Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

VỤ ĐOÀN VĂN VƯƠN - BỐN CÂU HỎI CHO CHỦ TỊCH HUYỆN TIÊN LÃNG

Vụ Đoàn Văn Vươn Tiên Lãng: Bốn câu hỏi cho Chủ tịch huyện

Nguyễn Quang Vinh

Trước hết, việc anh Đoàn Văn Vươn và người nhà dùng vũ khí, mìn chống người thi hành công vụ là sai phạm, là phạm tội, chuyện này rõ. Khởi tố, bắt giam, xử án theo luật.

Nhưng báo chí và dư luận cũng đừng quá say sưa kể, tả, phỏng vấn loanh quanh về chính sai phạm này mà bỏ quên một việc cực kỳ hệ trọng: Nguyên căn của tội phạm.

Bản chất của thi hành pháp luật suy cho cùng, sau những khởi tố, bắt giam, án phạt tù, thì mục đích tối thượng là giáo dục, cải tạo, mà để giáo dục, cải tạo, để dẹp cái xấu cần hiểu rõ nguyên căn cái xấu.

Ở vụ việc này, nguyên căn nào dẫn tới một quân nhân phục viên cần cù lao động, hiền lành, nhân thân quá tốt, lại được lớn lên, được nuôi dưỡng trong một gia đình căn cơ về chính trị, lại được sống trong một môi trường thuần chất nông dân, ngày đêm làm bạn với lao động, với niềm vui lao động…lại có thể bùng lên thành tội phạm?

Người ta ( một vài tờ báo, cơ quan chức năng) làm như vô tình hay cố ý bỏ qua nguyên căn này.

Căn cứ vào tất cả những thông tin mà báo chí phản ánh, cả những bài báo ca ngợi tinh thần lao động quên mình của Đoàn Văn Vươn đã biến mấy chục hecta đầm lầy ở nơi hoang hóa thành đầm nuôi cá và trồng cây chắn biển, thành cái nơi, mà sau bao nhiêu năm đổ mồ hôi sôi nước mắt, đã bắt đầu nhìn thấy thành quả lao động đang sinh lộc, nảy mầm sống và đang bắt đầu mang lại no ấm cho những người dân ở vùng đất này.

Trước hết, anh Đoàn Văn Vươn là một người yêu đất, thiết tha lập nghiệp chính trên mảnh đất quê hương, khát khao làm giàu, muốn biến đổi một vùng đầm lầy ven biển thành nơi đất vàng, đất bạc. Không ai được phép phủ nhận điều này.

Căn cứ pháp luật thuê đất theo Luật đất đai, thì rõ ràng còn gần hai năm nữa anh Đoàn Văn Vươn mới hết hạn trả đất thuê ( Chứ không phải như lãnh đạo huyện đang lu loa ầm ĩ trên các phương tiện truyền thông là anh Đoàn Văn Vươn đã hết hạn thuê đất từ lâu mà địa phương đòi mãi vẫn chây ì không chịu trả).

Huyện đã ép lấy bằng sự duy ý chí, duy luật pháp, hay nói trắng ra là bằng vũ lực, coi thường người dân. Kết quả là gì là anh Đoàn Văn Vươn và các hộ dân kiện Huyện ra tòa, từ cấp sơ thẩm lên cấp phúc thẩm. Thấy thua lý, huyện viết cam kết nếu anh Đoàn Văn Vươn và các người dân không thưa kiện nữa, rút đơn thì huyện sẽ tiếp tục cho thuê đất hoặc giao đất. Tin huyện, tất nhiên người dân tin huyện, chẳng lẽ người dân lại không tin huyện, nên họ rút đơn, và chỉ chờ có vậy, huyện tráo trở lật lọng, bắt đầu ép dân đi với cái trò cưỡng chế, bất cần luật, bất cần uy tín, bất cần niềm tin.

Sự thúc ép và tráo trở của chính quyền huyện Tiên Lãng đã làm cho những người dân như anh Đoàn Văn Vươn, những người đã bao nhiêu năm sống chết, mồ hôi nước mắt trên vùng đất này phải bị dồn tới đường cùng.

Và như những gì đã xảy ra, là hệ quả của một cú liều mạng sống để giữ đất rồi rơi vào vòng lao lý.
Chắc chắn anh Đoàn Văn Vươn và những người dân này không và không bao giờ muốn làm cái việc tày đình kia để vào tù. Không ai ngu như thế. Chắc chắn anh Đoàn Văn Vươn và những người dân kia không hành động theo bản chất côn đồ như báo điện tử vnexpress.net đã vội vã vơ đũa cả nắm, đưa cả anh Đoàn Văn Vươn và những người dân tội nghiệp vào nhóm lưu manh côn đồ đất Cảng ( ?!).

Xin gửi tới ông Lê Văn Hiền, chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng bốn câu hỏi:

1.Ông quá biết rằng nếu cùng ra tòa án để xử vụ việc có tính chất tranh chấp này giữa huyện và anh Văn Vươn và các hộ dân, thì huyện thua, thế thì vì sao ông lại đánh lừa dân bằng một cam kết thỏa thuận nguyên đơn rút đơn thì bị đơn ( huyện) tiếp tục cho thuê đất, giao đất. Phải chăng lãnh đạo huyện Tiên Lãng đã không giãy dụa ra nỗi một sự ràng buộc nào đó với đơn vị nào đó trong việc bàn giao đầm lầy này? Và vì thế, huyện đã cố sống cố chết đạp trên cả luật pháp và quyền lợi người dân để cướp trắng đất?

2.Theo người Hải Phòng nói rất có khả năng vùng đầm cá của anh Đoàn Văn Vươn và các hộ dân tới đây sẽ nằm trong khu giải tỏa xây dựng sân bay và một số dự án, nên huyện đã cố tình cướp lại để kiếm lấy chút lợi lọc, lợi lọc cá nhân và cả ngân sách huyện? Chắc chắn lại có vài doanh nghiệp du lịch nào đó ve vãn huyện, ngắm nghía cái đầm hồ của anh Vươn và hình dung ra cơ ngơi hoành tráng của những vila, bãi tắm bên cạnh dự án sân bay, đúng vậy chứ, thưa lãnh đạo huyện Tiên Lãng?

3.Phiên tòa xử Đoàn Văn Vươn, chắc chắn phải có đại diện của lãnh đạo huyện Tiên Lãng. Và Lãnh đạo huyện Tiên Lãng có đủ dũng cảm và lòng trung thực để nhận ra sai phạm của mình, chính sai phạm của huyện là nguyên căn của cho Đoàn Văn Vươn và những người khác phạm tội.

4.Ông chủ tịch huyện có tự vấn trong đêm rằng, vì sao những nông dân nghèo, hiền hậu của mình lại ngay lập tức trở nên hung hãn, liều chết với chính quyền để giữ đất không?Vì sao và vì ai không? Báo chí hỏi ông, thu hồi đất của anh Vươn và các hộ dân để giao cho ai, ông nói “không thể công khai”? Không thể công khai? Không thể công khai?-Bản chất sai phạm và lợi ích nhóm hình như là ở đây, thưa đồng chí chủ tịch huyện kính mến của nhân dân (???)

Bốn câu hỏi này cũng là gợi ý cho đồng nghiệp báo chí của tôi phải viết cho ra sự thật về vụ việc này.

Đoàn Văn Vươn có tội, pháp luật xử.

Lãnh đạo huyện sai phạm và rõ ràng là sai phạm, ai xử?

Phương Bích: GIÁO DỤC HAY TRỪNG PHẠT?

Giáo dục hay trừng phạt?

Phương Bích


Anh em bạn bè vừa theo Bùi Nhân lên tiếp tế cho Bùi Hằng về, nghe họ kể lại cho mọi người, ai nấy đều rất phẫn nộ. Tất cả các gói cháo, gói mỳ, gói bánh gói kẹo, nghĩa là tất cả những gì đóng gói trong bao bì đều bị họ cắt hết ra để kiểm tra. Bánh kẹo thì vài gói có thể buộc túm lại chứ cháo với mỳ ăn liền hàng mấy chục gói thế mà bị cắt hết ra thì bảo quản kiểu gì? Vì bị cắt hết ra như thế nên Bùi Hằng không nhận nữa. Nếu vậy thì lần trước không cho thằng con gặp Bùi Hằng, nhưng các vị ở trại vẫn nhận hết quà của chúng tôi gửi cho Bùi Hằng. Làm sao mà kiểm chứng được Bùi Hằng có nhận được tất cả những thứ đó hay không?
Mọi người ai nấy đều căm giận, chửi rủa cái quy định độc ác ấy hết lời. Ở đời thì ác giả ác báo. Quy định gì thì cũng phải có lý có tình, phải có lương tâm chứ. Đến tù tạm giam cũng không đến nỗi bị đối xử như thế. Tôi nhớ trong Hỏa Lò người ta cũng không kiểm soát đến nỗi gắt gao như vậy. Nếu họ sợ người nhà nhét cái gì đó vào trong thì sao không dùng cái máy soi đồ thay vì cắt vụn nó ra thế. Cả một cái trại trông khang trang như thế mà không mua nổi một cái máy như vậy sao?
Chúng tôi chả rõ thẩm quyền của công an đến đâu. Những cái quy định này là do công an họ tự đặt ra, không thông qua một sự giám sát của một cơ quan lập pháp nào. Nếu vậy thì làm sao có thể khẳng định được cái quy định đó là đúng? Là không vi phạm hiến pháp? Ngay việc giáo dục cưỡng chế một người vốn có nhà cửa đàng hoàng hợp pháp ở Vũng Tàu đưa ra tít tận Vĩnh Phúc, cách xa hàng nghìn cây số để giam giữ cải tạo là trái với chính quy định của họ, mà họ cứ cố tình lờ đi. Luật sư của Bùi Hằng gửi đơn khiếu nại gần tháng nay họ cứ im lặng. Vậy có thể hiểu là họ cố tình không?
Hơn một tháng nay, thằng con trai của Bùi Hằng bỏ cả nhà cả cửa ở Vũng Tàu để ra ngoài này nhờ cậy luật sư và tìm cách gặp mẹ. Lần gặp thứ hai vừa rồi, nó nói mẹ nó tay bị sưng tím, khắp người bắt đầu lở loét và hắc lào. Nó nói khi mẹ nó yêu cầu được chữa bệnh, cán bộ trại có tiêm thuốc nhưng không nói tên thuốc cũng như xuất xứ và công dụng, thế là Bùi Hằng không đồng ý tiếp tục chữa bệnh nữa. Cô ấy cảnh giác như thế là phải, bây giờ chuyện bệnh nhân chết trong bệnh viện không phải là hiếm, huống hồ trong cái trại giam đèo heo hút gió này thì mạng người nó lại càng rẻ rúng bao nhiêu. Hôm đọc cái đơn của Bùi Nhân có đoạn cảnh báo về hậu quả của việc giam giữ cải tạo mẹ nó, tay đội trưởng phân khu 3 có vẻ quở trách trong đơn dùng từ nặng quá, nhưng rồi vẫn rất dõng dạc nói không sao, ý nói nặng thế chứ nặng nữa cũng chả là cái cóc khô gì đối với họ. Không khéo ngày ra trại, tinh thần không lo hỏng chỉ lo hỏng người. Không khéo sau khi được giáo dục về, ích lợi đâu chả thấy, tiến bộ đâu chả thấy, chỉ thấy mang thêm bệnh vào người – món quà duy nhất thu hoạch được nhờ ơn chính quyền gia ân ban tặng.
Hãy chứng minh cho sự nghi ngờ của tôi, rằng đây là sự trả thù của chính quyền đối với Bùi Hằng là không đúng đi. Tôi chắc hẳn không một kẻ gây rối trật tự công cộng nào bị kiểm soát chặt chẽ và gắt gao đến vậy. Họ muốn giáo dục cái gì khi một đề nghị chẳng cao sang gì lắm là được ăn cháo sau 15 ngày tuyệt thực cũng không được. Giáo dục kiểu gì mà dã man thế?
Sau khi mục sở thị cái cung cách thăm nuôi trại viên, tôi tự hỏi chính quyền có nhằm giáo dục thực không hay đó chỉ là sự trừng phạt? Việc giáo dục thì phải có chuyên ngành sư phạm, vậy mà các cơ sở này hoàn toàn do công an trực tiếp cai quản thì có nên gọi nó là cơ sở giáo dục cải tạo không? Trong các cơ sở giáo dục ấy, thay vì gọi là học viên thì người ta gọi là trại viên (vậy sao không gọi béng là trại cho rồi). Rồi trại viên chỉ được gặp người nhà trong một gian buồng có vách ngăn bằng tấm kính mờ. Họ nhìn nhau, nói chuyện với nhau qua những ô cửa tò vò be bé không khác gì nhà tù.
Khi nói giáo dục ai đó thì thường là câu người ta dành cho những kẻ bề dưới. Ví dụ như cha mẹ giáo dục con cái, thầy cô giáo dục học sinh chứ có bao giờ người ta nói ngược lại. Đấy là cách nói chung về cái công việc giáo dục. Còn việc người nào, thành phần nào trong xã hội cần phải giáo dục thì người ta hiểu đó là những kẻ hư đốn. Nhưng ngay cả đến cái từ hư ấy người ta cũng chỉ dành cho bọn trẻ chứ ít khi dùng cho người lớn.
Thế nào là hư để bắt phải để xã hội giáo dục? Rồi ai là người đủ tư cách giáo dục ai lại là một câu hỏi có những đáp án không giống nhau khi ngày một nhiều quan chức phạm pháp, thiếu tư cách đạo đức bị phơi bày trên mặt báo. Ngày càng nhiều clip quay các vụ cảnh sát nhận hối lộ trưng lên trên mạng. Người ta có quyền nghi ngờ, đặt dấu hỏi về uy tín và tư cách của chính quyền, bởi trước khi bị bắt quả tang phạm tội thì họ chính là những người lớn tiếng giảng giải về bài học đạo đức cho xã hội nhất.
Cố lên Bùi Hằng ơi. Hãy dũng cảm chống đỡ lại bệnh tật. Hãy chứng minh cho họ thấy bà mạnh mẽ thế nào. Không một ai quên sự hy sinh của bà, và mọi người đang chờ đợi từng giây từng phút ngày được đón bà trở về. 
Nguồn: Chim Kiwwi Blog.

Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

RFI: QUAN HỆ VIỆT - MỸ GẶP THỬ THÁCH VỚI TRƯỜNG HỢP BÙI THỊ MINH HẰNG

Quan hệ Việt – Mỹ gặp thử thách với trường hợp Bùi Thị Minh Hằng

Ngày 06/01 vừa qua, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phải lên tiếng giải thích về việc chính quyền Hà Nội quyết định bắt một người tích cực biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, và đưa vào giam giữ hai năm trong trại “giáo dục”. Việt Nam đã phản ứng như trên sau khi gặp phải nhiều chỉ trích, trong đó có lời phản đối chính thức từ phía Hoa Kỳ hôm 05/01, thông qua đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Giáo sư Carl Thayer phân tích trường hợp này.

Nhân vật trung tâm trong vụ việc này là bà Bùi Thị Minh Hằng, 47 tuổi, đã nhiều lần tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây hấn với Việt Nam tại vùng Biển Đông, và đã tiếp tục biểu tình bất chấp lệnh cấm của chính quyền.

Theo lời giải thích của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị, được báo chí Việt Nam trích dẫn thì : “Các cơ quan chức năng của thành phố Hà Nội cho biết (là bà) Bùi Thị Minh Hằng đã nhiều lần gây rối trật tự công cộng. Việc xử lý trường hợp này phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam”. Cũng theo ông Lương Thanh Nghị, trường hợp bà Hằng không phải là một vụ giam giữ vì quan điểm chính trị do « Tại Việt Nam, không ai bị bắt vì lý do bày tỏ chính kiến ».

Tuyên bố trên đây đã gián tiếp đáp lại lời chỉ trích chính thức từ phía Hoa Kỳ được đưa ra trước đó một hôm. Ngày 05/01, đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội đã tỏ ý “quan ngại sâu sắc” vì những thông tin cho biết là bà Bùi Thị Minh Hằng đã bị « kết án không qua xét xử tới hai năm giam giữ tại một trại cải tạo ở Việt Nam, vì đã tham gia vào một cuộc biểu tình ôn hòa ».

Hành động can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ và phản ứng của Việt Nam cho thấy là việc bắt giam bà Hằng đang khuấy động quan hệ Mỹ - Việt, vào lúc Việt Nam có ý muốn nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ, trong bối cảnh Hà Nội liên tiếp bị Bắc Kinh chèn ép trên vấn đề Biển Đông.

Trả lời phỏng vấn của RFI, giáo sư Carl Thayer đã cho rằng trường hợp Bùi Thị Minh Hằng đã nêu bật hai yếu tố nhân quyền và Biển Đông trong tương lai quan hệ Việt Mỹ. Theo ông Thayer, có bốn giả thuyết giải thích nguyên nhân vì sao bà Hằng bị bắt giữ và đối đãi một cách khắc nghiệt như vậy.

« Trước hết, đó có thể là vì Việt Nam muốn thực hiện tốt lời hứa "hướng dẫn công luận" trên những vấn đề ảnh hưởng đến quan hệ song phương Việt -Trung. Đây là thỏa thuận đạt được ngày 25 tháng 6 năm 2010 nhân dịp phái viên đặc biệt của Việt Nam đến Bắc Kinh (sau khi Việt Nam tố cáo Trung Quốc sách nhiễu tàu thăm dò dầu khí Việt Nam trong vùng thềm lục địa của mình).

Giả thuyết thứ hai là các quan chức Việt Nam tính toán rằng ý định của Hoa Kỳ muốn lôi kéo Việt Nam vào việc ngăn chặn Trung Quốc tại Biển Đông sẽ xóa nhòa các mối quan tâm của Mỹ về nhân quyền. Trong trường hợp đó, phản ứng của Đại sứ quán Mỹ trong vụ bà Minh Hằng chỉ mang tính chiếu lệ mà thôi.

Theo giả thuyết thứ ba, có thể là giới lãnh đạo Việt Nam lo ngại trước tác động của ba vấn đề khác nhau trên sự ổn định chính trị trong nước : Hiện trạng kinh tế của Việt Nam, tình hình bất ổn chính trị tại Trung Quốc và tác động tiềm tàng của mùa xuân Ả Rập…

Giả thuyết thứ tư là bà Minh Hằng đã có thành tích đấu tranh chính trị. Theo Human Rights Watch, bà đã bị giam giữ ít nhất bốn lần trong sáu tháng qua. Các bức ảnh và video quay cảnh bà tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc cho thấy là bà rất dũng cảm. Dù bị nhiều áp lực, bà vẫn tiếp tục biểu tình. Cơ quan an ninh Việt Nam không quen khoan dung, và thái độ cứng rắn của bà Minh Hằng được coi là một sự thách thức trực tiếp uy quyền của nhà nước".

Theo giáo sư Thayer, trường hợp của Minh Hằng rất nhạy cảm vì không thể khép bà vào tội hoạt động tuyên truyền chống nhà nước. Việc bà nhằm chống lại các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông được đông đảo công chúng Việt Nam ủng hộ và có ảnh hưởng rộng rãi.

Vấn đề này nổi cộm lên vào lúc các cuộc đàm phán Mỹ - Việt về một bản tuyên bố quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ đã gặp trở ngại vào năm ngoái, do bất đồng trong hồ sơ nhân quyền. Phía Hoa Kỳ muốn xếp vấn đề này vào một đề mục riêng biệt, trong lúc phía Việt Nam lại chủ trương lồng nhân quyền vào bên trong một đề mục chung là quan hệ chính trị.


BỊ CƯỠNG CHẾ, TẾT NÀY CÓ NHỮNG GIA ĐÌNH KHÔNG CÓ CHỖ THỜ CÚNG TỔ TIÊN

Cưỡng chế chỉ ngay trước Tết âm lịch hai tuần lễ, ngày Tết đến thì chúng tôi thờ cúng Ông Bà ở chỗ nào?

Kính gửi: Bauxite Việt Nam

Tôi tên: Nguyễn Văn Bạch năm nay 80 tuổi là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam được 57 năm tuổi đảng (số thẻ đảng: 40.005403), hiện cư ngụ tại số 30 đường Lê Thị Hồng Gấm, phường Nguyễn Thái Bình, quận 1, TP.HCM.

Gia đình tôi là một gia đình cách mạng từ lâu đời, cha mẹ tôi đều là Đảng viên từ trước năm 1940, cha tôi bị giặc xử tử năm 1941 sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, mẹ tôi bị giặc xử tử hình vắng mặt sau Khởi nghĩa Nam Kỳ nhưng vẫn trốn lánh để tiếp tục hoạt động cách mạng cho đến khi thống nhất đất nước, anh ruột của tôi hy sinh trong trận Ấp Bắc năm 1969, em ruột của tôi bị lãnh án chung thân khổ sai ở Côn Đảo đến năm 1973 mới được trao trả. Riêng tôi tham gia kháng chiến từ năm 1947 sau đó tập kết ra Bắc được cử đi học và thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Gia đình tôi đến nay chưa hề được hưởng một chính sách nào của nhà nước về nhà ở, căn nhà tôi đang ở hoàn toàn tự tạo ra bằng mồ hôi xương máu của mình.

Vậy mà giờ đây khu vực nhà tôi đang ở là tứ giác Bến Thành (đối diện chợ Bến Thành) bị giải tỏa để xây trung tâm thương mại, văn phòng, căn hộ và khách sạn cao cấp nhưng lại bị áp đặt giá bồi thường chỉ bằng ½ giá thị trường. Gia đình tôi chấp nhận di dời nhưng yêu cầu được bồi thường gần bằng 70%  giá thị trường nhưng chưa được giải quyết, vậy mà tôi nhận được lệnh cưỡng chế vào lúc 7h00 ngày 06/01/2012 chỉ ngay trước Tết âm lịch hai tuần lễ, ngày Tết đến thì chúng tôi thờ cúng Ông Bà ở chỗ nào.

Mong quí báo đăng tin để tránh cho những người khác lâm vào hoàn cảnh như tôi.
Xin cảm ơn.                                                                                                                
Người viết,
Nguyễn Văn Bạch
Nguồn: Bauxite VietNam.
___________________________

Phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội: 
Hương hồn bốn Liệt sĩ trú ngụ ở đâu?

Sự việc UBND phường Hà Cầu, quận Hà Đông, TP Hà Nội cưỡng chế, phá dỡ trái pháp luật căn nhà cấp 4 của gia đình bà Nguyễn Thị Hà, ở khu Cầu Đơ 2, đến nay đã kéo dài hơn một năm. Ngần ấy thời gian, bà Nguyễn Thị Hà là vợ liệt sĩ, người phụ nữ khốn khổ 73 tuổi, vẫn phải sống vạ vật trong căn phòng đi thuê chưa đầy 10 m2, bốn liệt sĩ của gia đình bà Hà cũng không có nơi thờ cúng, hương khói, càng tủi vong linh.

Vậy mà sự việc vẫn không được giải quyết dứt điểm, do sự “lắt léo” của chính quyền phường. Ngay đến TAND quận, nơi gia đình bà Nguyễn Thị Hà đặt hết hi vọng vào “cán cân công lí”, cũng vô cảm, thậm chí khi phóng viên Báo Người cao tuổi đến làm việc, bà Trần Thị Xuân, Chánh án TAND quận Hà Đông tỏ thái độ bất hợp tác...

Các cơ quan báo chí tốn nhiều giấy mực phản ảnh sự thật việc UBND phường Hà Cầu cưỡng chế, phá dỡ trái pháp luật căn nhà cấp 4 của gia đình bà Nguyễn Thị Hà, làm trên thửa đất ở hợp pháp tại khu Cầu Đơ 2 đã rõ như ban ngày. Báo Người cao tuổi đã có nhiều bài phản ánh, phân tích, kiến nghị, đồng thời gửi nhiều công văn nêu rõ: Thửa đất của gia đình bà Hà mang số 5, tờ bản đồ địa chính số 14 (2B- I- B- d) năm 1998, kí hiệu (T), mang tên Nguyễn Thị Hà.

Đối chiếu với Khoản 4, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất (hoặc được đền bù khi thu hồi đất), vì gia đình bà ở ổn định trước 15-10-1993 (khai hoang từ năm 1986), không tranh chấp và có tên trong hồ sơ địa chính. UBND phường Hà Cầu cưỡng chế, thu hồi mà không có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền, không đền bù và bố trí tái định cư là trái pháp luật. Báo đề nghị UBND phường Hà Cầu nên bố trí chỗ ở khác cho gia đình bà Hà theo đúng pháp luật, hơn nữa để tri ân các liệt sĩ... Thế nhưng, những kiến nghị hợp tình, hợp lí của báo chí vẫn bị rơi vào quên lãng.

Do dư luận lên tiếng mạnh mẽ, ngày 22-7-2011 UBND quận Hà Đông có Công văn số 1084/UBND-VP, giao UBND phường Hà Cầu làm chủ đầu tư lập dự án xây dựng nhà tình nghĩa cho bà Nguyễn Thị Hà. Trước đó, ngày 1-7-2011 UBND quận Hà Đông có Công văn số 915/UBND-TTr gửi UBND thành phố Hà Nội, đề xuất cho phép UBND phường Hà Cầu xây dựng nhà tạm cư tại lô đất số 49, diện tích 38 m2 bằng vốn ngân sách để bố trí chỗ ở cho bà Nguyễn Thị Hà. Việc UBND quận Hà Đông đề xuất xây dựng nhà tạm cư cho bà Hà, xuất phát từ báo cáo sai sự thật của UBND phường Hà Cầu rằng, năm 1999 bà Nguyễn Thị Hà đã được UBND quận Hà Đông giao 43 m2 đất ở theo chính sách đối với thân nhân liệt sĩ, bà Hà đã bán diện tích đất được giao... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt, nhằm phục vụ mục đích không trong sáng của một số cán bộ thuộc UBND phường Hà Cầu.

Chị Nguyễn Thị Thanh Tình, con dâu bà Hà cho biết: Thực chất bà Nguyễn Thị Hà phải đi vay lãi để có tiền mua mảnh đất giãn dân rộng 43 m2 từ năm 1996, cùng mua với bà Hà còn có hơn trăm hộ dân khác, chính ông Chủ tịch UBND phường đương nhiệm Nguyễn Văn Hùng cũng mua một suất và ông đã bán cho người khác. Do kinh tế gia đình khó khăn, bệnh tật, bà Hà phải bán mảnh đất đó đi để trả nợ, chữa bệnh và lấy kinh phí đi Quảng Bình đưa hài cốt chồng là liệt sĩ Bùi Xuân Liên về quê an táng.

Bà Nguyễn Thị Hà từng phải “quỳ” trước ông Bí thư Đảng ủy phường để dâng đơn.

Cái gọi là “nhà tình nghĩa” được khởi công từ 10-8-2011 đến 20-9-2011 hoàn thành. Đến đây, UBND phường Hà Cầu lợi dụng việc này để mặc cả với bà Hà, yêu cầu bà phải rút đơn khởi kiện mới được giao nhà tình nghĩa. Gia đình bà Hà không nhất trí, do chính quyền tuyên bố chỉ giao nhà tạm cư. Ngày 1-12-2011 UBND phường Hà Cầu lại gửi cho bà Hà Giấy mời với nội dung: “Xin trân trọng kính mời bà Nguyễn Thị Hà có mặt tại nhà của bà Hà hiện nay (nơi ở thuê) để tổ công tác của phường đến thống nhất việc giao nhà ở cho bà Hà”. Thật lạ, UBND phường có trụ sở hẳn hoi sao không mời bà Hà đến làm việc, trong khi thực tế bà Hà hiện làm gì còn nhà ở chính thức? Thực ra, đây là “chiêu lắt léo” của chính quyền phường, họ đang tâm đến tận nơi ở trọ của bà Hà, lừa một bà già 73 tuổi kí vào biên bản do họ lập, để coi như bà Hà đã “kí nhận nhà ở”, nhằm xí xóa vụ việc mà họ biết chắc rằng họ hoàn toàn trái pháp luật. Kết cục cho đến nay, nhà tình nghĩa chưa được nhận, đất ở hợp pháp bị thu hồi chưa được trả lại, bà Nguyễn Thị Hà vợ liệt sĩ vẫn phải chịu cảnh không nhà trong khi Tết cận kề.

Vào ngày 17-12-2010, bà Nguyễn Thị Hà nộp đơn khởi kiện đến TAND quận Hà Đông. Nhưng đến tận ngày 14-4-2011 Tòa mới thụ lí, chậm gần 4 tháng so với luật định. Chưa hết, người được phân công thụ lí đơn của bà Hà là thẩm phán Hoàng Anh Chiến còn “ngâm tôm” đơn của bà Hà suốt từ bấy đến nay, đã gần 9 tháng trôi qua, vẫn loanh quanh, tìm mọi lí do để trì hoãn việc xét xử. Ngày 13-12-2011, chị Nguyễn Thị Thanh Tình, người nhận ủy quyền theo pháp luật từ bà Nguyễn Thị Hà, đến gặp thẩm phán Hoàng Anh Chiến, để hỏi xem đến khi nào vụ án được đưa ra xét xử. Thẩm phán Hoàng Anh Chiến chỉ buông ra một câu tưng tửng rằng: “Chờ UBND phường Hà Cầu cung cấp đầy đủ chứng cứ, tài liệu thì mới xét xử”. Câu trả lời của ông Chiến vừa thể hiện sự tắc trách, vô cảm, vừa trái với quy định của Luật Tố tụng hành chính, có hiệu lực từ 1-7-2011, theo đó thời hạn phải đưa ra xét xử là sau 4 tháng, kể từ ngày thụ lí.

Quá bức xúc, chị Tình lại gửi đơn đến Báo Người cao tuổi. Ngày 25-12-2011, phóng viên Báo Người cao tuổi đến gặp ông Chiến để đăng kí làm việc, nhưng ông Chiến lấy lí do phải có ý kiến cho phép của Chánh án. Nói đoạn, ông Chiến vội vã xuống sân lấy xe máy đi mất. Chúng tôi buộc phải vào gặp bà Trần Thị Xuân, Chánh án TAND quận Hà Đông. Ngay lập tức, chúng tôi gặp phải thái độ không thiện cảm, bất hợp tác của bà Chánh án này. Trong khi chúng tôi ra sức giải thích rằng, đến đăng kí làm việc để được giải thích lí do vì sao vụ án chưa được đưa ra xét xử, trong khi đã quá thời hạn luật định tới hơn 4 tháng, thì bà Chánh án này chỉ một mực khăng khăng “bắt” chúng tôi trình bày sự việc. Ô hay! Nhà báo đến để được nghe một lời giải thích từ phía cơ quan chức năng, cớ sao phải “trình bày sự việc” với Tòa án? Chúng tôi chỉ còn biết ngao ngán ra về.

Mới đây, chị Tình nhận được Văn bản số 01/2011/TA-TB đề ngày 29-12-2011, gửi VKSND Tối cao, VKSND quận Hà Đông và chị Nguyễn Thị Thanh Tình, trả lời đơn của chị Tình. Tại văn bản này, TAND quận Hà Đông nại ra rằng: “Đến ngày 2-12-2011, TAND quận Hà Đông nhận được biên bản về việc UBND phường Hà Cầu cùng các cơ quan chức năng của quận Hà Đông đã đến nhà của bà Hà... Bà Hà đã kí nhận nhà ở”. Vậy là rõ, “chiếc bẫy” giăng ra cho bà Hà đã sập xuống. Họ sử dụng một biên bản được lập một cách vô lối, để phường Hà Cầu rũ trách nhiệm về hành vi trái pháp luật của mình, còn TAND quận Hà Đông dựa vào đó để kéo dài việc xét xử vụ án.

Tết này, người vợ liệt sĩ Nguyễn Thị Hà vẫn chưa có nhà ở, 4 vong linh liệt sĩ của gia đình bà vẫn chưa được “hưởng cái Tết” bình an, khiến dư luận không khỏi xót xa! Trong khi đó, những khuôn mặt vô cảm ở TAND quận Hà Đông và tại UBND phường Hà Cầu thì vẫn không hề “gợn sóng”
Hoàng Linh - Quang Thuận

NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT NHƯNG PHẢI HÀNH ĐỘNG THẬT!

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan: 
Nhìn thẳng vào sự thật nhưng phải hành động thật

"Nhân dịp Tết sắp đến tôi có nhiều cơ hội gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp, trong đó có nhiều đảng viên lâu năm, kể cả nhiều đồng chí đã từng giữ các cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Qua trao đổi thấy mọi người đều mong đợi chí ít là một số hành động thật cụ thể, thiết thực chứ không chỉ lặp lại những điều đã từng nói trong vô số nghị quyết đã có. Nói tóm lại là hành động, hành động và hành động!” 

Tự "đánh” vào đầu mình là chuyện khó nhất. Về tâm lý chẳng ai muốn làm, nếu bắt buộc phải làm thì cũng "giơ cao đánh khẽ” thôi! Như vậy đòi hỏi "giải phẫu”, cắt bỏ những sai sót của bản thân đâu có dễ nhưng cần phải làm, làm một cách thật sự nếu muốn xây dựng, chỉnh đốn Đảng để củng cố niềm tin của dân, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng- nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã chia sẻ với Đại Đoàn Kết như vậy khi nói về những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Hội nghị TƯ 4, khoá XI. 

Thưa ông, Hội nghị TƯ 4 vừa nhất trí ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, ông đánh giá thế nào về việc này?

- Tôi đã có dịp chia sẻ suy nghĩ theo yêu cầu của báo Quân đội nhân dân do đó thực tình không muốn nói lại. Tuy nhiên tôi cũng xin bổ sung "dăm điều ba sợi” với Đại Đoàn Kết.

Trước hết cần phải khẳng định rằng, trong suốt chiều dài lịch sử của cách mạng nước ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên nhiều kỳ tích vẻ vang. Nhờ vậy và nhờ ở tấm gương của nhiều chiến sỹ cách mạng ngẩng cao đầu ra pháp trường, một lòng kiên trung trong lao tù, xả thân nơi chiến trường... vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì dân tộc nên Đảng được nhân dân tin yêu. Ngay bây giờ, khi mọi người đang "lăn tăn” nhiều chuyện, biết bao đảng viên vẫn tiếp tục canh giữ nơi biên giới, hải đảo; miệt mài trên ruộng đồng, đổ mồ hôi nơi hầm lò, vắt óc trong phòng thí nghiệm, nơi giảng đường... Họ là những người đảng viên chân chính, đáng tôn vinh chứ? Nói như vậy có vẻ "cũ” quá nhưng đó là sự thật!

Nhưng tiếc rằng, bên cạnh đó có một sự thật khác là không ít (tức là nhiều) đảng viên, kể cả những người thuộc lớp "quyền cao, chức trọng” lại sa vào vũng bùn của chủ nghĩa tư lợi dưới nhiều hình thức, làm giảm sút lòng tin của dân đối với Đảng. Điều này thật đáng buồn và đáng lo, vì vậy việc Hội nghị TƯ 4 bàn một số vấn đề cấp bách để ngăn chặn là đúng thôi. Nhân đây tôi muốn chia sẻ một điều. Hôm qua có ông bạn đáng kính của tôi có nói với tôi rằng, ngày nay ở nước ngoài người ta định nghĩa "chủ nghĩa cá nhân” có khác trước. Trước đây người ta định nghĩa chủ nghĩa cá nhân là ích kỷ, chỉ lo cho mình, nay người ta cho rằng, dù sao cá nhân là thực thể tạo động lực cho phát triển, do đó không nên đả phá chủ nghĩa cá nhân mà chỉ nên chỉ trích bệnh ích kỷ, tư lợi, điều này cũng đáng suy nghĩ.

Thực ra không phải bây giờ Đảng ta mới chăm lo tới việc giữ vững phẩm chất đảng viên. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, là một Đảng Đảng cầm quyền, Bác Hồ đã lo tới chuyện này. Chỉ 15 ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, trong bức thư "gửi các đồng chí tỉnh nhà” Bác đã nêu nhiệm vụ "đề phòng hủ hóa”, lên mặt làm quan cách mạng, "dĩ công vi tư”, phải lập tức sửa đổi ngay. Và trước lúc ra đi, Bác vẫn trăn trở nói: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Như vậy Bác đã tiên liệu trước từ rất sớm.

Trong giai đoạn đổi mới, Đại hội của Đảng ta nào cũng báo động về tình trạng tha hóa trong đội ngũ đảng viên, kèm theo đó là không biết bao nhiêu nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị. Chỉ tiếc rằng các nghị quyết của Đảng về vấn đề này đi vào cuộc sống chưa thật hiệu quả, nên tình hình ngày càng xấu thêm.

Thưa, ông vừa nói tới chuyện các nghị quyết về công tác xây dựng Đảng đi vào cuộc sống chưa thật hiệu quả, vậy theo ông, nguyên nhân là do đâu?

- Nguyên do thì có nhiều, chắc nghị quyết sẽ nêu rõ, song theo thiển ý của tôi có mấy chuyện.
Thứ nhất, là chưa thật thấm nhuần những lời cảnh báo của Bác Hồ, từ đó ít chú trọng tới việc xây dựng Đảng, nhất là thực thi các cơ chế để phòng ngừa. Ví dụ có quy định về những việc đảng viên không được làm nhưng xem ra nhiều người không thực hiện nhưng rất ít người bị kỷ luật vì vi phạm. Thứ hai, là việc làm không đi đôi với lời nói mà dân dã gọi là "dzậy mà không phải dzậy”. Ví dụ hiện nay đang lùm xùm câu chuyện các cán bộ có tí chức, tí quyền ở Sóc Trăng đánh bạc lên tới hàng 5-7 tỷ, họ đều có công ty sân sau hết và điều đó vi phạm cả Pháp lệnh về công chức, ai cũng biết nhưng chẳng ai làm gì, họ vẫn lên lương lên chức, vào cấp ủy như thường! Thứ ba, là cán bộ lãnh đạo không gương mẫu, chỉ đòi hỏi cấp dưới, còn bản thân thì ở "ngoài vòng”. Ví dụ qua phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thấy rõ lãnh đạo làm gì để đảng viên, làng nước theo sau. Tệ hơn nữa là việc xử lý thường "dưới nặng trên nhẹ”, thậm chí trên không việc gì. Thứ tư, là dân chủ trong Đảng chưa thật sự được phát huy, đồng thời cũng chưa có cơ chế để quần chúng, nhân dân giám sát đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo.

Ông chờ đợi nhất điều gì ở Nghị quyết TƯ 4, thưa ông?

- Hiện nay Nghị quyết chưa được công bố, ta hãy chờ. Nhân dịp Tết sắp đến tôi có nhiều cơ hội gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp, trong đó có nhiều đảng viên lâu năm, kể cả nhiều đồng chí đã từng giữ các cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Qua trao đổi thấy mọi người đều mong đợi chí ít là một số hành động thật cụ thể, thiết thực chứ không chỉ lặp lại những điều đã từng nói trong vô số nghị quyết đã có. Nói tóm lại là hành động, hành động và hành động!

Để có được những hành động như vậy thì đương nhiên phải có dũng khí nhìn thẳng vào sự thật cho dù cay đắng tới đâu đi nữa, giống như Bác Hồ đã công khai nhận khuyết điểm trước dân sau những sai lầm trong cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức trong những năm 50 thế kỷ trước. Khi nêu ra sai lầm thì nên chú trọng tới những cái sai chủ quan là chính. Có lẽ chẳng nên đổ cho kinh tế thị trường, hội nhập, có chăng lỗi của ta là không nhận rõ những mặt trái của chúng để ngăn ngừa bởi có những nước kinh tế thị trường, hội nhập sâu hơn ta nhiều nhưng họ vẫn duy trì được xã hội trong sạch. Singapore là một ví dụ điển hình. Họ nghiêm minh, thấy tâm tư của dân không thuận đối với Đảng Nhân dân, họ tự "ghè” vào túi tiền của lãnh đạo, quyết định cắt giảm lương của lãnh đạo, từ Tổng thống, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng trở xuống!

Còn ta cần làm gì thì trước mắt, chí ít trong năm nay, nếu Bộ Chính trị, Trung ương chọn ra đôi ba việc thật đích đáng để làm tới nơi tới chốn, từ đó củng cố uy tín của Đảng, đáp ứng kỳ vọng, lấy lại niềm tin của dân thì thật tốt.

Vậy, một vài việc có thể làm ngay ấy, theo ý kiến riêng của ông là gì?

- Tôi nghĩ Bộ Chính trị và Trung ương có đủ thông thái và quyết tâm chọn trúng những việc cần làm, bản thân tôi chỉ xin bày tỏ vài kỳ vọng thôi.

Lần này tôi kỳ vọng sự chuyển động sẽ bắt đầu từ cấp cao nhất, mở một đợt sinh hoạt chính trị (tôi không muốn dùng từ "chỉnh huấn” hay "chính phong” vì những từ này có thể gợi lại một số tâm tư không thuận lắm) để nhìn lại những việc dư luận đảng viên, nhân dân râm ran xì xào với tinh thần thực sự cầu thị vì lợi ích của Đảng nhằm làm rõ sai đúng đối với từng cá nhân. Làm được như vậy sẽ là một động lực thúc đầy các cấp ủy rồi đến đảng viên noi theo. Nói cách khác là lần này nên làm từ trên xuống chứ không phải từ dưới lên.

Như trên tôi đã chia sẻ, "ghè” vào chân mình, tát vào má mình là chuyện khó nhất vì làm như vậy bản thân bị đau, quyền lợi bị đụng chạm. Nếu không tự làm nổi thì chấp nhận để người khác "ghè” hộ, "tát” hộ vậy. Nói thế thôi chứ chuyện này cũng chẳng dễ gì vì lẽ thường tát trẻ con thì dễ chứ tát người trên mấy ai dám và người bị "tát” cũng dễ khùng lên lắm. Do vậy cần có lòng dũng cảm của bản thân từng người và cơ chế bảo vệ cho người có dũng khí.

Bên cạnh đó cần sớm có những cơ chế rất cụ thể về công tác cán bộ và thực thi vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Riêng về cơ chế cán bộ thì nhiều vấn đề đã được nung nấu, thậm chí đã có chủ trương từ lâu song vẫn chưa đưa vào cuộc sống. Ví dụ cơ chế dân chủ trong Đảng chẳng hạn, đã có quyết định về chất vấn ở Trung ương nhưng hình như chưa thực hiện được trong khi Quốc hội đã làm từ lâu và truyền hình cho cả nước, cả thế giới biết. Hay quy chế trách nhiệm cá nhân, chuyện có lên, có xuống, từ chức... cũng cần được quy định cụ thể. Thấy người ta chỉ nói lỡ vài câu mà xin từ chức bộ trưởng, trong khi ở mình có những sai phạm tầy đình mà chẳng ai hay hấn gì lại thấy buồn. Chẳng lẽ nước ta không còn người hay sao? Chẳng lẽ vì nể nang người này người nọ hay vì lý do riêng tư nào đó mà chấp nhận để dân mất lòng tin chăng?

Cái cần đổi mới nhất là tinh thần dân chủ. Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong xã hội. Dân chủ ở đây là trên cơ sở thượng tôn pháp luật chứ không phải làm bừa, ai muốn làm gì thì làm. Cái chính là pháp luật, quy chế, quy định theo tinh thần dân chủ.

Nhiều cái cuộc sống đã đặt ra, mình đã nhận thức được nhưng vì lẽ này, lẽ khác cứ lấn cấn mãi không làm để rồi tự đẩy mình vào thế bị động. Chẳng nói đâu xa, ngay chức năng phản biện của MTTQ đã nói tới trong Luật Mặt trận rồi nhưng đến giờ cũng chưa cụ thể hoá được; luật về hội cũng chưa ra đời tuy ở nước ta đã có hàng trăm hội rồi; rồi luật biểu tình cũng mãi chưa được soạn thảo trong khi thực tế đã nảy sinh. Nói tóm lại, cần phải làm ngay, thực hiện ngay trong năm 2012 này một số việc, hoặc chí ít là một việc thôi. Phải làm ngay để dân tin là Đảng có quyết tâm thực.

Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!
Hoàng Mai (thực hiện)

TRÍ THỨC VÀ LÒNG TRẮC ẨN

TRÍ THỨC VÀ LÒNG TRẮC ẨN
Nhà thơ Thái Thăng Long
Xã hội phát triển nhờ trí thức khai sáng
Tri thức phát triển hay không  tùy thuộc vào thể chế chính trị của từng quốc gia. Vai trò của trí thức trong xã hội rất quan trọng, đó là  mở đường cho xã hội,  thức tỉnh mọi người, hướng đến chân lý đúng.

Ngày nay, không nhiều người có tri thức đi tìm chân lý, mà ngược lại, rất  nhiều người dùng tri thức có được để lươn lẹo, xoay ra kiếm tiền, làm giàu cho bản thân, không cần biết đến nhân tình thế thái. Cũng có những loại người chỉ chạy theo thời cuộc, xu thời, cơ hội, ít lo nạp thêm kiến thức và thường ngậm miệng, mải miết làm giàu mà không nhìn xã hội toàn cảnh. Tôi từng gặp không ít  họa sĩ, nhà văn, tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư dạy đại học, khi nói về thời cuộc, lại không mấy quan tâm đến người dân, đến cái nghèo, nỗi  đau thường trực về những điều không tưởng...Họ không xúc động trước cảnh  trẻ con đu dây qua sông đi học, những ngôi trường vùng cao không có mái, không có phên che. Mỗi tháng họ nhận được mấy triệu hay mấy chục triệu là  cảm thấy sung sướng, tự mãn. Thậm chí trong số đó, có những vị còn không biết lên mạng. Thử hỏi làm sao truy cập những tin tức thời sự cũng như những điều đang xảy ra xung quanh mình?

Đó là điều đau khổ cho một xã hội, nhất là khi những con người có tri thức  sớm thỏa mãn về ngôi nhà to, xe ô tô, những  tiện nghi và về việc con cái được đi du học nước ngoài. Họ không cần nhìn ra sự tha hóa ở một bộ phận giới trẻ. Họ sống ươn hèn, chấp nhận một môi trường học thuật giả dối mà không hề có ý chí vun đắp cho xã hội. Thậm chí, có người chỉ đọc báo Công an, để xem mấy cột tin cướp, giết và xem ...khu vực quanh nhà mình có bị trộm hay không.
Loại người thứ hai thực sự lươn lẹo khi dùng học thuật để biến thành những trang sách đánh lừa mọi người. Họ có hàng chục đầu sách,  pha một ít văn hóa phương Tây, một ít văn hóa phương Đông, sao chỗ này, chép chỗ khác- thế là thành học giả. Xã hội nào sử dụng những  loại người như vậy để phục vụ cho mình thì xã hội đó không bao giở phát triển, mà ngược lại, sẽ đi giật lùi về tương lai. Hai loại người nói trên có tri thức nhưng không thể gọi là trí thức.

Công bằng mà nói, bên cạnh những kẻ xu thời còn có một nhóm trí thức  dùng kiến thức thực tế,  những gì họ dự cảm  về thời cuộc, dám chấp nhận hy sinh, lặng lẽ âm thầm giấu mình đi để làm những điều có ích cho xã hội. Họ đau đáu tình yêu đối với  đất nước,  lo lắng về sự tha hóa của con người, sự xuống cấp về nhân cách, đạo đức xã hội. Họ chăm lo củng cố sự nghiệp giáo dục, lên tiếng cảnh báo những vấn đề mà xã hội phải giải quyết một cách triệt để. Họ có khả năng phản biện với những chính sách không phù hợp thực tế và lòng dân. Những người đó có thể đếm trên đầu ngón tay.  

Và còn nữa  những lớp người trẻ yêu nước thực sự, có những nỗi đau thực sự của người nhìn rõ viễn cảnh tương lai, muốn kéo dân tộc ra ánh sáng văn minh...Số người này nhân lên theo từng năm tháng, nhưng đôi khi lại cô đơn. Nỗi cô đơn của kẻ nhìn thấy chân lý  và nỗi cô đơn của số ít đang kéo đến gần tương lai những người bị mê sảng bởi quá khứ nặng nề, những chân lý ảo...Họ là những người xả thân thực sự. Có những chân lý ở ngay trước mắt họ, nhưng để mọi người cùng được thức tỉnh, được khai sáng không phải  là dễ. Họ dùng lý luận, thực tiễn, tiếng nói trái tim mình để thuyết phục đám đông. Nếu không có họ, xã hội sẽ đầy những kẻ tham nhũng, bon chen, tha hóa và giả dối.

Tôi nhìn thấy những nhà thơ đã “chết”. Nếu không có mục đích, khát vọng, tình yêu đất nước, nếu xa lạ với những nỗi đau của con người thì nhà thơ “chết” trong lòng  mọi người. Đối với không ít người, có tác phẩm in ra, có bài thơ phổ nhạc, có được giải thưởng nào đó...là mừng lắm rồi. Trong khi đó, thiên chức của nhà thơ luôn là người đi tiên phong, đi trước bằng những dự cảm và luôn thách thức những trật tự xã hội. Tuy nhiên, cũng có một số nhà thơ, nhà văn tiêu biểu hiện đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục, nâng cao dân trí, dùng hiểu biết của mình để mở mang đầu óc cho một bộ phận công chúng trong xã hội.

Để giải thích vì sao có một bộ phận lớp trẻ tha hóa, phải nhìn vào tấm gương xã hội, nơi phản chiếu thể chế chính trị sáng hay mờ.  Có thể nói gì nếu tấm gương đó phản chiếu sự chênh lệch giàu nghèo, tâm lý ức chế của dân nghèo trước những kẻ giàu có  nhờ tham nhũng, những kẻ chuyên dùng bằng giả chứ không có kiến thức thật, hàng nghìn tiến sĩ không làm được bài luận văn nghiên cứu chuyên sâu vể tình hình đất nước, cuộc sống của người dân hôm nay... Trong khi một tỷ phú Mỹ làm lợi cho xã hội gấp 100 lần, thì  ở ta, một tỷ phú đôi khi để giàu được lại phá...đi gấp nhiều lần.

Tuy nhiên, tôi luôn tin tưởng rằng  rồi đây có một lớp trí thức có tâm huyết, những tinh hoa của dân tộc  lớn mạnh dần lên để  khai sáng cho xã hội, hướng đất nước đến nhiều thay đổi tích cực. Đó là quy luật. Mà đã là quy luật thì không ai có thể cưỡng lại được. Cái nhìn của lịch sử ở các giác độ cũng phải thay đổi. Thời gian để đi đến thay đổi bao lâu quyết định là hồng phúc hay là đau khổ cho một dân tộc.
M.T ghi.
Nguồn Báo LĐ tết.
Nguồn: Trần Nhương

CÂU CHUYỆN VỀ BẬC KỲ TÀI TRÊN ĐẤT TIÊN LÃNG - HẢI PHÒNG

Đời sống & Pháp luật:
Thứ Năm, 22/07/2010-8:33 AM
Kỳ tài đất Tiên Lãng 
và cuộc chinh phục lời nguyền của biển
Đã biết về anh cách đây mấy năm, biết về cuộc đời đầy sóng gió và bão táp, biết cả những nỗi đau và day dứt hằn sâu tâm can con người anh, nhưng tôi chưa có dịp tìm hiểu sâu về cuộc đời nhiều bi hùng ấy. Trung tuần tháng 7 vừa qua, tôi lại có dịp về Tiên Lãng, đúng vào ngày có dự báo cơn bão Conson chuẩn bị đổ bộ vào nước ta, để ngồi với anh, nghe anh kể về cuộc chinh phục lời nguyền của biển...
Chinh phục "thần" biển
Câu tôi nói vui với anh, ngay khi biết về những việc anh đã làm, là cái tên anh nó vận vào đời anh nhiều quá. Anh tên là Đoàn Văn Vươn, sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, T.P Hải Phòng. Dường như, khi cha mẹ sinh ra anh đã có dự cảm về cuộc đời đứa con mình nên đã đặt cho anh cái tên lạ lạ: Vươn. Cái tên như gửi gắm một hi vọng: anh sẽ vươn ra biển khơi, chinh phục cuộc đời, chinh phục biển cả để thoả lòng mong mỏi của người cha già với nguyện ước "con hơn cha, nhà có phúc".
Đối với người dân vùng biển, biển luôn là người mẹ nuôi dưỡng những khát khao. Biển cũng là nguồn tài nguyên thuỷ hải sản vô giá và cũng là nỗi lo sợ, ám ảnh trước những cơn bão tố. Một trận cuồng phong có thể san bằng tất cả! Hơn ai hết, Đoàn Văn Vươn, người con của một vùng biển nghèo hiểu rõ điều đó. ở tuổi hừng hực chí trai, sức trẻ, anh đã đầu quân đi bộ đội. Môi trường quân đội đã thêm một lần nữa rèn giũa ý chí, nghị lực cho anh. Rời quân ngũ năm 1986, trở về địa phương, anh chỉ có một khát khao duy nhất, chinh phục chính miền đất quê mình để làm kinh tế. Để có cái ăn, để có cái mặc. Mặc dù đã nhanh chóng trang bị kiến thức bằng một tấm bằng đại học Nông lâm, nhưng anh lại từ chối làm cán bộ Nhà nước. Từ bỏ mộng quan trường ở thời điểm đó là một quyết định “lạ đời”, nhất là khi có bằng cấp trong tay. Đoàn Văn Vươn đã quyết làm một người nông dân thực thụ. Quyết làm một điều mà trước anh không ai dám nghĩ đến, chứ đừng nói là bắt tay làm.
Bỏ bằng đại học đi làm nông dân
Tiên Lãng có một địa danh gắn với sự dữ dội của biển và nghèo khó của con người: cống Rộc. Mỗi mùa mưa bão đến, sóng biển, gió biển ào ạt ngập lụt, đói kém thì sự cùng cực mà người dân nơi đây phải gánh chịu, phải chống đỡ trong kiệt quệ tinh thần, vật chất không gì diễn tả nổi. Trên một con đê trải dài ngút ngát, cống Rộc như một hiệp sỹ dũng cảm đối đầu với biển cả để bao bọc, chở che cho những người dân trót gắn đời mình vào phận biển. Nhưng sức mạnh khủng khiếp của thiên tai đã không biết bao lần bắt cống Rộc phải đầu hàng và cũng vì thế nó thành nỗi khiếp sợ mỗi khi bão biển, nước biển vượt qua phòng tuyến này. Lúc đó chỉ là mênh mông trời nước. Lòng người cũng dậy sóng theo từng con nước lớn.
Hiểu rõ điều đó, Đoàn Văn Vươn đã quyết làm một điều gần như không tưởng: chinh phục "thần" biển. Chinh phục cả nỗi khát khao không chịu đầu hàng số phận. Thế là từ cuối những năm 80, những viên đá đầu tiên được chàng trai Đoàn Văn Vươn mang đến trong cuộc trường chinh lấn biển, tạo hành lang bảo vệ để lấy diện tích khai thác nuôi trồng thuỷ sản. Chuyện đời, đâu dễ như nói.
Bằng cách nào để khuất phục biển? Đó là câu hỏi ngày đêm Đoàn Văn Vươn trăn trở. Anh đã bỏ hàng tháng trời để ăn biển, nằm biển, lắng nghe từng cơn sóng thuỷ triều lên, xuống, mải miết tìm đáp án. Không có sách vở nào dạy, không có kinh nghiệm tiền lệ nào để học theo. Chỉ có một điều đang dần lớn lên - Đó là ý chí. Bão lòng người đang dần lớn hơn bão biển. Nó dường như muốn phá tung khao khát đang bùng cháy trong anh. Đoàn Văn Vươn đối diện với hàng ngàn thách thức, suy tư. Khi đã hiểu rõ quy luật con nước, hiểu rõ thời điểm nào cần "ra tay" để bắt đầu, thì anh vấp phải không ít sự dèm pha.
Cái sự dám khuất phục "thần" biển của Đoàn Văn Vươn chả hiểu thế nào lại lan ra khắp vùng, lan ra cả các địa phương khác, trong đó có vùng đất Tiền Hải của tỉnh Thái Bình.  Anh kể: "Lúc đó có một người chuyênkhai thác các vùng đất ven biển của huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, để làm ăn. Khi biết tôi có ý định chinh phục vùng biển quê Tiên Lãng này, người ấy đã thông qua nhiều người thách thức tôi, rằng nếu tôi làm được, sẽ sẵn sàng mất cho tôi một chiếc xe máy đẹp. Người ấy mỉa mai, diễu cợt việc làm của tôi. Người vùng biển, nói là làm, người kia thách thức tôi chắc vì nghĩ tôi không làm nổi. Mặt khác, tôi hiểu đây còn là một sự thách đấu. Lúc đó, một chiếc xe máy đẹp có thể ví như con xe Camry bây giờ. Người thách đấu tôi không sợ, chỉ sợ Trời thách đố tôi thôi", anh nói, mắt nhìn xa xăm. "Đã thế tôi càng quyết tâm làm".
Đã có người bảo Vươn dại như con vích. Một con vật kỳ lạ của biển, là hay lôi ngược lại người ta. Nếu muốn bắt nó vào bờ, thì thay vì lôi nó vào bờ, người ta lôi nó ra... biển để nó đi theo chiều ngược lại. Cũng có người bạo mồm nói, thằng Vươn dám đi khuất phục "thần" biển là việc làm mạo hiểm.
"Vui sao nước mắt lại trào"
Nhiều năm trời, người dân nơi đây chứng kiến Đoàn Văn Vươn cùng anh em họ hàng quần quật lao vào cuộc trường chinh lấn biển. Có khi hôm trước làm, hôm sau sóng biển san thành bình địa. Hôm sau nữa  lại làm, sóng biển lại biến sức người thành bong bóng. Có khi nhìn thấy ít đất, đá còn bám trụ sau con sóng mà rơi nước mắt, Vươn đã tự đặt câu hỏi, thế này thì đến bao giờ? Hay là mình thất bại? Cứ thế, cứ thế, từng hạt đất bám trụ, từng viên đá trơ gan bám trụ là lại thêm một tia hi vọng. Một ngày trôi qua là khắc khoải chờ đợi một ngày mới, công sức bỏ ra không biết bao nhiêu mà kể hết.
Nói với chúng tôi, anh bồi hồi nhớ lại: "Nếu tính sơ sơ, đã có trên 20.000 m3 đất, đá được đưa đến đây, trên vùng đất ven biển Tiên Lãng mà các anh đang đứng trong cuộc chinh phục biển cả của tôi. Nói ra chính tôi cũng ngỡ ngàng,  tôi làm như mê, như say. Bởi  chỉ còn phía trước để tiến, chỉ còn biển để vươn ra. Tôi không có đường lùi, bởi thành công chỉ có cách duy nhất với tôi, đó là vươn ra biển".
Ngoài hàng chục ngàn m3 đất, đá đó, là biết bao sức người, sức của. Vừa lấn biển, chỉnh trị dòng nước triều dâng, vừa trồng cây bám đất, đã biết bao lần cây trồng lên lại bị biển nuốt trôi. Mất sạch. Tiếp tục trồng lại từ đầu, hàng ngàn cây bần, cây vẹt đã theo con sóng lẫn vào trùng khơi. Tiếp đó, không chỉ đất đá, hàng trăm tấn xi măng được đưa vào để tiếp thêm sức gắn kết thô mộc của đất và đá... Cuối cùng Trời không phụ lòng người, dòng chảy của biển ngoài đê biển cống Rộc đã bị khuất phục mà chuyển hướng. Phía chân đê có chỗ sâu gần 2 m, cốt âm, đã được nâng lên cốt dương. Từ đó hàng chục héc ta đất bãi bồi ven biển hình thành. Cũng theo đó, gần 70 ha rừng vẹt ngăn sóng biển đã bám trụ thành công. Không có tiếng vỗ tay.
Ngày nhìn thấy thành công trong mắtN, trong lòng, thoả khát khao của ước mơ ngàn đời "xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều",  lại là ngày nước mắt ầng ậc tuôn trào. Một nỗi đau câm nín, ngày đón nhận sự thành công mà có người đã nói là không tưởng đó, Đoàn Văn Vươn đã một mình đi lang thang ven biển. Đi trên chính phần đất bồi ven biển mà công sức anh đã tạo nên. Một mình vừa đi vừa lẩm nhẩm gọi tên đứa con gái xinh xắn dễ thương của mình, để tưởng nhớ đến nỗi đau và mất mát của riêng anh. Con gái anh, đứa con gái 8 tuổi ngây thơ và thân thương, nó cũng mang trong mình dòng máu chinh phục biển cả của bố đã vĩnh viễn ra đi. Và lý do cũng chính vì con nước biển trào dâng dẫn đến việc cháu chết đuối ở cống Rộc, trong chính những ngày bão tố ầm ầm, khi đó cũng là lúc anh đang chinh phục biển. Nỗi khiếp đảm khi nhắc lại chữ cống Rộc với người dân xứ này giờ trở nên thanh bình kỳ lạ. Anh đã thành công, cống Rộc trở nên yên ả trước phong ba, bão tố. Còn anh, một mình hứng nỗi đau câm lặng.
Anh không nói, nhưng vị đồng nghiệp đi cùng bảo, sự thành công trong việc trồng rừng chắn sóng, lấn biển của anh đã khiến người Nhật quan tâm. Một số chuyên gia nguời Nhật cũng đã tìm đến anh để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm. Ngẫm ra, anh cũng là bậc kỳ tài  rồi. Vậy mà 3 năm gặp lại, kể từ ngày biết anh, anh vẫn thế, mộc mạc và thuần hậu. Những việc anh làm có trời biết, đất biết. Còn việc đời và mất mát của anh, tôi cũng chỉ chia sẻ được phần nào. Bởi có những lúc, lòng người còn dậy sóng hơn biển cả. Đứng với anh trên con đê nơi có cống Rộc, phóng tầm mắt nhìn ra, ngút ngát một mầu xanh,  mầu xanh tươi từng thấm đẫm cả máu, mồ hôi và công sức. Phía xa hình như đang có một cơn giông...
Nguồn: Đời Sống & Pháp luật.
Nguyễn Xuân Diện: Một con người tử tế và giầu nghị lực và cao vọng như thế này, mà buộc phải chống lại chính quyền bằng vũ lực, thì phải xem lại cái chính quyền Tiên Lãng đó!

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2012

Thư giãn cuối tuần: XE CỘ và CHỮ NGHĨA



Vật bất ly thân của xe khi các vụ cháy, nổ ngày một gia tăng.
Xe máy tiếp sức cho ô tô.
Tuân thủ đúng quy định xe phải có biển.
Lời nhắn nhủ cho các quái xế.
Chiếc xe độc đáo làm nâng cao tầm nhìn cho chủ của nó.
Lời khuyên cho những ai thiếu cẩn thận...
...và tốt nhất nên gửi xe cho an toàn.
Món mới: Bánh mỳ bốn tê.
Lời nhắc nhở khách hàng.
Hãng viễn thông mới: Việt Theo.

Thu mua
Thu mua "xắt" vụn.
Biển quảng cáo luyện ôn thi đại học. Luôn có phương án cho tình huống xấu nhất.
Biển quảng cáo luyện ôn thi đại học. Luôn có phương án cho tình huống xấu nhất.
Vé gửi xe nhưng lại không có giá trị lấy xe.
Vé gửi xe nhưng lại không có giá trị lấy xe.
Hò dô ta cùng đẩy xe buýt.
Hò dô ta cùng đẩy xe buýt.
Tuân thủ quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, kể cả khi đang ở trên máy bay.
Tuân thủ quy định đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, kể cả khi đang ở trên máy bay.
Khuyến cáo không chọc phá thú dữ.
Khuyến cáo không nên chọc phá thú dữ.
Tẩm quất thư
Tẩm quất thư "dãn".


Đội thế này để bất chấp trời mưa gió.
Biện pháp khóa điện thoại hữu hiệu nhất.
Vừa đi vừa rao tìm biển.
Xe "đại gia" với biển số độc toàn 9.
Sành điệu với ton sur ton.
Răng cũng cần phân biệt đâu là răng cán bộ hay răng dịch vụ.

NGUỒN: VNEXPRESS.NET.
(trừ bức đầu tiên, trên cùng là nhặt ở chỗ khác)

Ông Hồ Nghĩa Dũng lại  hiện về, lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải

Phương Bích: THU QUA ĐÔNG LẠI, BỒI HỒI SẮP XUÂN

Đông qua Xuân lại tới...
.
Chuyện thứ nhất:
Cách đây đúng chục năm, một anh bạn cho mình mượn một cuốn sách có nhan đề “Tử vì đạo”. Có lẽ cuốn sách này bị những người theo công giáo rất phẫn nộ vì cho là có ý phỉ báng các vị thánh. Mình đã có ý đi tìm lại cuốn sách này, trong những hiệu sách cũ mà vẫn chưa tìm được.

Cốt chuyện thực ra làm mình rất xúc động. Chuyện về một thanh niên lêu lổng, trộm cắp, lừa tình, lừa tiền, nghĩa là mọi thói hư tật xấu đều có cả. Sau một vụ lừa đảo bị đổ bể, gã bị bỏ tù. Ra tù, gia đình không chứa chấp, xã hội chối bỏ. Thất nghiệp, gã lang thang đi đó đây, mong kiếm được một công việc để kiếm sống. Mình nhớ mang máng tên gã là Raj hay là gì đó.

Một buổi trưa nọ, Raj dừng lại trong một ngôi đền bỏ hoang bên bờ sông để nghỉ. Gã ngủ thiếp vì đói khát và mệt nhọc. Lúc chợt tỉnh giấc, gã thấy một bác nông dân đang ngồi bên cạnh nhìn gã đăm đăm.

Họ ngồi bên cạnh nhau, nói dăm ba câu chuyện bâng quơ. Bác nông dân buồn bã than phiền về chuyện khúc mắc gia đình, Raj thì đưa ra lời khuyên vô thưởng vô phạt gọi là xã giao. Sau đó họ chia tay. Raj không đủ sức đi tiếp, gã định nghỉ lại tại ngôi đền dăm ba bữa nữa mới tính đi tiếp. Sáng hôm sau, bác nông dân lại ghé qua ngôi đền. Bác vui vẻ nói mọi chuyện trong nhà đã ổn thỏa. Raj nhận thấy trong cách nói của bác nông dân có vẻ gì đó cung kính, gã không hiểu nhưng rồi cũng mặc kệ. (Sau này gã mới đoán rằng do đói khát lâu ngày nên người gã gầy rộc đi, râu tóc dài ra nên hẳn nom gã giống một nhà truyền đạo. Gã quyết định không cắt râu tóc, kiếm thêm cái gậy, luôn nói lấp lửng để giống một nhà hiền triết…). Họ vẫn nói chuyện theo kiểu bâng quơ như thế. Lại nói về chuyện ông A xích mích với bà B, ừ thì gã cũng lại nhận xét thế này thế nọ. Bác nông dân im lặng lắng nghe, sau đó bác ra về không quên để lại cho Raj ít đồ ăn và hoa quả.

Hầu như ngày nào bác nông dân cũng ghé qua ngôi đền. Ngày nào bác cũng đem đến cho Raj một ít đồ ăn thức uống. Thỉnh thoảng bác lại đưa ra những tình huống khó xử của bác hay một ai đó trong làng và lắng nghe Raj phán. Lạy Chúa phù hộ, mọi việc đều xuôi chèo mát mái. Raj cảm thấy vận may đến với gã, gã chẳng phải làm gì mà vẫn có cái để sống. Gã quyết định ở lại ngôi đền một thời gian. Ngày lại ngày trôi qua, những người trong làng bắt đầu tìm đến ngôi đền. Chuyện gì họ cũng đem ra hỏi Raj, và may mắn vẫn chưa rời bỏ gã, chuyện gì cũng ổn thỏa một cách tình cờ, nhưng lại đem đến cho Raj danh tiếng bất ngờ. Chuyện 2 làng đánh nhau một mất một còn, họ nhờ đến Raj can thiệp. Raj lên tiếng theo kiểu ba phải, thế mà cũng dẹp được mối cừu hận. Tiếng lành đồn xa, người ở các vùng khác bắt đầu tìm đến. Thậm chí có người còn tình nguyện đến quét dọn ngôi đền, đồ ăn thức uống người ta đem đến đền ngày một dư dả. Thấy mọi người tốt với mình quá, nhiều lần Raj đã định thú thật về con người mình. Thực ra cũng có lần gã hỏi bóng gió với bác nông dân, người đầu tiên đến với gã. Bác quả quyết Chúa trời đã đưa gã đến với ngôi đền này, ngay từ lần đầu tiên bác nhìn thấy gã nằm ngủ ở đó. Gã thấy buồn cười, nhưng không nỡ làm bác nông dân buồn và thất vọng. Cứ thế việc thú nhận ngày càng trở nên khó khăn hơn vì sự kính trọng của dân làng với Raj mỗi ngày một lớn.

Một ngày kia bất hạnh ập xuống đầu Raj. Không biết Chúa trời trừng phạt sự lừa dối của gã hay thử thách gã thực sự. Hạn hạn kéo dài khiến mùa màng thất bát, dân đói kém. Tuy đói thế nhưng người dân vẫn không để cho Raj đói. Raj cảm thấy dân làng đang trông đợi một cái gì đó ở gã. Vốn sống được bởi lòng tốt của dân làng, gã cũng muốn làm một cái gì đó để đền đáp. Khi gã hỏi gã có thể giúp gì cho dân làng không, bác nông dân rụt rè nói: thầy là một vị thánh, nay nếu thầy tuyệt thực, may ra có thể lay động đến trời cao, mới khiến cho trời mưa được.

-   Đúng thật là điên rồ! Ai mà tuyệt thực lại có thể khiến trời mưa được?

Gã cười thầm trong bụng về niềm tin ngây ngô của bác nông dân. Nhưng rồi mỗi một ngày qua đi, Raj cảm thấy không ổn. Gã cảm thấy những ánh mắt đang nhìn gã chờ đợi một cách tuyệt vọng. Dân làng chưa một ngày để gã bị đói trong khi họ đói vàng mắt ra. Gã điên lắm. Kể ra nếu gã tuyệt thực dăm ba ngày mà khiến trời mưa được thì gã cũng chả xá gì. Nhưng gã biết thừa chẳng bao giờ có chuyện đó. Nếu gã tuyệt thực mà trời vẫn không mưa thì gã sẽ phải chết à? Không được! Gã bắt đầu tính đến bài chuồn khỏi ngôi đền, mặc xác dân làng với cái niềm tin chết tiệt của họ.

Nhưng ma xui quỷ khiến thế nào mà gã không thể cất bước đi trốn cho được. Gã cứ bồn chồn đi ra đi vào. Cho đến một ngày, gã quyết định lấy hết can đảm, kể cho bác nông dân nghe toàn bộ cuộc đời mình. Bác nông dân ngồi trầm tư nghe Raj nói. Kể cả khi Raj nói xong, liếc nhìn trộm bác, bác cũng chẳng thốt lên tiếng nào. Raj ngạc nhiên lắm, gã đã chuẩn bị tinh thần để nghe bác sỉ vả một cách thậm tệ nhất rồi tống cổ gã ra khỏi đền, thế mà bác ấy cứ ngồi thản nhiên nhìn ra bờ sông. Không chờ đợi được nữa, Raj  đành phải lên tiếng:

-  Bác thấy thế nào?

-  Chẳng thế nào cả. Thầy chính là thánh ở chỗ đó.

Nói rồi bác vươn vai đứng dậy, chào tạm biệt gã để trở về làng. Raj những muốn nổi xung lên. Cái gã chờ là những lời chửi rủa, thậm chí là bị đánh, rồi bị đuổi một cách hợp pháp ra khỏi ngôi đền. Như vậy gã mới rũ bỏ được sự hối hận, như thế mới còn con đường sống cho gã. Nhưng nếu họ nghĩ về gã như thế thì có nghĩa là họ ép gã vào con đường chết rồi còn gì. Gã giận điên cả người. Nếu gã trốn bây giờ, chắc sẽ chẳng có ai đuổi theo gã.

Gã nghĩ suốt cả đêm. Cả đời gã chưa bao giờ phải nghĩ nhiều đến thế. Mình không nhớ gã nghĩ trong bao nhiêu lâu, một đêm, một ngày, hay hai ngày? Chỉ nhớ sau cùng Raj đã nói với bác nông dân là gã đồng ý tuyệt thực. Tin lan ra nhanh chóng, hàng trăm nghìn người từ khắp nơi đổ về ngôi đền, chứng kiến “vị thánh sống” của họ tuyệt thực cầu mưa cứu dân. Đến mức chính quyền phải huy động hàng nghìn cảnh sát đến để giữ gìn trật tự an ninh cho cả trăm ngàn người ấy.

Raj đã tuyệt thực bao nhiêu ngày mình cũng không nhớ, chỉ biết khi gã kiệt sức thì trời vẫn không mưa. Người dân lấy khăn ướt thấm lên đôi môi khô nẻ của Raj. Đến ngày thứ….trước khi Raj mê đi, gã nhìn thấy trong ánh hào quang trước mắt gã có những giọt mưa đang rơi…Lạy Chúa tôi, mình không nhớ chính xác câu văn, nhưng đoạn kết không nói rõ là có mưa thật hay đó chỉ là ảo giác trước khi Raj gục xuống. Cũng không rõ con người dối trá ấy đã chấp nhận đánh đổi tính mạng của mình để đem lại niềm tin cho những người dân đã từng cứu mạng gã khỏi chết đói – có chết thật hay không. Thực lòng mình không muốn Raj chết.

Chuyện thứ hai

Khi phát xít Đức chiếm nước Pháp, trong một buổi tiệc, các cô gái điếm bị gọi đến để phục vụ đám sĩ quan. Một tên sĩ quan lên tiếng sỉ nhục các cô gái điếm, các cô yên lặng chịu đựng. Nhưng sau đó, viên sĩ quan tiếp tục tỏ ý khinh rẻ phụ nữ Pháp, cô điếm bé nhỏ đang ngồi trên lòng hắn bất ngờ dùng chiếc dĩa ăn bằng inox đâm mạnh vào ngực viên sĩ quan. Trong khi tất cả lặng đi, cô gái điếm nhảy qua cửa sổ trốn mất.

Suốt mấy ngày trời, lính Đức tổ chức truy lùng cô gái điếm nhưng không thể nào tìm ra. Viên sĩ quan bị đâm kia đã chết. Lính Đức yêu cầu cha cố phải kéo chuông khi chôn cất viên sĩ quan. Thoạt đầu cha cố nhất định không chịu, nhưng khi bọn lính đe dọa sẽ cho người xông lên gác chuông thì cha cố đành chấp nhận kéo chuông. Hóa ra vị cha cố đã giấu cô gái điếm kia trên gác chuông. Sau ngày nước Pháp được giải phóng, cô gái điếm nọ được tôn vinh như một vị anh hùng. Cô được một viên tướng lấy làm vợ và trở thành một phu nhân đáng kính.

Những câu chuyện trên thật hay không có lẽ không quan trọng lắm. Không phải cứ đi tu rồi sẽ thành chính quả. Người biết sửa mình, biết vì cái nghĩa ở đời mới là đáng quý. Cả hai câu chuyện khiến mình nhớ đến câu nói: bất cứ vị thánh nào cũng có một quá khứ…

Chuyện về một kẻ lừa đảo, một cô gái điếm, “hay một tên chuyên giết người khi ngộ ra sẵn sàng rạch bụng, moi tim gan nhờ nhà sư dâng lên Đức Phật – sự tích cá he” đều là sự hướng thiện trong cuộc sống này, còn hơn khối kẻ đạo đức giả mà những người xung quanh đều nhìn thấy, chỉ có mỗi họ là cố tình không thấy mà thôi.
.
Phụ lục:
Chuyện thứ ba:
(đăng trong phần comments)
.
Đại chiến lần 2 ,nhân dân một tỉnh nọ của nước Nga phải đi sơ tán bằng xe ngựa kéo.Ai cũng vội vàng nên không kịp chuẩn bị đồ ăn ,duy nhất có một cô gái mang theo một cái làn ,có phủ một tấm khăn lên trên ,cái làn tỏa ra mùi thơm của thức ăn ,nhưng ai cũng né tráng không muốn nói chuyện với cô ,chỉ vì cô là gái điếm.Đi được vài giờ ai cũngđói khát ,cô gái lấy trong làn ra táo bánh mỳ ,và cả một con gà giò vui vẻ mời mọi người cùng ăn ,nhưng ai cũng ngoảng mặt đi ,bĩu môi bĩu mỏ khing thường cô ,không thèm ăn .Đi gần hết một ngày đường vẫn không tìm thấy quán xá nào bán hàng ăn cả ,cô gái lại vui vẻ bày đồ ăn ra mời mọi người cùng ăn ,mọi người khách khí, rụt rè ăn đồ của cô mời , chả mấy chốc chiếc làn của cô đã hết sạch đồ ăn ,thay vào đấy là tiếng cười nói vui vẻ của mọi người dành cho cô .Cô gái vui lắm.Bỗng có trạm canh của lính Đức ,sau khi kiểm tra giấy tờ bọn lính yêu cầu được ngủ với cô gái mới cho xe đi tiếp .Cô gái phản đối ,mới đầu mọi người im lặng đồng tình với cô ,sau chờ lâu quá mà lính Đức vẫn không cho đi ,trong xe bắt đầu xì xào nho nhỏ ,sau mỗi người một câu khuyên cô gái hãy biết hy sinh vì mọi người ....phải một lúc lâu cô gái đành gạt nước mắt bước vào trại lính...Xong việc ,bọn lính mới cho xe đi .Lúc này không khí trong xe khác hẳn ,ai cũng khinh bỉ không thèm nhìn cô ,có người còn bóng gió gái đĩ nọ kia...cô đau đớn ngồi khóc trong góc xe không một ai thương xót cô ,và họ đã quên chính họ đã khuyên cô gái làm cái việc mà họ đang khinh bỉ kia.
.
Thưa các bạn, vì chuyện tôi đọc đã lâu ,không chính xác từng từ ,nhưng cốt chuyện là như vậy.
Nguồn: Chim Kiwi Blog.