Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Thư giãn cuối tuần: SÁT THỦ ĐẦU MƯNG MỦ

Hôm nay Chủ Nhật, Hoa Hòe tái xuất giang hồ, tặng chư vị một chầu thư giãn với SÁT THỦ ĐẦU MƯNG MỦ HOÀNG HỮU PHƯỚC

Ai cùng có thể thấy tay này mà đi tranh luận với Bác Quốc nhà thì chỉ là:
CỐNG RÃNH ĐÒI SÓNG SÁNH VỚI ĐẠI DƯƠNG
hay
KÊNH MƯƠNG ĐÒI PHÔ TRƯƠNG VỚI THỦY ĐIỆN
hoặc
NGÕ NGÁCH MÀ CỨ ĐÒI LÁCH CÁCH VỚI MẶT ĐƯỜNG

Tuy nhiên do ngã mạn và tự yêu mình mà y:

PHẤN CỨ ĐÒI BÌ VỚI VÔI,
XÔI CỨ ĐÒI BÌ VỚI CƠM NẾP,
hoặc
BẾP DẦU CỨ ĐÒI ĐƯƠNG ĐẦU VỚI BẾP GA,
Nên
CỨT TRÂU HẠNG 3 CỨ NGỠ MÌNH LÀ SOCOLA HẠNG NHẤT

Cũng may cho y (biết đây sau này sẽ RỦI), dẫu chẳng ra zì với cái ĐẦU TO ÓC BẰNG QUẢ NHO, nhưng Y vẫn vào được QH bởi y dù XẤU NHƯ CON GẤU nhưng y biết người ta vẫn thích:

XẤU NHƯNG BIẾT PHẤN ĐẤU

Và hơn nữa
XẤU XẤU NHƯNG KẾT CẤU NÓ HÀI HOÀ.
Nên Y đã đầu xuôi đuôi lọt LẺN vào QH.

Vào được QH rồi, y phát SƯỚNG NHƯ CON MỰC NƯỚNG và phấn khởi NGẤT NGÂY CON GÀ TÂY lắm lắm.
Nhưng, vốn tham lam, đã ĐƯỢC VOI CÒN ĐÒI HAI BÀ TRƯNG, y thích CHƯỜNG MẶT ra trước bàn dân QH nên đã lớn tiếng lên mặt cả bác Quốc lẫn ông TT về cái zụ luật BT “Ô Danh”

Đúng thật là
ĐÃ NGU CÒN CỐ TỎ RA NGUY HIẾM
XẤU XÍ CÒN CỐ GÂY CHÚ Ý
ĐÃ SI-ĐA CÒN XÔNG PHA HIẾN MÁU

Dân mạng thấy y, nghe y mà GHÉT NHƯ CON BỌ CHÉT, nhưng y đúng là Điếc không sợ súng. Nên cứ TỰ NHIÊN NHƯ THẰNG ĐIÊN lên blog rồi web và lớn tiếng GÀO THÉT TRONG TOA-LÉT; lời lẽ thì THÔ BỈ NHƯ CON KHỈ, còn tỏ ra SÀNH ĐIỆU CỦ KIỆU khi ngang nhiên lớn tiếng chỉ trích các GS, TS khác với loại ngôn ngữ LÁO NHƯ CON CÁO. Y dám bán đứng cụ Phan với cái mớ kiến thức lịch sử DỐT NHƯ CON TỐT.

Đọc bài y viết, nghe lời y nói mà BUỒN NHƯ CON CHUỒN CHUỒN, lòng cứ thắc mắc sao có DB ngu lâu đến thế. Sau đó mới hiểu ra không phải tại y mà tại Mẫu Hậu đãng trí

KHÔNG PHẢI CHÚ DỐT CHỈ VỊ MẸ CHÚ QUÊN CHO I-ỐT VÀO CANH

Chúc Chư Vị một Chiều CN không còn BỰC NHƯ CON MỰC, zui lên một chút đi vì ĐỜI RẤT ZỞ NHƯNG TA PHẢI NIỀM NỞ thôi.
Cũng chúc ông HHP Một CN zui zẻ, chớ CỐ QUA MÀ THÀNH QUÁ CỐ thì nguy. Ông cứ HỒN NHIÊN NHƯ CÔ TIÊN mà ngủ tại QH hay IM NHƯ CON CHIM náu mình chờ thời có phải hay hơn không.

Nhắn luôn mấy ĐB KẾT NHƯ NỔ ĐĨA với ý kiến của HHP nhớ rằng đừng tưởng ăn theo nói leo như thế là KHÔN NHƯ CON CHỒN đâu nhé. Hễ thấy nhân dân LẠNH LÙNG NHƯ CON THẠCH SÙNG là phải biết là có chuyện. Không phải cứ ĐB lá OÁCH XÀ LÁCH được đâu. Nếu không tìm thấy THÚ VUI TAO NHÃ nào thì về nhà GIẶT TÃ CHO CON còn ích hơn.

Lời khuyên chung cho các vị ĐB là chớ có TỰ NHIÊN NHƯ THẰNG ĐIÊN khi phát ngôn, viết lách. Hãy cẩn thận chớ nhầm lẫn TIA SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM và ÁNH ĐỀN ĐẦU XE LỬA mà SÁT THỦ TRÊN CÂY ĐU ĐỦ dẫu có SÀNH ĐIỆU CỦ KIỆU cũng phải NGU THÌ CHẾT CHỨ BỆNH TẬT GÌ.

Hoa Hòe

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

QUỐC HỘI ĐƯA LUẬT BIỂU TÌNH VÀO CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT

Đưa Luật biểu tình vào chương trình xây dựng luật

 

Một ngày sau khi Thủ tướng lên tiếng ủng hộ việc soạn thảo dự án Luật biểu tình, sáng nay Quốc hội đã thông qua nghị quyết đưa dự luật này vào chương trình chuẩn bị xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13. 

> Quốc hội tranh cãi gay gắt về luật biểu tình/ 'Luật biểu tình sẽ có tác dụng tích cực cho xã hội'

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban đề nghị rút khỏi chương trình 3 dự án: Luật nhà văn, Luật bảo vệ quyền riêng tư, Luật bảo vệ sức khỏe tâm thần vì phạm vi điều chỉnh, chính sách, nội dung cơ bản chưa được làm rõ.

Dự án Luật biểu tình được đưa vào chương trình chuẩn bị để thể chế hóa điều 69 của Hiến pháp năm 1992, tạo công cụ pháp lý để công dân thực hiện quyền của mình và Nhà nước quản lý, kiểm soát hoạt động biểu tình theo đúng pháp luật.

Thường vụ Quốc hội tán thành với ý kiến của nhiều đại biểu đối với dự án luật này là cần chỉ đạo, chuẩn bị kỹ về nội dung, cân nhắc thời điểm trình Quốc hội xem xét, thông qua để tránh việc lợi dụng biểu tình gây rối an ninh trật tự, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

Đại biểu Quốc hội chất vấn các thành viên Chính phủ. Ảnh: Hoàng Hà.

Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa 13 gồm 85 dự luật, 6 dự án pháp lệnh thuộc chương trình chính thức và 38 dự án luật, 3 dự án pháp lệnh thuộc chương trình chuẩn bị.

Trước đó, tại buổi thảo luận về chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khóa 13, trong khi đại biểu Hoàng Hữu Phước cho rằng biểu tình là sự ô danh và Việt Nam chưa phải siêu cường kinh tế để đài thọ cho sự ô danh đó thì nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh: "Biểu tình là quyền cơ bản của người dân, không thể biến chúng ta thành ốc đảo dị thường".

Tại buổi trả lời chất vấn sáng 25/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Luật biểu tình phù hợp với Hiến pháp, đặc điểm lịch sử văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam, thông lệ quốc tế và cũng để đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân. Đồng thời luật này cũng có yêu cầu là ngăn chặn những việc làm, những hành vi gây xâm hại đến an ninh trật tự, đến lợi ích của xã hội và nhân dân.

Tiến Dũng
Nguồn: VNExpress

Bản tin trên VietNamnet: 
Rút Luật nhà văn, chuẩn bị Luật biểu tình 

- Tiếp thu ý kiến của các ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định rút dự án Luật Nhà văn ra khỏi chương trình chuẩn bị do phạm vi, chính sách, nội dung cơ bản chưa được làm rõ. Luật biểu tình sẽ được QH xem xét trong nhiệm kỳ này.

Dự án Luật nhà văn do đại biểu tỉnh Nghệ An Nguyễn Minh Hồng đề xuất và đầu kỳ họp đã được đưa vào chương trình chuẩn bị. Tuy nhiên, ngay sau đó, dự án đã vấp phải sự phản đối của rất nhiều đại biểu nên cuối cùng đã được rút khỏi chương trình.

Cùng được đưa ra khỏi chương trình chuẩn bị còn có dự án Luật bảo vệ quyền riêng tư (do đại biểu Đặng Thị Hoàng Yến đề xuất) cũng với lý do như trên.

Ảnh: Minh Thăng

Chuẩn bị Luật biểu tình

Riêng dự án Luật biểu tình vẫn được giữ nguyên. Theo giải thích của Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý, dự án Luật biểu tình được đưa vào chuẩn bị xem xét trong nhiệm kỳ này để chuẩn bị thể chế hóa điều 69 của Hiến pháp năm 1992, tạo công cụ pháp lý để người dân thực hiện quyền của mình và nhà nước quản lý, kiểm soát hoạt động biểu tình đúng pháp luật.

Tuy nhiên, dự án luật cần được chỉ đạo, chuẩn bị kỹ về nội dung, cân nhắc thời điểm trình Quốc hội xem xét, thông qua và điều kiện tỏ chức thực hiện để tránh việc lợi dụng biểu tình gây rối an ninh, trật tự, làm ảnh hướng lợi ích nhà nước và công dân.

Tại kỳ họp này, các đại biểu cũng đề xuất nhiều dự án luật mới như Luật từ chức, Luật phản biện xã hội, Luật tòa án hiến pháp... Tuy nhiên, theo ông Phan Trung Lý, các dự án này mới chỉ là đề xuất về tên gọi, chưa có hồ sơ, thuyết minh đầy đủ, chưa nêu rõ phạm vi, chinh sách cần điều chỉnh nên đề nghị chưa đưa vào chương trình. Các đại biểu và cơ quan đề xuất sẽ tiếp tục nghiên cứu khi nào đủ điều kiện sẽ tiếp tục tái đề xuất với Quốc hội.

Như vậy, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa 13 được chốt lại gồm 85 dự án luật, 6 dự án pháp lệnh (trong chương trình chính thức). Đó là các dự án: Luật hoặc nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992; Luật Thủ đô, Luật đất đai sửa đổi...

38 dư án luật, 3 dự án pháp lệnh thuộc chương trình chuẩn bị bao gồm Luật biểu tình, Luật báo chí, Luật về hội hoặc luật lập hội, Luật tiếp cận thông tin...

Ủy ban Thường vụ QH sẽ tổ chức hội nghị chuyên đề để các đại biểu chuyên trách và đại biểu nào quan tâm có thể cho ý kiến về các dự án luật trước khi trình Quốc hội. Ngoài ra, các ủy ban trong quá trình thẩm tra luật cần tiếp tục thu hút chuyên gia, nhà khoa học giỏi cùng tham gia hợp tác.

Lê Nhung
Nguồn: VietNamnet.

HOAN NGHÊNH CÔNG AN THANH HÓA LẮNG NGHE DƯ LUẬN

Thanh Hóa dừng quăng lưới bắt người vi phạm giao thông

Chiều 26/11, ông Trần Văn Thực, Chánh văn phòng Công an tỉnh Thanh Hoá cho biết, trước quá nhiều ý kiến tranh cãi, Công an TP Thanh Hoá đã tạm dừng áp dụng biện pháp quăng lưới bắt người vi phạm giao thông.

>Quăng lưới đánh cá bắt người vi phạm giao thông / 'Không luật nào cấm quăng lưới bắt người vi phạm'/ 'Quăng lưới bắt người làm xấu hình ảnh cảnh sát'

“Công an tỉnh và Công an thành phố đang làm báo cáo luận chứng để đánh giá rút kinh nghiệm, đồng thời báo cáo Ủy ban An toàn giao thông quốc gia và các ngành chức năng về những kết quả đạt được. Sau đó, chúng tôi sẽ xin ý kiến để tiếp tục thực hiện”, ông Thực cho biết.

Ông Thực cho biết, từ khi triển khai biện pháp này, cảnh sát đã bắt giữ trên 100 người đua xe trái phép, lạng lách đánh võng, bước đầu tạo tâm lý răn đe loại tội phạm này.

Cảnh sát quăng lưới bắt người vi phạm giao thông. Ảnh: Lê Hoàng.

"Sắp tới chúng tôi sẽ đề nghị các nhà khoa học vào cuộc tích cực, mong muốn sáng chế ra một loại súng bắn lưới để biện pháp này đạt độ chính xác tuyệt đối và an toàn cho những người tham gia giao thông”, ông Thực nhấn mạnh.

Trước đó từ ngày 28/10, trong đợt cao điểm xử lý trật tự an toàn giao thông, Công an TP Thanh Hóa đã áp dụng rộng rãi biện pháp quăng lưới vào bánh sau hoặc gầm xe người vi phạm giao thông không dừng lại theo hiệu lệnh. Giải pháp này đang gây tranh cãi. Nhiều người ủng hộ vì thấy hiệu quả, nhưng cũng có người phản đối vì trông phản cảm và nguy hiểm với người đi đường.
Lê Hoàng
Nguồn: VNExpress.

LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU - Phần 1

Phan Bội Châu (1867 - 1940)
 LỜI CHIÊU TUYẾT CHO CỤ PHAN BỘI CHÂU
(Trước những lời xuyên tạc và thoá mạ Cụ của một vị đại biểu quốc hội)
Đào Tiến Thi

Đang lúc dư luận nóng lên vì những phát biểu hùng hổ của ông Hoàng Hữu Phước (HHP), đại biểu TP. Hồ Chí Minh, trước diễn đàn Quốc hội thì lại được độc giả cung cấp những trích đoạn trong các bài viết khác của ông về các vấn đề của đất nước. Cũng giống như GS. Ngô Đức Thọ, tôi phải kêu lên “kinh khủng quá” khi đọc những dòng dưới đây:
“Việt Nam hoàn toàn khác: tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị đều hoặc làm tay sai cho Pháp hay Nhật hay Hoa hay Mỹ, hoặc tự bươn chải chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” (như Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu [2] (Dấu chú thích này là của ông HHP; ông chú là lấy ở Lời tựa của Lương Khải Siêu in trong Việt Nam Vong Quốc Sử - ĐTT) khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật xin giúp kéo quân sang Việt Nam đánh Pháp, mà không biết mình rất có thể đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, mở đường cho sự quan tâm của Quân Phiệt Nhật tàn bạo đánh chiếm và giết chết nhiều triệu người Việt Nam sau này, và phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp), và tất cả đều chống Cộng. Chỉ có Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh thắng tất cả, tạo dựng nên đất nước Việt Nam thống nhất, nên việc “đòi quyền lợi” hay “đòi quyền tham chính” của tất cả các cá nhân, tất cả các phe nhóm chính trị bên ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam là điều không tưởng, vô duyên, khôi hài và bất công, nếu không muốn nói là hành vi bất lương của kẻ cướp muốn thụ hưởng quyền lực chính trị trong khi đã không có bất kỳ công sức đóng góp nào cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngoài sự chống phá ngay từ bản chất”.
Như vậy, ông HHP đã coi cụ Phan là người:
1- Chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” – nguyên văn trong ngoặc kép của ông HHP (như “khóc lóc với Lương Khải Siêu” khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật…
2-Vô tình đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, mở đường cho Nhật đánh chiếm Việt Nam sau này, và may nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm ấy.
3- Phan Bội Châu cũng nằm trong số các tổ chức ngoài Đảng CSVN, “tất cả đều chống cộng”.
Theo địa chỉ, tôi tìm đọc nguyên gốc của bài trên chính website của chủ nhân Hoàng Hữu Phước (http://www.emotino.com/bai-viet/18997/da-dang), và thấy đúng là như vậy. Bài đăng ngày 13-2-2011, tức là trước ngày bầu cử QH khoảng hai tháng, có liên quan trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của ông HHP, vì ông là một đại biểu tự ứng cử.
Đọc xong tôi càng bàng hoàng, lại phải thốt lên mấy lần nữa: Trời ơi, chỉ để thuyết phục mọi người “Việt Nam không cần đa đảng” mà ông HHP phải lôi cả cụ Phan Bội Châu ra để “trảm” ư? Cái ghế của ông HHP ở QH đắt đến thế ư? Sau Phan Bội Châu, đến lượt ai bị “trảm” tiếp đây, nếu như ông HHP không chỉ tham vọng là đại biểu QH mà còn muốn leo cao hơn nữa?
Dù biết đây chả chắc đã là nhận thức của ông HHP mà có khi chỉ là một cách “đón gió” của ông thôi, nhưng vì thấy lâu nay ngay trên sách báo phổ thông cũng có một số nhận định chưa chính xác về cụ Phan Bội Châu, và nhận thấy giới trẻ hiện nay có một bộ phận coi khinh lịch sử dân tộc nên cũng dễ tin theo những nhận định băm bổ kiểu như trên, tôi thấy cần viết bài này với mong mỏi cung cấp một ít tư liệu về Phan Bội Châu, để hiểu thêm về con người cụ Phan, nhất là trong mối quan hệ với Lương Khải Siêu, với chính phủ Nhật Bản và với Đảng CSVN, để độc giả xem có đúng như ông HHP nói không.
I- VỀ VIỆC PHAN BỘI CHÂU DÙNG “NƯỚC MẮT BẠC NHƯỢC” ĐỂ CỨU NƯỚC, CHẲNG HẠN NHƯ  “KHÓC LÓC VỚI LƯƠNG KHẢI SIÊU”
1. Cụm từ “đường cứu nước” mà ông HHP dùng để chỉ chỉ hoạt động của cụ Phan được ông để trong ngoặc kép, nghĩa là với hàm nghĩa giễu cợt, chứ không còn là đường cứu nước theo nghĩa đen nữa, đó là một cách sổ toẹt vai trò cứu nước của cụ Phan Bội Châu. Thật chưa ai dám vô lễ như ông HHP trước một bậc tiền nhân đã xả thân vì đất nước như cụ Phan. Ông HHP nên học lại lớp 7 để biết rằng chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhiệt liệt ca ngợi cụ Phan, từng gọi cụ Phan là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Ngữ văn 7, tập 2).
2. Chúng tôi xin kể vài sự kiện, chi tiết về Phan Bội Châu trước khi gặp Lương Khải Siêu để thấy bản chất con người Phan Bội Châu có phải là con người “bạc nhược” như ông HHP nói không.
Giai thoại kể, năm lên tám, khi thầy giáo ra vế đối:
Nhật nguyệt hai vầng treo trước mặt
Cậu bé San đã đối lại:
Giang sơn một gánh nặng trên vai
(Hoài Thanh: Phan Bội Châu, NXB Văn hóa, 1978)
Năm 1883, khi Pháp đánh ra Bắc Kỳ, mới 17 tuổi, cậu học trò San đã viết hịch Bình Tây thu Bắc, kêu gọi đánh Tây, thu hồi đất Bắc. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan tự mình thành lập đội sỹ tử cần cương 60 người. Chỉ vì chưa có danh lẫn thực lực nên đội nghĩa sỹ nhanh chóng tan vỡ.  
Thời gian trước 1900 là thời gian còn phải “ẩn nhẫn chờ thời”, còn học hành, thi cử để có kiến thức và chút danh phận, và nhất là còn phụng dưỡng cha già đau yếu, thì cái chí cứu nước ở Phan vẫn không dễ che giấu, như bài thơ Chơi xuân tràn đầy khí chất ngang tàng sau đây:
Nước non Hồng Lạc còn đây mãi
Mặt mũi anh hùng há chịu ri
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế
Phùng xuân hội may ra ừ cũng dễ
Nắm địa đầu vừa một tí con con
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà
Hai vai gánh vác sơn hà
Đã chơi chơi nốt ối chà chà xuân.
Năm thi đỗ giải nguyên, cũng là năm cha mất (1900), từ đấy Phan ra Bắc vào Nam tìm bạn đồng tâm, để rồi năm 1904 lập Hội Duy tân và đầu năm 1905, lên đường sang Nhật. Từ đây, con đại bàng thực sự cất cánh. Bài thơ Xuất dương lưu biệt mà theo Hoài Thanh (TL đã dẫn) là bài thơ khẩu chiếm trong tiệc rượu đưa tiễn đó:
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Giang sơn tử hỹ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Nguyện trục trường phong Đông Hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai
Non sông đã chét sóng thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt Biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)
3. Những chính khách Nhật Bản lần đầu tiên gặp mấy chí sỹ Việt Nam do Phan Bội Châu dẫn đầu đã hết sức cảm phục. Nghị sỹ Bạch Nguyên Văn Thái Lang nói:
“Bây giờ gặp các ông tưởng như đọc truyện hào kiệt thời trung cổ; bởi vì người Việt Nam đến đất nước Phù Tang cùng sỹ phu nước tôi trao đổi ý kiến, chính các ông là người đầu tiên”.
Như vậy, chưa cần nói đến hai mươi năm (1905 – 1925) lừng danh hăng hái dấn thân cứu nước, chưa cần kể những vần thơ khi hùng tráng, khi lâm ly mà đến nay vẫn đánh thức mỗi tim Việt Nam yêu nước, chưa kể khí phách khi ra tòa nhận án tử hình, chưa kể ngay thời kỳ cuối đời dù bị giam lỏng mà vẫn giữ trọn tấm lòng son, mà vẫn làm nhiều việc có ích, thì chỉ riêng vài chi tiết “vặt” nói trên, những chi tiết trước khi HHP gọi là “dùng nước mắt bạc nhược”, đã đủ cho ta thấy Phan Bội Châu bậc sỹ phu, bậc hào kiệt đáng để chúng ta muôn đời ngưỡng mộ, thế mà ông HHP lại gán cho cái gọi là “dùng nước mắt bạc nhược” tìm cứu nước thì thật là một sự xuyên tạc quá quắt.
4. Với cách dùng ngôn từ “Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu”, ông HHP còn cố tình tạo ra hình ảnh thảm hại của cụ Phan, với mục đích gì thì có lẽ mọi người tự hiểu.
Thực chất việc này như thế nào?
4.1.Chúng ta đều biết Lương Khải Siêu (1873 – 1929) là nhà cách mạng lớn của Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, là người có ảnh hưởng lớn đối với Phan Bội Châu, là người đã giúp đỡ Phan Bội Châu, khi lần đầu tiên Phan đặt chân đến đất nước Nhật Bản xa xôi, cũng như sau này, khi Phan nhiều lần qua lại, tá túc trên đất nước Trung Hoa. Một người như thế, kể cụ Phan, vì mục đích cứu nước, có phải khóc lóc cũng không có gì xấu, nhưng sự thực cũng không phải cụ Phan khóc để cầu xin Lương điều gì. Hãy đọc những dòng sau đây của chính Lương Khải Siêu khi viết tựa cho Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu:
“Gần đây ta gặp một người Việt Nam vong mệnh, thường khi nói chuyện với ta, ông hay giàn giụa nước mắt. Ta biết nếu không tự biết thương mình mà lại thương người khác, thì có khi người lại thương cho số phận của mình đấy.
Ta đọc sách này chẳng những đã thương mà còn sợ nữa”.
(Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, NXB Thuận Hóa, 2001)
Như vậy, cụ Phan hay giàn giụa nước mắt khi nói chuyện với Lương Khải Siêu là vì đau xót trước thảm cảnh mất nước của nước của Việt nam, chứ có phải khóc xin Lương cái gì đâu. Mặt khác, đọc sách của Phan, Lương cũng tỉnh ngộ thêm cái thân phận của Trung Hoa, cho nên mới chẳng những đã thương mà còn sợ nữa. Phan khóc cũng còn là chia sẻ nỗi niềm vong quốc cùng người chí sỹ yêu nước của Trung Hoa, người cũng đang tìm đường cứu Trung Hoa lúc đó. Điều này càng rõ khi đọc Lời mở đầu của Phan trong Việt Nam vong quốc sử:
“Không có gì đau bằng người mất nước, cũng không có gì đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất nước này, nhưng đã bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi nữa.
Nay nhân Công chủ Ẩm Băng Thất (tức Lương Khải Siêu – ĐTT) nói: Than ôi, tôi (Lương Khải Siêu – ĐTT) với ông (Phan Bội Châu – ĐTT) thật là đồng bệnh. Những việc làm tàn ác của người Pháp thi hành ở Việt Nam, cả thế giới chưa ai biết đến. Ông hãy nói cho tôi rõ, tôi sẽ vì ông mà truyền bá (…). Hơn nữa, tôi cũng muốn nói riêng với ông một điều: Nước chúng tôi hiện giờ, tình thế không khác gì nằm trên đống củi mà dưới thì lửa đỏ đang bốc cháy, thế mà mọi người vẫn dửng dưng chơi bời, cho là vô sự, nếu có ai nói đến nguy cơ mất nước, cũng làm lơ rồi bỏ qua. Vậy xin ông hãy vì tôi mà kể chuyện nước ông bị mất, may ra có thể làm cho phần đông người nước tôi nghe ra mà giật mình thức tỉnh giấc mê để rồi có ngày thấy lại ánh sáng mặt trời, thì chẳng những người nước tôi được nhờ mà người nước ông cũng được nhờ đó.
Tôi (Phan Bội Châu – ĐTT) nghe nói lấy làm cảm động, gạt nước mắt và viết cuốn Việt Nam vong quốc sử này”.
4.2. Tạm dừng lại để nói về tác dụng cuốn Việt Nam vong quốc sử ở Trung Quốc. Theo GS. Chương Thâu, sách được Lương Khải Siêu cho in vào tháng 6-1905, nhưng sau đó Lương vẫn cho đăng tải trên Tân Dân tùng báo (9-1905), ở mục “Tùng đàm” do chính Lương phụ trách. Đứng ở góc độ kinh tế của người làm xuất bản, chỉ có chuyện in báo xong mới in sách chứ không ai làm ngược như vậy, nhưng chắc là nhận thấy giá trị tuyên truyền cao của cuốn sách nên nhà cách mạng Lương Khải Siêu đã ưu tiên như thế. Khi đăng tải, sách mang tên Ký Việt Nam vong nhân chi ngôn (Chép lời người Việt Nam mất nước) là cũng có dụng ý của nó. Cũng theo Chương Thâu, tính đến năm 1955, sách được in đến 5, 6 lần ở Trung Quốc. “Việt Nam vong quốc sử được xuất bản nhiều lần, chứng tỏ nó có giá trị nhất định. Nó không những là một tài liệu tuyên truyền cách mạng ở Việt Nam, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc nữa” (Chương Thâu, Phan Bội Châu toàn tập, tập 2, sđd). Và một gian dài người ta tưởng tác giả của nó là Lương Khải Siêu.
Phan Bội Châu phải cảm ơn Lương Khải Siêu, một “bà đỡ” cho đứa con tinh thần của mình, nhưng giá trị khai dân trí của cuốn sách cho người Trung Quốc thì Lương lại phải cảm ơn Phan.
Phong trào duy tân ở Trung Quốc sớm hơn Việt Nam một chút. Lương Khải Siêu đi trước Phan Bội Châu một chút. Chính Phan Bội Châu trước khi xuất dương đã đọc sách của Lương, rất ngưỡng mộ Lương, nên nếu coi Lương là bậc đàn anh, bậc thầy (về cách mạng dân tộc dân chủ) thì cũng được. Nhưng mặt khác, quan hệ giữa hai người là quan hệ giữa những người đồng chí hướng, cùng hoài bão cứu nước. Ngay khi đến Nhật, Phan đã viết một thư gửi Lương (lúc này, cách mạng dân chủ ở Trung Hoa đang thời thoái trào, Lương đang nương mình ở Nhật Bản), trong đó có câu: “Lạc địa nhất than khốc, tức dữ tương tri; độc thư thập niên nhãn, toại thành thông gia” (Lọt lòng một tiếng khóc, tức đã thành tương tri, đọc sách trong mười năm, thành ra tình nghĩa thông gia). Sau này, cụ kể lại trong Phan Bội Châu Niên biểu: “Lương được thư, cảm động lắm, tự động ra mời tôi vào”. Thế mà ông HHP lại biến Lương Khải Siêu thành một nhân vật kẻ cả giống hệt những nhân vật thuộc phái diều hâu ở Bắc Kinh hiện nay, chỉ nhìn người Việt Nam bằng nửa con mắt: “phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát (ĐTT nhấn mạnh) cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm…”. Phải chăng  kẻ quen cúi lạy, quen nhận ban phát nên suy bụng ta ra bụng người?
4.4. Nhân đây nói thêm, cái điều mà Phan Bội Châu rất cảm ơn Lương Khải Siêu, ngoài việc Lương giới thiệu Phan với các chính khách Nhật, là việc Lương phân tích về phương pháp cách mạng, chứ không phải chuyện khuyên đừng “cõng rắn cắn gà nhà” như ông HHP đặt điều.
Trong một buổi gặp, sau 3 tiếng đồng hồ bút đàm với Lương Khải Siêu, Phan Bội Châu đã ghi lại mấy điều cốt yếu trong lời khuyên của Lương như sau:
j Quý quốc không phải lo không có ngày độc lập, mà chỉ lo quốc dân không dủ độc lập
k Kế hoạch lo cho đến quang phục, yếu kiện chỉ có 3 điều:
a- Có thực lực ở trong quý quốc
b- Nhờ sức viện trợ của Lưỡng Quảng
c- Nhờ Nhật Bản vện trợ bằng thanh thế.
Nhưng nếu ở trong quý quốc không có thực lực, thời hai điều dưới đó, thảy không phải là hạnh phúc của quý quốc.
Ông Lương viết tiếp đến đó, lại có phụ chú rằng: “Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài. Lưỡng Quảng chỉ giúp cho quân thướng (lương thực cho quân đội – ĐTT) với khí giới. Nhật Bản chỉ giúp cho trên đường ngoại giao. Hễ khi nước mình độc lập rồi, tất phải yêu cầu liệt cường thừa nhận, mà nhờ Nhật Bản là cường quốc ở châu Á, có thể thừa nhận trước hết được”. (Phan Bội Châu niên biểu, Sđd)
Như vậy Lương Khải Siêu không phủ nhận chủ trương cầu thân Nhật Bản của cụ Phan. Tuy nhiên Lương cũng cảnh báo cụ Phan, không quá phụ thuộc vào Nhật Bản. Phan Bội Châu viết tiếp như sau:
“Lúc ấy tôi nói đến cầu viện nước Nhật Bản, ông Lương nói rằng:
Mưu ấy sợ không tốt, quân Nhật Bản đã một lần vào nước, quyết không lý gì đuổi nó ra được. Thế là muốn tồn tại được nước mình, mà thiệt là làm cho chóng mất mà thôi! Quý quốc chớ lo không có cơ hội độc lập, mà chỉ lo không có nhân tài hay chụp được cơ hội. Hễ đến ngày Đức – Pháp chiến tranh với nhau tức là một cơ hội tốt cho quý quốc độc lập đó vậy”.
Cái điều Lương Khải Siêu đi trước Phan Bội Châu nói trên cũng dễ hiểu: Trung Quốc lúc ấy tuy chưa mất hẳn độc lập nhưng đã bị các nước đế quốc, trong đó có Nhật Bản, bao vây xâu xé[1].
Tuy nhiên, cần biết thêm điều này: cái điều khuyên trên của Lương Khải Siêu đối với Phan Bội Châu thực tế không có tác dụng bởi hai lẽ:
1 -  Chính phủ Nhật Bản lúc ấy không có điều kiện can thiệp vào Việt nam.
2 - Chỉ khoảng hơn 10 năm sau, khi Nhật thực sự thành nước đế quốc, thì chính Phan Bội Châu nhận ra nguy cơ từ Nhật Bản và đã chủ trương hợp tác với người Pháp để chống đế quốc Nhật.
Hai điều trên chúng tôi sẽ trình bày trong phần hai của bài này.
Để kết lại phần thứ nhất, tôi khẳng định cụ Phan Bội Châu là một bậc anh hùng hào kiệt, khí phách ngang tàng. Cụ khóc là vì thương tình cảnh đất nước Việt Nam, chứ không phải nước mắt bạc nhược. Việc Lương Khải Siêu giúp Phan Bội Châu phần vì quý trọng một nhà yêu nước, phần vì sự hợp tác trong công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của cả hai nước. Lương Khải Siêu là bạn của Phan Bội Châu. Cái tư thế “ban phát” của Lương cho Phan chỉ do cái đầu óc thần phục “thiên triều” của ông HHP tưởng tượng ra. Nó không những xúc phạm cụ Phan mà còn xúc phạm một danh nhân Trung Quốc. 

Còn nữa
Đ.T. T



[1] Năm 1894 chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, Trung Quốc thua và phải ký điều ước Mã Quan (Simonoseki), phải bỏ “phiên thuộc” TriềuTiên, cắt Đài Loan, Bành Hồ, bán đảo Liêu Đông và bồi thường chiến phí cho Nhật. Năm 1900 liên quân 8 nước trong đó có Nhật Bản đánh chiếm Thiên Tân, tấn công Bắc Kinh. Nhà Thanh ký hiệp ước Tân Sửu, phải nhượng bộ nhiều quyền lợi cho các nước đế quốc.v.v.. 


*Bài viết do tác giả gửi trực tiếp cho NXD- Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả Đào Tiến Thi.

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

THỦ TƯỚNG TRẢ LỜI CHẤT VẤN CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI (TRÍCH)


Về chủ trương của Chính phủ bảo đảm chủ quyền ở Biển Đông, bảo đảm ngư dân đánh bắt cá:

Quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta và trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển 1982 LHQ, Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông - DOC đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc, căn cứ vào thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên mà ta và Trung Quốc ký mới đây trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc.

Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam

Căn cứ chủ trương, đường lối nguyên tắc nêu trên, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên Biển Đông như sau:

Thứ nhất, đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Trong Vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận, phân định ranh giới năm 2000. Còn vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, nếu theo Công ước Luật biển 1982, thềm lục địa của chúng ta chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ năm 2006, hai bên đã tiến hành đàm phán. Mãi đến 2009, hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường của hai bên rất khác xa nhau. Đến đầu 2010, hai bên thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, như tôi trình bày, nguyên tắc đó đã được hai bên ký kết trong dịp Tổng bí thư thăm Trung Quốc.

Trên nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển này, thì vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vì vậy, hai nước cùng nhau đàm phán để phấn định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Luật Biển, trên cơ sở DOC, trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận để có một giải pháp hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được. Chúng ta đang thúc đẩy cùng Trung Quốc xúc tiến đàm phán giải quyết phân định này. Cũng xin nói thêm, trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Cũng trên cơ sở này, chúng ta có đối thoại với Trung Quốc đảm bảo an ninh an toàn cho khai thác nghề cá của đồng bào chúng ta.

Thứ hai, chúng ta phải giải quyết khẳng định chủ quyền, đó là vấn đề quần đảo Hoàng Sa. Thưa các vị đại biểu, Việt Nam khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỷ 17, chúng ta làm chủ khi hai quần đảo này chưa có bất kỳ một quốc gia nào. Và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục, hòa bình, nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956, Trung Quốc đã đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo. Năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài gòn, tức chính quyền VN cộng hòa, chính quyền đã lên án việc làm này và đề nghị LHQ can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lúc đó cũng đã ra tuyên bố khẳng định hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của chúng ta phù hợp Hiến chương LHQ, Công ước luật biển, Tuyên bố DOC.

Thứ ba, quần đảo Trường Sa: Năm 1975, giải phóng miền Nam, hải quân ta tiếp quản 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây, Sinh Tồn, Nam Yết, Sơn Ca... Còn xây dựng 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của VN ở vùng biển này, thuộc 200 hải lí vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN. Trung Quốc chiếm 7 đảo đá ngầm. Đài Loan 1 đảo nổi. Philippines 5 đảo. Brunei đòi chủ quyền nhưng không.

VN có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất, cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà ta đang nắm giữ với 21 hộ, 80 khẩu, với 6 khẩu sinh ra và lớn lên ở các đảo này.

Chủ trương của ta với chủ quyền ở quần đảo Trường Sa như thế nào? Nghiêm túc thực hiện UNCLOS, DOC, và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã kí kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cụ thể, trước hết ta yêu cầu giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực.

Nâng cấp hạ tầng biển đảo, hỗ trợ ngư dân

Hai là, ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội - kĩ thuật ở các nơi ta đang nắm giữ: đường sá, điện nước, trạm xá, trường học, cải thiện đời sống, tăng cường khả năng tự vệ của quân dân ở quần đảo này.

Ba là, có cơ chế chính sách, hiện đã có, đang sơ kết, đánh giá, để hỗ trợ đồng bào đang khai thác đánh bắt cá, thủy hải sản ở khu vực biển này, làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền ở khu vực Trường Sa.

Nguyên túc thực hiện và yêu cầu các bên nghiêm túc thực hiện theo đúng UNCLOS và DOC, đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông, hòa bình và an ninh trật tự ở khu vực này. Đây là mong muốn và lợi ích của các bên liên quan. Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ Đông sang Tây, chiếm 50-60% tổng lượng vận tải hàng hóa trên biển.

Lập trường này được ủng hộ của quốc tế, thể hiện ở ASEAN và ASEAN và đối tác.

4. Giải quyết và khẳng định chủ quyền 200 hải lý thuộc EEZ và thềm lục địa Việt Nam theo UNCLOS 1982. Thực hiện chủ quyền đầy đủ và và hiệu quả hơn.

Vấn đề về quản lý vàng, báo cáo của tôi đã nói rõ rồi, nên xin không nhắc lại.

Phải làm Luật biểu tình

Ý kiến thứ ba về căn cứ đề nghị xây dựng Luật biểu tình, chủ trương của Chính phủ khi dân bày tỏ lòng yêu nước.



Căn cứ mà Chính phủ đề nghị QH đưa Luật biểu tình và chương trình, có mấy căn cứ sau đây:

Thứ nhất, thực hiện Hiến pháp. Hiến pháp điều 69 quy định công dân được quyền biểu tình theo pháp luật. Ta chưa có luật nên phải làm luật. Như vậy là theo Hiến pháp.

Thứ hai, ĐB ngồi đây đều thấy một thực tế trong cuộc sống nhiều cuộc đồng bào tụ tập đông người, bày tỏ nguyện vọng với chính quyền. Thực tế là vậy. Nhưng ta chưa có luật để quản lý, điều chỉnh nên khó cho người dân khi thực hiện quyền mà Hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính quyền. Khó như vậy thì sẽ nảy sinh lúng túng trong quản lý, nên sẽ biểu hiện mất an ninh trật tự hoặc lợi dụng kích động xuyên tạc gây phương hại xã hội.

Trước thực trạng đó, Chính phủ đã có báo cáo kiến nghị với QH khóa trước, ban hành nghị định để quản lý hiện tượng này. Như nghị định chính phủ hiệu lực thấp chưa đáp ứng yêu cầu cuộc sống và Hiến pháp yêu cầu.

Nên Chính phủ mới thấy phải kiến nghị đưa vào làm luật, và luật đó phù hợp Hiến pháp, phù hợp đặc điểm văn hóa, điều kiện cụ thể của VN cũng như thông lệ quốc tế và đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân theo Hiến pháp, pháp luật, cũng để ngăn chặn các hành vi gây xâm hại an ninh trật tự, lợi ích của nhân dân.

Với tinh thần đó, chúng tôi đề nghị QH xem xét ý kiến của Chính phủ về Luật Biểu tình.

Đại biểu muốn hỏi về thái độ và chủ trương của Chính phủ về việc người dân biểu thị lòng yêu nước. Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ là luôn trân trọng biểu dương, khen thưởng xứng đáng với tất cả hoạt động, việc làm của người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Những hoạt động vì mục tiêu, mục đích đó đều được hoan nghênh và khen thưởng thích đáng. Nhưng cũng không hoan nghênh và buộc phải xử nghiêm pháp luật với những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội. Tôi nghĩ với chủ trương nhất quán như vậy, đồng chí đồng bào cử tri cả nước sẽ ủng hộ.

Nguồn: VietNamnet.

THỦ TƯỚNG THUYẾT PHỤC QUỐC HỘI XÂY DỰNG LUẬT BIỂU TÌNH

Thủ tướng thuyết phục Quốc hội xây dựng Luật Biểu tình
25/11/2011 07:31:09
Bee.net.vn - Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết, có 22 đại biểu quốc hội xin chất vấn Thủ tướng. Ông đề nghị được điều hành linh hoạt để các đại biểu đều có thể hỏi được. Theo đó, mỗi đại biểu nên hỏi 1 câu và hỏi trong 1 phút.
Trước khi đi vào trả lời chất vấn trực tiếp, Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo, giải trình thêm về một số nội dung mà nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri, người dân quan tâm, chất vấn. Đây cũng là những công việc mà Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo trong thời gian tới...
Đại biểu Lê Bộ Lĩnh (An Giang) chất vấn Thủ tướng về vấn đề đối ngoại và đảm bảo an ninh quốc gia: Trong bối cảnh khu vực Biển Đông đang diễn biến phức tạp, xin Thủ tướng cho biết giải pháp cụ thể mà Chính phủ thực hiện để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

ĐB Lĩnh cũng đề nghị Thủ tướng cho biết quan điểm của Chính phủ đối với việc người dân biểu thị lòng yêu nước trước những hành động xâm phạm của nước ngoài tại Biển Đông?
Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình): Xin Thủ tướng cho biết chủ trương của Chính phủ về quyền kinh doanh vàng và sở hữu của người dân. Căn cứ mà Chính phủ đề nghị Quốc hội xây dựng Luật biểu tình? Giảm lạm phát là tín hiệu vui, vậy có sớm nới lỏng lãi suất cho nông dân vay?
Đại biểu Lê Hồng Tịnh (Hậu Giang): Xin Thủ tướng cho biết chủ trương và giải pháp ngăn chặn tình trạng khai thác quặng trái phép, gây ô nhiễm môi trường, để không xuất khẩu thô, tiết kiệm tài nguyên bằng cách nào?
Đại biểu Trần Văn Minh đề nghị Thủ tướng cho biết xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan, việc tái cơ cấu Vinashin?
Đại biểu Lê Như Tiến (Quảng Trị) chất vấn: Báo cáo về xây dựng nhà Quốc hội, kịp phục vụ 1000 năm Thăng Long. Qua lễ kỷ niệm hơn 1 năm mà ngôi nhà này mới đang nhô lên khỏi mặt đất. Chính phủ là chủ đầu tư, chịu trách nhiệm trước QH, nguyên nhân và giải pháp để khắc phục chậm tiến độ công trình này? Bao giờ thì hết cảnh lạ đời, Quốc hội họp nhờ một bộ và đại biểu Quốc hội làm việc nhờ ở nhà khách Chính phủ?...
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh VNE
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, nghiên cứu Luật Biểu tình để thực hiện Hiến pháp. Ảnh VNE
Trả lời chất vấn của ĐB Lê Bộ Lĩnh (An Giang) về chủ trương của Chính phủ đảm bảo chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, đảm bảo cho ngư dân được đánh bắt ở Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói:
"Chủ trương của chính phủ là đảm bảo chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) mà ASEAN ký với Trung Quốc, Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Vấn đề đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ: Sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ. Với vùng ranh giới ngoài cửa vịnh Bắc Bô, Theo Công ước luật biển năm 1982 thì thềm lục địa của nước ta có chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Năm 2009, hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường còn khác xa nahu. Năm 2010, thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc đàm phán về biên giới trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, các nguyên tắc đã được thống nhất và ký nhân chuyến thăm của Tổng bí thư vừa rồi.

Vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt nam và Trung Quốc, vì vậy hai bên đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này, trên cơ sở UNCLOS, DOC, các nguyên tắc đã thỏa thuận, để có giải pháp hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được.

Trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, 2 bên đã tự hình thành vùng quản lý của mình, trên cơ sở đường trung tuyến, từ đó có đối thoại với Trung Quốc, đảm bảo an ninh, an toàn trong khai thác nghề cá của đồng bào.
VN khẳng định có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của VN. Đối với quần đảo Hoàng Sa, năm 1956 TQ đưa quân chiếm đóng các đảo phía đông. Năm 1974, TQ dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa khi đó trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn (Việt Nam Cộng hòa). Việt Nam Cộng hòa đã phản đối, lên án việc làm này và đề nghị LHQ can thiệp. Chính phủ cánh mạng lâm thời miền Nam Việt Nam cũng ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này.

Chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với Hoàng Sa bằng giải pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương LHQ, Luật biển 1982, Tuyên bố DOC.

Đối với quần đảo Trường Sa năm 1975 giải phóng miền Nam, hải quân Việt Nam đã tiếp quản 5 hòn đào tại Trường Sa, sau đó chúng ta tiếp tục mở rộng lên 21 đảo, xây dựng 15 nhà giàn ở bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền ở vùng biển này, trong phạm vi 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN, theo Công ước Luật biển 1982.

Trung Quốc đã chiếm 7 đảo ngầm, Đài Loan 1 đảo nổi, Philppines 9 đảo, Malaysia 5 đảo, Bruney có đòi chủ quyền trên Trường Sa nhưng không giữ đảo nào.

Như vậy, trên Trường Sa, Việt Nam có số đảo đang nắm giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên đòi hỏi chủ quyền, là nước duy nhất có cư dân đang sinh sống làm ăn trên một số đảo với 21 hộ 80 khẩu, 6 khẩu đã sinh ra và lớn lên tại các đảo này.
Chủ trương của ta với chủ quyền ở quần đảo Trường Sa như thế nào? Nghiêm túc thực hiện UNCLOS, DOC, và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã kí kết giữa VN và TQ. Cụ thể, trước hết ta yêu cầu giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực.

Tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội - kĩ thuật ở các nơi ta đang nắm giữ: đường sá, điện nước, trạm xá, trường học, cải thiện đời sống, tăng cường khả năng tự vệ của quân dân ở quần đảo này.

Có cơ chế chính sách, hiện đã có, đang sơ kết, đánh giá, để hỗ trợ đồng bào đang khai thác đánh bắt cá, thủy hải sản ở khu vực biển này, làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền ở khu vực Trường Sa.

Nguyên túc thực hiện và yêu cầu các bên nghiêm túc thực hiện theo đúng UNCLOS và DOC, đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông, hòa bình và an ninh trật tự ở khu vực này. Đây là mong muốn và lợi ích của các bên liên quan. Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ Đông sang Tây, chiếm 50-60% tổng lượng vận tải hàng hóa trên biển.

Lập trường này được ủng hộ của quốc tế.
Đưa Luật Biểu tình vào chương trình Xây dựng Luật để thực hiện Hiến pháp
Trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội về Luật Biểu tình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa đưa ra những lý do thuyết phục cần đưa Luật Biểu tình vào chương trình Xây dựng Luật.
"Thứ nhất, việc đưa Luật Biểu tình vào chương trình Xây dựng Luật để thực hiện Hiến pháp. Điều 69 Hiến pháp 92 sửa đổi quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Hiến pháp như vậy nhưng thực tế chưa có Luật Biểu tình nên Chính phủ đề nghị bắt tay nghiên cứu Luật Biểu tình, nói ngắn gọn là để thực hiện Hiến pháp.
Thứ hai, trên thực tế, trong cuộc sống hiện nay, có nhiều sự việc đồng bào tụ tập đông người, để bày tỏ ý kiến, nguyện vọng với chính quyền. Nhưng chúng ta chưa có luật để quản lý và điều chỉnh vấn đề này. Điều đó gây khó cho người dân khi thực hiện quyền được Hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính quyền. Mà đã khó như thế cũng nảy sinh những túng trong quản lý. Từ đó, xuất hiện biểu hiện mất an ninh trật tự, cũng xuất hiện việc lợi dụng để kích động xuyên tác gây phương hại cho xã hội.
Trước thực trạng như thế, Chính phủ cũng đã có báo cáo kiến nghị với QH khóa trước. Quốc hội cũng có công văn yêu cầu ban hành Nghị định để điều chỉnh hoạt động này. Chính phủ đã ban hành Nghị định 38 nhưng Nghị định hiệu lực pháp luật thấp, chưa đáp ứng được tầm mức như Hiến pháp quy định và thực tế cuộc sống đang đặt ra.
Vì vậy Chính phủ thấy nên kiến nghị QH xem xét đưa vài xây dựng luật để có Luật Biểu tình, phù hợp với Hiến pháp, phù hợp với đặc điểm lịch sử văn hóa và điều kiện cụ thể của VN, phù hợp với thông lệ quốc tế để đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, đồng thời ngăn chặn những hành vi gây xâm hại tới an ninh trật tự lợi ích của xã hội và nhân dân.



Với tinh thần như vây, chúng tôi đề nghị QH xem xét đề nghị của Chính phủ đưa Luật Biểu tình vào chương trình xây dựng Luật".
Trả lời về quan điểm của Chính phủ với những người tham gia tụ tập đông người để thể hiện lòng yêu nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: "Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước, Chính phủ là luôn luôn trân trọng biểu dương khen thưởng xứng đáng với tất cả những hoạt động, việc làm của tất cả người dân thật sự vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những hoạt động vì mục tiêu mục đích đó đều được trân trọng, hoan nghênh, khuyến khích, biểu dương thích đáng.
Đồng thời Chính phủ không hoan nghênh, buộc phải xử lý nghiêm theo pháp luật đối với những hoạt động những hành vi với động cơ lợi dụng lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền, để thực hiện mục đích gây phương hại cho đất nước, cho xã hội. Tôi nghĩ, chủ trương nhất quán như thế sẽ được đồng bào ủng hộ".
Tiếp tục cập nhật...
PV
Nguồn: Bee.net.vn.

TÔI ỦNG HỘ THỦ TƯỚNG TRONG VIỆC NÀY!

Tôi ủng hộ Thủ tướng trong việc này

JB. Nguyễn Hữu Vinh

Từ khi còn nhỏ, thế hệ chúng tôi luôn được học thuộc lòng câu khẩu hiệu: “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương bác Hồ vĩ đại”. Thế là đủ cho cuộc sống học tập và phấn đấu của mỗi thanh niên khi lớn lên. Có câu khẩu ngữ đó, không lo lạc đường, không lo bị yếu kém về nhận thức chính trị, chậm tiến… và hầu hết trong mọi bài thi, mọi bản báo cáo, thu hoạch sau những đợt học tập, câu khẩu hiệu đó phải được nhắc đến một vài lần. Trên mọi bức tường, đường đi, hàng rào cơ quan, công xưởng, trường học… lượng sơn, vôi để kẻ câu khẩu hiệu đó phải kể đến là vô thiên lủng.

Tưởng rằng chỉ cần có thế thì xã hội sẽ tốt đẹp lên, đi lên không ngừng bằng “ba cuộc cách mạng song song, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt” và chẳng mấy chốc thì xã hội chúng ta sẽ là Thiên đường, bọn tư bản chỉ có nằm mơ cũng không với tới.

Đọc thì vậy, viết như thế nhưng quả thực là mấy thằng chúng tôi cũng chẳng hiểu muốn sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương bác Hồ thì làm những cái gì và làm như thế nào. Vì cả mấy thằng đều con nhà nghèo, là nông dân thì không thể theo gương bác Hồ đi làm phụ bếp trên tàu biển, không có chỗ làm bồi bàn, không thể lấy viên gạch nướng lên trong lò để chống lại băng giá nước Anh.

Thôi thì học tập gương bác Hồ nhưng sáng tạo theo kiểu Việt Nam vậy.

Hồi đó trời rét lắm, mức độ rét chắc hơn thời nay nhiều. Chắc chắn là vậy, dù hồi đó không có nhiệt kế để đo, chỉ biết là rét, rét lắm. Một thằng bạn tôi còn công phu thực tập cái việc nướng hòn gạch để ủ ấm mùa đông xem nó có tác dụng đến đâu. Hắn lấy đủ các loại gạch, gạch chỉ, gạch mộc, gạch ba banh… to nhỏ đủ cả đem nướng lên rồi bọc giấy báo đem ủ. Hóa ra làm kiểu nào cũng hỏng. Nướng kỹ quá, gói vào báo cháy báo và cháy cả ổ rơm, nướng không đỏ, gói bao lần cũng chỉ được chừng tiếng đồng hồ là nguội ngắt. Lại rét tái tê như ai đổ nước vào chỗ nằm.

Thế là hỏng, cái học tập này chẳng ăn thua, có lẽ nước Anh băng giá không lạnh bằng Việt Nam chúng ta thì phải. Nhưng thằng bạn tôi thì nhất định rằng đó chỉ là chuyện bịa, làm gì mà rét bên đó không bằng bên ta và làm gì có một viên gạch hồng lại chống được cả mùa băng giá.

Thế rồi cái việc học tập đó cũng không đi đến đâu, lớn lên đi học, mấy thằng bảo nhau: “À, thì ra phải xin đi xuất khẩu lao động chúng mày ơi, bác Hồ ngày trước cũng đi nước ngoài rồi mới về VN làm việc đấy thôi”. Thế là một số đứa đua nhau chạy xin đi xuất khẩu. Nhưng đâu phải ai cũng được đi.

Sau này lớn lên, vẫn câu khẩu hiệu ấy nhưng vào những công việc cụ thể thì chịu không biết làm gì cho đúng theo gương bác Hồ vĩ đại nữa. Mà hồi đó đâu đã có nảy sinh ra cái môn “Tư tưởng, đạo đức HCM” như sau này.

Chuyện đó rồi cũng dần quên đi, dù câu khẩu hiệu “bất hủ” kia vẫn còn mãi. Nhưng thế hệ thanh niên lớn lên hồi đó đã làm chủ xã hội thì càng đưa đạo đức xã hội đi xuống. Các ngành, các cấp căn bệnh tham nhũng lan tràn cũng từ lớp người đã từng “sống chiến đấu, lao động và học tập theo gương…” hồi đó mà ra.

Rồi một lần đưa cái thắc mắc này nói với anh bạn tôi – lão Phan- lão bảo: “Nếu có cuộc thi sáng tạo Việt Nam sẽ đứng cuối cùng, nhưng nếu có cuộc thi “học tập làm theo”, chắc chắn VN sẽ đứng đầu bảng. Mà chỉ có học tập làm theo thì chính là giết chết sự sáng tạo của thế hệ kế tiếp, giết chết cả một dân tộc”. Chẳng biết Việt Nam có đứng đầu bảng hay không, nhưng về mặt “học tập và làm theo”, chắc phải thua anh Tàu khựa. Bất cứ thứ gì, kể cả bộ khóa theo kiểu Nga, kiểu Mỹ… bạn chỉ cần đưa lên Phố Thuốc Bắc, đặt hàng và chỉ vài tuần sau đó lên nhận hàng trăm bộ y chang, không hề phát hiện ra đồ nào là “học tập làm theo” và đồ nào là đồ chính hiệu. Tất cả nhờ anh Tàu khựa chế tạo. Nghe nói kể cả máy bay, tàu chiến, anh Tàu khựa còn “học tập và làm theo” đến mức anh Nga, anh Mỹ còn phải sợ anh Tàu kia mà.

Xã hội càng tiến lên, việc “theo gương bác Hồ vĩ đại” càng khó. Mấy thằng thanh niên đầu tóc xanh đỏ đi xe máy thì nó học tập theo gương bác Hồ sao được, hồi bác Hồ làm gì có xe máy mà đi, vậy nên nó đua xe? Mấy đứa sinh viên học tin học muốn học tập làm theo cũng chịu, hồi xưa vi tính là chuyện vớ vẩn, hão huyền làm gì có để chúng nó thấy bác Hồ sử dụng vi tính như thế nào là làm theo… vì thế nên nhiều đứa biến thành tin tặc.

Nếu chỉ theo “gương” thì cả xã hội mặc quần ống đứng, cắt tóc ba phân, đi dép cao su có quai hậu và đội mũ cối tất như có thời công an đã đứng ở ngã ba đường lăm lăm cái tông đơ trong tay cắt trọc những tên đầu “đít vịt” và cái kéo sẵn sàng xẻ dọc ống quần những tên mặc quần “ống típ”. Rồi thỉnh thoảng công ai lại lôi đi mấy người dân chẳng cần luật, chẳng cần tòa án… cứ thế sống thì về, chết thì thôi.

Sau này, chừng như cái cách quản lý xã hội bằng cách buộc mọi người “sống chiến đấu, lao động, học tập theo gương bác Hồ vĩ đại” rất mơ hồ kia chẳng thể quản lý được xã hội. Và xã hội buộc có cách khác. Câu khẩu hiệu mới ra đời là: “Sống, làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”. Có lẽ từ đó, người ta chú ý đến “luật” hơn là “gương”.

Cũng ngày trước, với thế hệ chúng tôi, nói đến Luật là điều cũng mơ hồ như cái máy vi tính. Cả miền Bắc Việt Nam hồi đó chỉ có trường Đại học Pháp Lý, không có trường Luật. Sau này thành lập Đại học Luật nhiều đứa con cười bảo học cái gì không học lại đi học Luật thì làm được cái gì.

Rồi khi hội nhập với thế giới văn minh, người ta mới thấy luật lệ là quan trọng. Nếu một xã hội điều hành kiểu chiến tranh ngày xưa, cứ công an là chuẩn mực và quyền lực vô biên, thì xã hội không thể ổn định, xã hội không phải là một gia đình.

Thế rồi cái gì dùng nhiều rồi cũng quen, đến một khi nào đó, thì người ta mới ngã ngửa ra rằng nếu không có luật, thì xã hội hỗn loạn, không quản lý xã hội theo luật, thì xã hội không thể phát triển. Đến ngày nào đó, người ta mới nhận ra rằng: Xã hội loài người khác xã hội loài vật ngoài những điểm khác, còn có một yếu tố là có “Luật”. Luật đó do xã hội cùng đề ra và cùng chấp hành để duy trì xã hội.

Nếu không có luật, thì đương nhiên con người phải dùng đến một thứ luật của loài vật, đó là luật rừng “Mạnh được, yếu thua”.

Vì thế, dần dần ai cũng thấy điều không thể thiếu của một xã hội văn minh là phải có luật.

Ấy vậy mà mới đây, khi ông Thủ tướng Dũng yêu cầu Quốc hội có Luật Biểu tình, thì đã nhận được nhiều ý kiến trái, phải khác nhau.

Một số người cho rằng: Biểu tình là quyền Hiến định của mỗi người dân, Quốc hội không ra luật biểu tình được là mắc nợ người dân, không cho biểu tình là tự ý tước đoạt quyền của người dân và là vi hiến. Những cuộc biểu tình gần đây của những người yêu nước đã làm cho chính quyền lúng túng như gà mắc tóc, không thể xử lý tù tội hoặc bắt giữ họ vì họ đã và đang thực hiện quyền được Hiến pháp quy định. Mà để vậy thì những cuộc biểu tình không có sự lãnh đạo của đảng là “tự phát” thì càng không yên tâm. Vì thế ông Thủ tướng mới đặt ra cái việc có Luật Biểu tình cho dân.

Nhưng, ngược lại, có ông nghị Phước lại phản đối cái Luật này. Chỉ vì ông cho rằng dân trí VN thấp, nên biểu tình chỉ là để chống chính phủ và không cần thiết có luật biểu tình. À, thế ra ông nghị này cho rằng Luật sinh ra chỉ là để bảo vệ chính phủ, không phải vì quyền lợi của người dân, không phải vì Hiến pháp đã quy định như vậy?

Cứ tưởng trong Quốc hội của đảng ta có nhiều bộ óc thông minh, thì việc ông nghị kia có đưa ra cái ý kiến ngớ ngẩn kia sẽ ngay lập tức bị các vị khác vùi dập không thương tiếc vì cái ý tưởng muốn đưa xã hội trở về xài luật rừng. Thế nhưng, đáng buồn hay đáng giận đây khi một số “nghị” khác a dua theo ý tưởng quái gở này.

Thế mới hiểu được cơ quan lập pháp của ta đang chứa những bộ óc khá khôi hài. Trong đó có ông nghị IQ cao cần làm đường cao tốc, ông nghị Biển đảo, bà nghị “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”, ông nghị “cứ làm sai mà kỷ luật thì lấy đâu ra cán bộ làm việc”, nay lại thêm ông nghị “không cần luật”…

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng: Có luật, nhưng đưa luật sử dụng vào cuộc sống xã hội như thế nào là điều cần bàn, vì nhà nước ta thiếu gì luật, nhưng nhiều luật sinh ra chỉ để gác bếp, trong ngăn tủ… ngay cả Hiến pháp rành rành ra đó, còn không đưa thực hiện nữa thì nói chi đến Luật.

Nhưng, trước hết, hãy có luật đi đã, rồi sử dụng tính sau. Cũng như nhà nông dân, cứ mua chiếc xe máy đi đã, tập đi và sử dụng như thế nào sẽ bàn vào dịp khác, vì không ai có thể đi bộ mãi được chỉ vì dân trí thấp hoặc nhà ta còn nghèo.

Như trên đã nói, một xã hội muốn phát triển, cần có luật, những ý nghĩ đi ngược lại điều này, thực chất chỉ muốn xã hội đi xuống và được điều hành theo kiểu bản năng và luật rừng mà thôi.

Vì vậy, tôi ủng hộ ông Thủ tướng Dũng trong việc cần có luật Biểu tình.

Hà Nội, ngày 25/11/2011
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Nguồn: JB Nguyễn Hữu Vinh-Blog.

VIDEO CLIP PHÁT BIỂU CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
TRƯỚC QUỐC HỘI SÁNG NAY 25.11.2011:




Xin cám ơn bạn Nguyen Dzung đã đưa video clip này lên Youtube