quá! Chị bảo mọi người chu đáo cẩn thận thế, tôi sắm tết cũng không được hàng ngon như vậy.

Xong xuôi, lại tiếp tục hành trình. Qua cầu Phú Lương lại gặp tai nạn giao thông, thấy chiếc xe máy nằm đó tan nát cả, chả biết rằng người thì có ai bị chết không. Qua được đận này thư thả Ts Nguyễn Xuân Diện mới kế chuyện đi rút tiền buổi sáng gặp trục trặc chứ không được xuôi sẻ vì CMND của TS cũ bị hết hạn nên nhân viên ngân hàng nhất định không cho rút, đi tới mấy nơi mà không rút được mãi sau mới tìm được cách giải quyết.

Xuống tới Tp Hải Phòng, theo chương trình xe vào sở CA Tp Hải Phòng  trước để anh chàng thượng tá CA người quen đưa xuống Tiên Lãng. Gặp anh, anh nói: Anh có việc đột xuất không đưa cô và mọi người đi được. Chết tiệt, lại thế nữa, lại “nhạy cảm” hay cái gì đây? Nhưng rồi nghe anh nói: Anh sẽ cho một chiến sĩ CA dẫn đường, anh đã gọi điện xuống huyện CA báo trước rồi, mọi người cứ xuống sẽ có người đón tiếp, anh Mải Trưởng CA huyện bị thương cũng ra viện rồi, hiện đang ở cơ quan.

Xe lại tiếp tục đi, xe máy của cháu CA trẻ đi trước dẫn đường (Lân Thắng có chụp kiểu ảnh này),  tôi bảo Ts Nguyễn Xuân Diện gọi điện báo tin cho nhà văn, nhà báo Nguyễn Quang Vinh nhưng mọi người nói để qua cửa ải CA này đã, bây giờ đang căng thẳng nói chuyện không được bình tĩnh.

Đến Huyện CA Tiên Lãng, Tuấn lái xe thẳng vào cơ quan, thấy một số người đang đứng ở sân, theo kế hoạch thì tình hình dù có dở mình vẫn phải niềm nở, phải đạt được mục đích là trao được quà. Đề phòng tình huống xấu Lân Thắng  giấu máy ảnh mini của Diện trong người (không dám dùng máy khủng của Lân Thắng), Tuấn dùng điện thoại để chớp thời cơ chụp hình và quay phim, những người khác hãy cứ ngồi trên xe, tôi và bác Quang xuống trước trình bầy lí do chúng tôi tới, rất vui vẻ chúng tôi  được “chủ nhà”  mời vào phòng làm việc của  Huyện phó CA ( Huyện trưởng Mải đang bận họp ở đâu đó). Quá may là có hai chiến sĩ CA bị thương đang có mặt tại đó. Bác Quang phát biểu mục đích ý, nghĩa… hai bên chủ, khách trò chuyện vui vẻ, mọi người trong “phái đoàn” hỏi han trò chuyện với hai chiến sĩ CA  bị thương. Đến tiết mục bác Quang trao quà, mình nhanh nhảu đề nghị cho chụp ảnh kỷ niệm, không thấy ai nói gì thế là Lân Thắng và Tuấn nháy luôn (mà theo kế hoạch nếu có ai “nói gì” thì bọn hắn cũng vẫn cứ nháy luôn, hì hì…). Xong việc, bác Quang xin phép cho “quan họ trở ra về”, mọi người vui vẻ, nói như nhà văn Nguyễn Quang Vinh là cười như Liên Xô được mùa cá khô (he he).


Thừa thắng xốc tới  “phái đoàn” tiếp tục sang Huyện đội, cũng lại được tiếp đón niềm nở, lại  bày tỏ, lại cảm ơn, lại chụp ảnh (chỉ tiếc là không cơ hội được bố cục khi chụp ảnh). Xong việc, lại “cười như Liên Xô  được mùa vệ tinh”.

Ra khỏi Huyện đội, ngồi yên vị trên xe mọi người thở phào như cất được gánh nặng, tinh thần phấn chấn nói cười như xiếc, Lân Thắng và Tuấn kiểm tra các kiểu ảnh và phim đã chụp được, mọi người reo: Tuyệt vời! Còn việc đến nhà anh Vươn thì khỏi bàn rồi, mọi người đồng thanh hát “chẳng cản trở nào ngăn nổi bước ta đi, khí thế ta như sức mạnh thần kỳ…”, tuy thế mọi người vẫn nhắc nhở chú ý xem có bị ai bám đuôi không, Tuấn nói hình như không, với lại lúc bấy giờ trời cũng tối rồi chắc việc rắc rối cũng có thể ít hơn. Bác Quang gọi điện cho chị Thương vợ anh Vươn, được chị chỉ lối đến nhà người thân ở xã Tiên Hưng, cũng gần xã Quang Vinh. Tới xã Tiên Hưng thì trời tối hẳn, không thấy bị cản trở gì, có lẽ do chúng tôi đến đúng vào thời điểm là lúc nhá nhem tối nên không ai để ý, đi qua trước khu UBND xã Tiên Hưng thấy vắng tanh, chính quyền xã cũng không biết chúng tôi đến.

Đến nơi, vào trong nhà, tiếp chúng tôi là toàn đàn bà gồm mẹ anh Vươn , 5 cô con dâu và  trẻ con, thương lắm. Có lẽ phần vì cảm động trước nghĩa cử của mọi người, phần vì đang phải sống trong hoàn cảnh khốn khổ có lẽ ở nước ta từ trước tới giờ chưa ai từng nếm trải trừ anh em nhà người nông dân gì đó trong vụ Nọc Nạn năm 1928. Nhìn cảnh khốn khổ của mấy người đàn bà và trẻ con chúng tôi không ai cầm lòng được. Bác Quang, Ts NXD phát biểu những câu ân tình cảm động, nói đây là tấm lòng của những người quan tâm và cảm thương đến hoàn cảnh của gia đình, động viên mọi người bình tâm, toàn xã hội rất quan tâm, dư luận trong và ngoài nước đang lên tiếng mạnh mẽ hy vọng lẽ phải và sự công bằng sẽ đến với gia đình các chị. Bằng kinh nghiệm sống của mình bác Quang và Ts Nguyễn Xuân Diện ân cần dặn dò mọi người trong gia đình đủ mọi điều, bà mẹ 83 tuổi và các chị thỉnh thoảng lại nấc lên những tiếng nghẹn ngào, có lúc làm cho mọi người trong đoàn cũng không cầm được nước mắt…Gặp gỡ hồi lâu, nói chuyện hỏi han từng người, cả các cháu nhỏ, rất thương cháu Quỳnh con trai lớn của anh chị Vươn đang học lớp 11, tội nghiệp khi nhìn gương mặt cháu buồn lặng lẽ, cháu nói chuyện rất từ tốn và lễ phép… Mọi người trong đoàn cũng vẫn còn muốn lấn ná ở lại hỏi han, trò chuyện nhiều nữa nhưng nghĩ tới đoạn đường về còn xa và còn phải giữ gìn sức khỏe cho bác Quang và Ts Diện thì công việc còn bề bộn, thế là đành chia tay. Ra đến ngoài cửa tôi thấy thấp thoáng bóng người đàn ông lạ đứng ở cổng bên cạnh xe của chúng tôi, tôi hỏi chị Vươn, chị Quí các chị bảo không biết ai, ừ mà sao các chị biết được vì các chị đang ở nhờ người thân khác xã mà, tôi hỏi một cô em dâu là người ở xã đó thì bảo đó là em của CA xã, Lân Thắng có chụp được ảnh người đó.

Trên đường về mọi người vui vẻ quá, chuyến đi lúc đầu gặp nhiều trắc trở nhưng rốt lại là thành công mỹ mãn, tôi và Lân Thắng hát vang bài “Tiên Lãng ca” do Anh Chí chế dựa theo nhạc bài hát “Lên đàng” vừa post lên mạng, mọi người vỗ … chân đồm độp (hì hì). Sợ sẽ có trở ngại nên Nguyễn Xuân Diện không thông tin rộng rãi, Anh Ba Sàm biết ý nên cũng không “nói năng” gì. Chị Trần Thanh Vân theo sát từng bước đi, cũng có một số người được biết chuyến đi này nên thỉnh thoảng lại phone hỏi thăm tình hình trong đó có cả các luật sư, cả người nước ngoài cũng quan tâm gọi phone cho chúng tôi hỏi thăm xem có gặp trở ngại gì không? Ts Nguyễn Xuân Diện và Lân Thắng cũng muốn lên bài ngay, nhưng mệt quá  vừa vào mạng vừa ngủ gật nên chẳng thể có bài ngay được, cuối cùng Ts NXD đành phải mắt nhắm mắt mở (viết hoa lung tung, tôi có nhắc lỗi chính tả nhưng Ts bảo thôi kệ …) lên một bài ngắn để thỏa lòng mọi người đang mong đến đỏ mắt.

Chúng tôi về tới Hà Nội lúc nửa đêm, khoảng 12 rưỡi, bác Quang đi xe máy về nhà, Nguyễn Xuân Diện đưa Lân Thắng về rồi mới về nhà minh, tôi thì được em Tuấn lái xe đưa nhà, tôi về đến nhà là gần 1 giờ đêm, kết thúc chuyến đi thứ nhất đến với gia đình anh Vươn, sẽ còn những chuyến tiếp theo…

Sáng nay bận việc không vào internet, mấy người quan tâm biết số điện thoại của tôi cứ hỏi sao chờ mãi không thấy Nguyễn Xuân Diện lên bài tường thuật chuyến đi, tôi gọi cho Xuân Diện thì biết đêm qua về nhà em mệt quá, mấy đêm rồi em mất ngủ, cả sáng nay lại bận họp cơ quan, hay là chị viết giúp em đi. Tôi giãy nảy chị viết sao được, em quên chị là giáo viên dạy toán à, chị làm gì có chữ mà viết? Chị cứ viết đi – Ts Diện động viên. Nể quá, ừ thì chị viết em đọc thấy dở thì bỏ đi nhé! Ts NXD nói : Ok!

PS: Í, còn chuyện này quên chưa nói, mọi người trong đoàn thống nhất là sau khi xong việc với 6 chiến sĩ CA và bộ đội sẽ gọi điện báo tin cho nhà văn, nhà báo Nguyễn Quang Vinh nhưng rồi Ts NXD và chúng tôi có mấy cuộc điện thoại hỏi han tình hình không có thời gian để gọi cho nhà văn, đến gia đình người nhà anh Vươn tôi mới giục NXD gọi. Diện bấm máy rồi đưa cho tôi: Này, chị Hiền Giang nói chuyện với anh Vinh đi. Tôi cầm máy đúng lúc nhà văn bắt máy thì mẹ anh Vươn khóc ngất ngả vào người tôi nên tôi vội đưa máy cho Ts Diện, lúc đó Ts Diện cũng không nói được nhiều với nhà văn, nhà văn Nguyễn Quang Vinh có nhắn tin dặn dò…chúng tôi chỉ kịp đọc chớ không trả lời tin nhắn được.
H.G

MẶT TRẬN TỔ QUỐC VN: VỤ TIÊN LÃNG LÀ ĐẶC BIỆT NGHIÊM TRỌNG


MTTQ Việt Nam sẽ lập đoàn giám sát vụ cưỡng chế tại Tiên Lãng

(PLO)- Nhận định vụ cưỡng chế đầm nuôi tôm ở Tiên Lãng, Hải Phòng là đặc biệt nghiêm trọng, bộc lộ nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật đất đai cũng như quá trình thực thi, sáng 18-1, Ủy ban Dân chủ pháp luật và Hội đồng Tư vấn kinh tế thuộc Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã họp bàn, thảo luận.
Nhiều ý kiến tại cuộc họp cho rằng hệ thống chính trị địa phương, bao gồm cả MTTQ ở cơ sở đã không phát hiện sớm những bức xúc của người dân về cách thức hành xử của chính quyền. Bản thân báo cáo của MTTQ cơ sở về vụ cưỡng chế chỉ sao chép lại các tài liệu từ phía chính quyền, chưa phản ánh được đa chiều nguyện vọng của quần chúng.

Tại cuộc họp với sự tham dự của ông Vũ Trọng Kim, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, các ý kiến tỏ ra băn khoăn về cách làm của huyện Tiên Lãng từ khâu giao đất đến thu hồi, cưỡng chế thu hồi đầm nuôi thủy sản của gia đình Đoàn Văn Vươn cũng như các hộ dân khác. Còn nhiều điều cần làm rõ, như cách tổ chức lực lượng công an, quân đội để cưỡng chế thu hồi đất là nên hay không, nhất là trong trường hợp này khu nuôi trồng thủy sản là thành quả đê quai lấn biến, trị thủy của các hộ dân. Trong vụ cưỡng chế, chủ tịch huyện Tiên Lãng là anh em ruột với chủ tịch xã Vinh Quang nơi có đầm thủy sản bị thu hồi, quan hệ này ảnh hướng thế nào tới tính khách quan của quyết định thu hồi và cưỡng chế thu hồi?

Thống nhất nhận định vụ việc không còn là chuyện riêng của Tiên Lãng, của Hải Phòng, mà còn là mối quan tâm chung của cả nước, bộc lộ những vấn đề lớn về quản lý, sử dụng đất đai, cơ quan tham mưu của Ủy ban Trung ương MTTQ quyết định lập đoàn giám sát. Đoàn sẽ xuống Tiên Lãng tìm hiểu bản chất sự việc, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người dân, giúp Hải Phòng giải quyết vụ việc một cách đúng đắn. MTTQ cũng đề nghị Chính phủ sớm thanh tra toàn diện, xử lý nhanh, rút ra bài học từ vụ cưỡng chế tại Tiên Lãng

NGHĨA NHÂN

VỤ TIÊN LÃNG: TÂM ĐIỂM CHÚ Ý CỦA NHIỀU TƯỚNG LĨNH QUÂN ĐỘI

Vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng:

Tướng Thệ, tướng Hương đồng loạt lên tiếng

Thứ tư 18/01/2012 11:05
(GDVN) - Vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng, Hải Phòng đang là tâm điểm chú ý của nhiều tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bước sang ngày thứ 13, vụ cưỡng chế ở xã Vinh Quang, Tiên Lãng, Hải Phòng trở nên nóng hơn bao giờ hết khi Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo, Bộ Công An và Bộ Tài nguyên Môi trường đã chính thức vào cuộc.

Trong lúc các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ sự việc thì những bất cập trong quản lý, điều hành của chính quyền địa phương vẫn là câu chuyện làm bức xúc không chỉ những công chúng bình thường, mà còn trở thành tâm điểm chú ý của những vị tướng tài của đất nước.


Sau khi Đại tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước lên tiếng, nhiều vị tướng lĩnh khác cũng bày tỏ chính kiến.

Trong cuộc trao đổi thân mật với phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, Trung tướng Phạm Xuân Thệ (Nguyên Tư lệnh Quân khu I) và Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương (Nguyên Phó chính ủy quân khu Tây Bắc, Cục Trưởng Tổng cục chính trị) đã chia sẻ những suy nghĩ của mình về vấn đề này.

Trung tướng Phạm Xuân Thệ
Nói về “phản ứng tiêu cực” bắn súng hoa cải làm bị thương 6 chiến sĩ công an, bộ đội của ông Đoàn Văn Vương trong buổi cưỡng chế, Trung tướng Phạm Xuân Thệ cho rằng, bản thân ông Vươn là người được học hành tử tế, là một kỹ sư nông nghiệp, nên ông ta không dễ gì có những hành động tiêu cực, vi phạm pháp luật như vậy. Tôi cho  rằng, nguyên nhân sâu xa nằm ở cách giải quyết của chính quyền địa phương và cần phải xem xét lại nghiêm túc vấn đề này.

Cùng nội dung này, tướng Huỳnh Đắc Hương đưa ra một ví dụ điển hình, câu chuyện chống người thi hành công vụ ở Tiên Lãng không phải bây giờ mới có. Trước đây, ở Thái Bình, chính quyền đã từng bán đất của nhân dân để mua ô tô, làm sân tennis, khiến cho nhân dân uất ức mà chống đối.  Điều này cho thấy, sự chống đối của người dân xuất phát từ cách làm của chính quyền địa phương mà ra.

Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương
Ông nói thêm, vào năm 1999, nhân một chuyến du lịch, tôi cùng gia đình và một số đồng đội của mình đã ghé thăm khu đầm nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Khi đó, ông Vươn và gia đình họ Đoàn nổi lên là một điển hình nông dân làm kinh tế giỏi.

Khi chính sách khuyến khích lấn biển làm kinh tế của nhà nước ta ban hành, không phải ai cũng dám bỏ công, bỏ của ra để làm. Nhưng ông Vươn cùng người nhà đã thực hiện rất thành công. Nhìn vào khu đầm phá này, người ta sẽ phần nào hiểu được công sức, tiền của mà chủ đầm phải đầu tư.

Theo ông Hương, những người như ông Vươn là tấm gương làm kinh tế mà các người dân ở nước ta phải noi theo. Và với tấm gương sáng như vậy, thay vì tạo điều kiện giúp đỡ, mà tổ chức cưỡng chế, hủy hoại tài sản của họ, thì tôi cho rằng những lãnh đạo địa phương không có tấm lòng.

Nói về chuyện hòa giải của Thẩm phán Ngô Văn Anh đối với phòng Tài nguyên Môi trường huyện Tiên Lãng với các hộ thuộc diện cưỡng chế, tướng Phạm Xuân Thệ cho rằng, cơ quan tham mưu, cơ quan chức năng địa phương quá non kém về mặt chính trị. Bởi vì, hành động ấy chằng khác nào lợi dụng lòng tin của nhân dân vào chính quyền để làm tổn hại tới quyền lợi nhân dân.

Ông nói thêm, việc đưa lực lượng liên ngành tạo nên một cuộc cưỡng chế rầm rộ như đã làm ở Tiên Lãng chẳng khác gì đẩy người nông dân vào đường cùng.  Trong trường hợp ấy, lẽ ra ông Vươn trở thành một người dân tốt, người làm kinh tế giỏi bỗng chốc bị dồn vào đường cùng và biến thành tội phạm. Như vậy là thất bại. Và những yếu kém trong cách quản lý của chính quyền địa phương đôi khi vô tình sẽ tạo nên kẽ hở cho những thế lực thù địch lợi dụng.

Đối với câu chuyện san bằng ngôi nhà ông Đoàn Văn Vươn, tướng Huỳnh Đắc Hương nói thêm, nếu chính quyền địa  phương không ra lệnh, thì không ai dám phá nhà người khác.

Với những người hiểu về pháp luật, không khó gì trong việc tìm ra cái sai của chính quyền địa phương. Vấn đề là họ có dám thẳng thắn nhận sai hay ngoan cố, đùn đẩy trách nhiệm. Và chỉ có những người vô liêm sỉ mới không dám nhận cái sai của mình.

Qua sự việc này, Thiếu Tướng Huỳnh Đắc Hương mong rằng, các Bộ tham gia điều tra, làm rõ việc quản lý đất đai ở Tiên Lãng trong thời gian tới đây sẽ trung thực, nghiêm túc và giải quyết triệt để vấn đề nhằm tạo ra sự đồng thuận giữa nhân dân và Nhà nước ngày càng vững bền hơn. Và có thể lấy câu chuyện ở Tiên Lãng làm điển hình cho những địa phương khác trên toàn quốc.
Thảo Lăng
Nguồn: GDVN.

GS. ĐẶNG HÙNG VÕ: PHÓ CHỦ TỊCH TP HẢI PHÒNG NÓI LINH TINH

GS. Đặng Hùng Võ: Phó Chủ tịch TP Hải Phòng nói linh tinh


Thứ tư 18/01/2012 06:56

(GDVN) - “Tất cả mọi việc đều phải căn cứ vào luật đất đai, đất bãi bồi hay đất khai hoang thì cũng là đất, chứ không lẽ nó là trời à?”.

Vụ việc thu hồi, cưỡng chế đất đối với nông dân Đoàn Văn Vươn tại xã Quang Vinh huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) vẫn đang thu hút sự chú ý của dư luận cả nước, đặc biệt là khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Chủ tịch UBND TP Hải Phòng kiểm tra làm rõ đúng, sai, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc giao đất, sử dụng đất, thu hồi đất, tổ chức cưỡng chế đối với hộ gia đình ông Đoàn Văn Vươn; báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Sáng nay, một lần nữa, vụ việc này lại trở thành tâm điểm của dư luận khi ông Đỗ Trung Thoại - Phó Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng cho rằng, diện tích đất ông Đoàn Văn Vươn bị thu hồi không phải đất nông nghiệp, vì vậy sử dụng thời hạn bao lâu là do thỏa thuận. Để làm rõ hơn trong phát biểu của ông Thoại này, tối qua, PV Báo Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với GS.Đặng Hùng Võ – Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

GS. Đặng Hùng Võ: Đất bãi bồi hay đất khai hoang không là đất thì nó là trời à?

Thưa Giáo sư, báo chí đã nêu phát biểu của vị Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng rằng “Đất bãi bồi ngoài đê biển quốc gia trong quy định của Luật đất đai không phải đất sản xuất nông nghiệp để giao ổn định trong 20 năm. Vì thế, giao bao nhiêu năm là do địa phương và người thuê đất thỏa thuận với nhau”. Theo ông, những gì lãnh đạo này nói có đúng không?

GS. Đặng Hùng Võ: Vậy thì phải hỏi lại ông Phó Chủ tịch thành phố Hải Phòng là ông ấy nói như vậy căn cứ vào luật nào, điều bao nhiêu? Tôi khẳng định là chẳng có cái luật nào nói như vậy cả, tất cả mọi việc đều phải căn cứ vào luật đất đai, đất bãi bồi hay đất khai hoang thì cũng là đất, chứ không lẽ nó là trời à?

Trong trường hợp này thì vẫn phải giao cho người dân sử dụng 20 năm, không có bất kỳ điều luật nào nói rằng đất bãi bồi thì thỏa thuận thời gian thuê. Nói và làm phải căn cứ trên luật chứ đừng có nói linh tinh, tại sao một cán bộ ở tầm của Phó Chủ tịch thành phố Hải Phòng mà lại nói lăng nhăng như thế được? Cần phải hỏi cho rõ là vị lãnh đạo này của Hải Phòng nói như vậy là căn cứ vào điều luật nào, hay là anh tự nghĩ ra?

Ông từng nói năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 773 về Chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước các vùng đồng bằng, mà mục đích duy nhất là khuyến khích người dân khai hoang phục hóa, chinh phục thiên nhiên, khai thác hiệu quả đất bãi hoang. Vậy, giả sử trong trường hợp hết hạn giao đất thì ông Đoàn Văn Vươn vẫn sẽ được ưu tiên sử dụng tiếp?

GS. Đặng Hùng Võ: Cái này không phải xét chuyện ưu tiên hay không mà có luật rồi, đã giao cho nông dân thì không có chuyện hết hạn là thu hồi, mà chỉ thu hồi căn cứ vào 5 trường hợp: Thứ nhất là Nhà nước có quyết định thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng…; Thứ hai là người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; Thứ ba là cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; Thứ tư là người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; Thứ 5 là đất không được sử dụng liên tục.

Đối với trường hợp của anh Đoàn Văn Vươn là đất nuôi trồng thủy sản, nếu quá 12 tháng không đưa vào sử dụng thì Nhà nước sẽ thu hồi, chứ không có trường hợp hết hạn là bị thu hồi.

Đã nhiều năm qua, khiếu kiện về đất đai (thậm chí là khiếu kiện vượt cấp) đã diễn ra triền miên và sự việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng) đã gây ra những sự cố đáng tiếc. Giáo sư có nghĩ rằng, để xảy ra sự việc đau lòng này cũng một phần bởi sự yếu kém của chính quyền địa phương?

GS.Đặng Hùng Võ: Có hai vấn đề rất rõ qua các vụ khiếu kiện, thứ nhất đó là sự thiếu hiểu biết về pháp luật của chính những cán bộ làm việc tại các cơ quan công quyền; thứ hai là do tham nhũng, cố tình lấy cái chuyện thu hồi đất ra để tước đoạt quyền lợi của người dân. Rất nhiều vụ việc khiếu kiện về đất đai đã xảy ra, thậm chí xảy ra nhiều năm nhưng đều xoay quanh hai vấn đề này thôi.
Chủ tịch huyện Tiên Lãng nói căn nhà bị lực lượng chức năng san phẳng,
còn Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng lại nói do dân phá

Theo quan điểm của Giáo sư, việc chính quyền địa phương huy động công an, bộ đội để tiến hành các biện pháp cưỡng chế có cần thiết không?

GS.Đặng Hùng Võ: Tôi cho rằng, không nên sử dụng lực lượng vũ trang, bởi vì khi chúng ta sử dụng vũ trang thì người dân sẽ dùng chính điều đó để chống lại, đó là hệ quả rất dễ thấy. Cách tốt nhất là phải xử lý công việc thực tâm chứ không thể áp đặt bằng một biện pháp nào đó, bởi đây là một trường hợp xứng đáng được bảo vệ quyền lợi. Chính quyền không những ra quyết định thu hồi mà còn không bồi thường, vậy là mồ hôi họ bỏ ra đầu tư biến vùng bãi hoang thành đầm nuôi thủy sản của người nông dân bỗng dưng bị mất trắng. Họ cùng đường nên đã làm liều.

Không ai phủ nhận, hành vi của Đoàn Văn Vươn là trái pháp luật, nhưng cũng có ý kiến cho rằng cái sai ấy có lỗi lớn từ chính quyền địa phương. Giáo sư nhận định về vấn đề này thế nào?

GS. Đặng Hùng Võ: Quyết định thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất của địa phương là “quyết định gây hậu quả nghiêm trọng”, bởi vì nếu không có cái quyết định ấy thì người dân đã không chống lại. Quyết định đúng luật thì không sao, nhưng ở đây lại là quyết định sai luật, câu chuyện bắt đầu từ đó mà ra cả; tất nhiên cũng phải thấy rằng việc anh Vươn hành động như vậy là không đúng, nhưng công bằng mà nói là quyết định của chính quyền sai nên mới dẫn tới cái sai tiếp theo của người nông dân này.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Ngọc Quang (Thực hiện)
Nguồn: Giáo dục VN.