Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

TIN NÓNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TS NGUYỄN QUANG A


TS NGUYỄN QUANG A: 
CÔNG AN ĐANG QUẤY RẦY TÔI

Gần 8h tối, ngày 23-7-2011 vừa về đến nhà, tắm rửa và thay đồ chuẩn bị ăn cơm vợ tôi gọi lên: “Anh xuống có 2 an ninh đến khuyên anh ngày mai không đi biểu tình”.

À ra thế. Đã nhiều năm tôi biết người ta theo dõi mình. Đó là công việc của họ, nghề của họ, họ phải làm những việc đó với chi phí từ tiền thuế của người dân đóng góp trong đó có tôi. Nếu họ không cản trở, can thiệp vào công việc riêng của tôi, tôi để yên và không muốn bận tâm chú ý.

Suốt vài chục năm qua là thế. Nhưng tình thế đã thay đổi từ 8h tối ngày 23-7-2011.

Tôi chỉ mặc quần đùi đi xuống và bảo 2 cậu an ninh quận Long Biên đã ngồi sẵn trong phòng khách rằng tôi không tiếp khách, nhà tôi đang sắp ăn tối nên các cậu về đi.

Chín giờ tối tôi tưởng họ đã về để xuống ăn cơm, xuống nhà thấy thêm một công an khu vực tên là Quân cùng 3 bác ở tổ dân phố.

Tôi lên nhà mặc áo và quay xuống nói rõ cho họ biết.

Muốn gặp hay làm việc với tôi xin các vị cho hẹn trước và nếu tôi đồng ý tôi sẽ hẹn quý vị làm việc. Tôi nói nếu không hẹn trước mà đến nhà tôi và tự cho mình là “khách” thì đó là khách không mời và tôi sẽ yêu cầu những khách như thế ra về. Tôi hỏi tên các công an tự xưng là anh ninh quận tên là gì ở đơn vị nào? (chưa cần hỏi đến giấy tờ chứng minh rằng đúng là họ là người ấy và khi đến gặp tôi họ có báo trước cho tôi không? Có được tôi đồng ý cho gặp hay không). Một cậu ấp úng nói tên, tôi cũng không để ý. Tôi hỏi thuộc đơn vị nào thì anh ta chỉ nói là an ninh.

Tôi bảo 3 bác người trong làng, cậu Quân gia đình tôi biết tôi sẽ nói chuyện với họ còn xin mời 2 cậu an ninh đi về. Sau 1 lúc họ xin phép đi về.

Với bốn người còn lại (3 người ở tổ dân phố và anh công an khu vực) tôi giải thích vì sao không nên khuyên tôi ngày mai đừng đi biểu tình. Tôi hỏi họ có biết thong tin gì không? Họ có biết thông tin về biển đảo như báo chí nhà nước nói. Một bác, chắc là cựu chiến binh, nói mình cũng rất bức xúc. Tôi nói lại cho họ một số tình hình, kể cả diễn biến của cuộc đàn áp tuần trước ngày 17-7 và sự bức xúc của dân chúng. Tôi khuyên họ nên cùng tôi đi biểu tình sang ngày mai 24-7-2011.

Họ ra về lúc 9h55 phút. Thế là mất không 2 giờ.

Sáng 24-7 vợ tôi, như lệ thường dậy sớm và tụng kinh.

Sau nghe bà kể lại lúc 5h13 phút có 1 cú điện thoại hỏi ai thì nói là bên an ninh. Hỏi tôi có nhà không? Bà nói tôi thường đi sớm, chắc là đi rồi.

Nửa giờ sau khoảng 5h45 phút anh Quân (công an hộ khẩu) lại gọi điện nói theo lệnh trên chúng cháu phải báo cáo chú đã đi chưa và hỏi vợ tôi. Vợ tôi trả lời là đang tụng kinh và tôi thường đi sớm.

Rồi vợ tôi xuống và thấy tôi vẫn ở nhà nên kể lại cho tôi như vậy và nói có 4 người đang canh  ở ngoài đầu đường.

Tôi bảo người nhà không cho ai lạ vào, đầu tiên phải hỏi họ là ai? Họ muốn làm gì? Rồi hỏi họ có giấy tờ gì chứng minh điều họ nói. Nếu thấy hợp lý thì mới cho họ vào và tiếp họ hay không là quyền của mình. Đó là quyền tự do tối thiểu mà bất cứ nhà nước nào cũng phải tôn trọng.

Tôi nghĩ họ sẽ tìm cách cản trở tôi nhưng tôi sẽ vẫn đi và chắc sẽ có sự cố ở ngoài. Tôi muốn có bạn nào trong những người tôi biết có thể đến để chứng kiến cảnh này.

Địa chỉ nhà tôi: số 17 ngách 43 ngõ 640 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên Hà Nội, tel 04-39422096 (Đến số 640 Nguyễn Văn Cừ - từ Cầu Chương Dương ra Cầu Chui và cách cầu Chui khoảng 300m) rẽ vào làng Gia Thụy, tìm ngách 43 và số nhà 17.
6h38 ngày 24-7-2011
Nguyễn Quang A

NGÀY NÀY CÁCH ĐÂY 43 NĂM TRƯỚC

MƯỜI CÔ GÁI NGÃ BA ĐỒNG LỘC
Ngày này cách đây 43 năm
Quốc Toản

Tháng 6 vừa qua, tôi lại có dịp được về thăm và thắp nén hương lòng, tưởng nhớ tới các chị. Nơi các chị yên nghỉ lúc nào cũng nghi ngút khói hương. Nơi các chị yên nghỉ là điểm đến của  tất cả những người Việt Nam yêu nước. Nhân dân không bao giờ quên quá khứ. Một quá khứ đau thương và hào hùng của dân tộc.

Vậy là đã 43 năm. Ngày 24-7-1968, Mười cô gái TNXP đã ngã xuống tại cung đường huyền thoại. Ngã ba Đồng Lộc. Mười bông hoa bất tử. Mười ước vọng, mong mỏi một ngày đất nước được độc lập, tự do.

Các chị đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Các chị đã để lại cho thế hệ trẻ hôm nay những nghĩ suy và cách thể hiện về lòng yêu Tổ quốc.

Bom Mỹ không làm các chị sợ hãi. Các chị chẳng ngại gian khổ hy sinh. Mười bông hoa ngát hương trong vườn hoa tuổi trẻ, một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Đến thăm viếng các chị thêm một lần đọc những câu thơ đầy xúc động của nhà thơ Vương Trọng được khắc lên bia đá:

“Mười bát nhang hương cắm thế đủ rồi
Còn hương nữa hãy dành phần cho đất
Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi
Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc
Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp
Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi.
...

Hai mươi bảy năm qua chúng tôi không thêm một tuổi nào
Ba lần chuyển chỗ nằm lại trở về  Đồng Lộc
Thương chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc
Về bón chăm cho lúa được mùa hơn
Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo
Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường.

- Cần gì ư, lời ai hỏi trong chiều
Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu...”


Vây mà hôm nay, nói về lòng yêu nước thì dễ, nhưng thể hiện thật khó. Ai cũng biết sống tốt, làm việc có ích cho đời đã là người yêu nước. Nhưng nếu im lặng, thơ ơ, vô cảm coi đó không phải là việc của mình, “đã có Nhà nước lo” mặc cho Trung Quốc gây hấn biển Đông, xâm phạm tấc đất của ông cha, liệu có còn là người yêu nước?

Những kẻ đã trấn áp, đánh đập người biểu tình chống Trung Quốc nghĩ gì? Họ đang bị sự trừng phạt từ phía nhân dân. Những kẻ đó phải bị nghiêm trị trước pháp luật.

Hãy nói sự thật, công khai, dân chủ để dân tin rằng: Những người thay mặt nhân dân mãi mãi xứng đáng là người đầy tớ trung thành.

Khi dân bức xúc, xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược đó là lúc người dân không thể im lặng hơn được nữa. Người dân không muốn “sự im lặng đáng sợ” từ phía Nhà nước. Một tiếng nói chân thành, đầy phẩm giá, lương tri sẽ làm dân yên lòng.

Đừng bắt người dân chờ đợi sự hô hào để thể hiện lòng yêu nước.

Nhân ngày giỗ lần thứ 43 của các chị, thành kính thắp một nén tâm hương và tỏ bày những nghĩ suy của mình.

Ngày này, tại ngã ba Đồng Lộc, biết bao người đã đến đây để tri ân các chị. Để những ngày tháng bảy, mãi mãi là ngày đẹp nhất của lớp trẻ hôm nay. 


MỘT CUỐN SÁCH VIỆT TUYÊN TRUYỀN ĐƯỜNG LƯỠI BÒ TRUNG QUỐC


Thêm một cuốn sách Việt tuyên truyền đường lưỡi bò Trung Quốc
Nguyễn Duy Xuân

1. Theo thông tin phản ánh trên mạng, cuốn sách dạy tiếng Trung với tựa đề "Luyện kỹ năng đọc hiểu Tiếng Hoa" do Ngọc Huyên biên soạn, được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành, ở trang 274 có in hình bản đồ Trung Quốc với đường lưỡi bò liếm gần hết cả biển Đông.

Được biết, một cuốn sách muốn ra đời phải qua nhiều khâu kiểm duyệt. Chả nhẽ từ tác giả, người cấp phép cho đến nhà xuất bản lại “sơ suất” đến thế ư ? Biển của ta, đảo của ta mà ta lại không được quyền lên tiếng khi ngoại bang lấn chiếm, trong khi đó báo chí sách vở của ta lại mặc nhiên công nhận cái "chủ quyền" ăn cướp ấy của họ.

2. Trên Youtube đang lưu hành clip người Trung Quốc dạy cho trẻ tiểu học về Hoàng Sa, Trường Sa (http://www.youtube.com/watch?v=lmpagVeus0A&feature=player_embedded). Người ta đã nhồi sọ cho thế hệ trẻ về hai quần đảo không thuộc chủ quyền của họ, một sự tính toán lâu dài, thâm độc. Thế mà sách vở của ta, từ mẫu giáo cho đến lớp 12, kể cả sách đại lí, lịch sử, tịnh không có một bài học nào về hai quần đảo này của ông cha. Sao lại dạy “Đất quý, đất yêu” (Tiếng Việt 3, tập 1, trang 84) của nước Ê-ti-ô-pi-a tận đẩu tận đâu bên châu Phi chứ không phải là Hoàng Sa hay Trường Sa mà ông cha đã đổ máu xương gìn giữ ?

Cách đây chưa lâu, lấy cớ là vấn đề nhạy cảm, người ta “stop” những bản tin hoặc bài viết về chủ quyền của đất nước đối với Hoàng Sa trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Than ôi! Của ta đường đường chính chính mà ta không được lên tiếng bảo vệ, không truyền dạy cho con trẻ thì làm sao nuôi dưỡng, làm sao khơi dậy ở các thế hệ tương lai lòng yêu nước thương nòi?

3. Trả lời báo chí bên lề phiên họp khai mạc Quốc hội khóa XIII sáng  21-7, ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Phó Thủ tướng đề xuất phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào chương trình dạy học phổ thông cho học sinh. Không biết ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo có nắm được thông tin này không? Nếu có thì Bộ và các nhà soạn sách hãy đưa bài học Hoàng Sa, Trường Sa vào cái dự án khổng lồ 70 ngàn tỉ kia. Trước mắt, trong năm học tới có thể thực hiện nội dung này bằng một bài học ngoại khóa bắt buộc cho học sinh các cấp. Giảm tải những kiến thức chưa thiết thực với cuộc sống hiện tại của các em chứ không thể giảm tải những bài học dạy cho các em biết thế nào là chủ quyền đất nước, là lòng yêu nước thực sự.

4. Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chỉ có thể được bảo toàn bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chứ không một ai, một cá nhân nào có thể lo nổi. Đảng và Nhà nước có trách nhiệm nhưng không thể chỉ có Đảng và Nhà nước lo. Nói như vậy là xóa bỏ trách nhiệm công dân, tạo nên khoảng cách xa vời giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; vô hình trung phá vỡ sức mạnh dân tộc, xói mòn lòng yêu nước.

Hãy để cho nguồn sức mạnh ấy được phát huy, được lan tỏa từ mỗi con người, mỗi góc phố, mỗi xóm làng trên khắp đất nước Việt Nam thân yêu. Có như thế, chúng ta mới bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ đất nước và chủ quyền dân tộc.

22-7-2011
N.D.Xuân

TRẦN VŨ LONG: CÚ ĐẠP "THẦN SẦU"
















Cú đạp “thần sầu”
Trần Vũ Long

Tổ quốc ơi
Họ đã đạp lên mặt bạn con
Những người yêu nước
Than ôi cú đạp “thần sầu”
Giáng thẳng vào lòng kiêu hãnh
Vào lương tâm phẩm giá con người
Từ bàn chân của đầy tớ nhân dân
Đạp lên mặt ông cha đã hy sinh giữ mảnh đất này

Giá như bộ mặt đó không phải của người yêu nước
Không phải là gương mặt Việt thân thương
Là bộ mặt của kẻ thù xâm lấn
Thì cú đạp kia rất đỗi tự hào

Tổ quốc ơi sao lòng con đắng chát
Tim con đau như dính đạn kẻ thù
Mặt con rát như sóng biển Đông giận giữ thét gào
Máu con sôi như trăm nghìn dấu hỏi
Những dấu hỏi khiến lòng con ngơ ngác

Cúi xin các anh hùng dân tộc
Anh linh các liệt sĩ
Cúi xin các mẹ Việt Nam anh hùng
Xin triệu triệu tấm lòng yêu nước
Cúi xin Người – ơi tổ quốc thân thương
Hãy nuốt giận và đừng quá bận lòng
Bởi chúng con vẫn hiên ngang vững bước
Đạp lên sự đê hèn
Đạp lên sự dối trá
Đạp lên thói gian manh, vô cảm đớn hèn khi tổ quốc lâm nguy
Chúng con đi khi dòng máu trào dâng
Mong rạng danh người - Tổ quốc Việt Nam


NHẬT KÝ BIỂU TÌNH: ĐI GIỮA ĐỒNG BÀO

Ảnh: Hoàng Xuân Phú
ĐI GIỮA ĐỒNG BÀO
(Nhật ký biểu tình ngày 3 tháng 7 năm 2011)
Đào Tiến Thi

Bốn cuộc biểu tình đầu, lần thì bận, lần thì cũng như nhiều người, chưa vượt qua nỗi sợ mà không đi, nhưng càng không đi thì càng bị thôi thúc và mặc cảm tội lỗi. Tổ quốc lâm nguy mà mình tránh mặt, không dám có một hành động đơn giản nhất để phản ứng lại kẻ xâm lược thì không sao bào chữa cho cái hèn và cái lười (và muôn vàn cái khác) của mình. Lại xem ra số người xuống đường mỗi cuộc mỗi ít. Cơ đồ nguy quá rồi, chẳng lẽ ngồi chờ cái chết từ từ của đất nước? Thôi thì cứ đi. Bị bắt đi nữa thì cũng chịu được. Mà nói dại, cũng cần tập dần, lỡ sau này đất nước mất về Trung Quốc thì cái sự bắt bớ hôm nay có là gì. Lúc đi mua áo cờ, con trai bảo: “Bố mua cho con một cái nữa”. Bảo: “Con hiện giờ chưa nên đi”. “Vâng, nhưng thế nào rồi con cũng phải đi bố ạ”. Thấy mừng vì con trai trưởng thành nhanh không ngờ.

Bỗng nó lại hỏi: “Nhưng bố vẫn đang viêm họng, lại ù tai thì làm sao hô khẩu hiệu được?”. Tôi bảo: “Đợt viêm này là viêm mãn, chỉ rát cổ chứ không đau, nói được là hô được, hô to là khác”.

8h15 đến trước vườn hoa Lenin. Cảnh sát đã cấm đường và cấm cả vào công viên. Có vài chục người tập hợp khoảng 3, 4 nhóm, nói chuyện bâng quơ, cốt chờ đợi giờ G. Chẳng gặp ai quen. Mãi trước giờ G mới thấy TS. Nguyễn Quang A, liền đến bắt tay và tự giới thiệu mình từng là học viên ở một lớp học nọ, được nghe bác ấy giảng bài và từ bấy vẫn đọc các bài bác ấy viết.

8g40 bỗng một cậu thanh niên cầm biểu ngữ bước ra hô khẩu hiệu và mọi người hô theo. Một bác đưa cho tôi một khẩu hiệu in trên giấy A3, có cả tiếng Trung. Tôi rất thích nhưng mình bảo tôi cũng có rồi, để dành người khác. Các khẩu hiệu chủ yếu vẫn như các lần trước, nhưng có một khẩu hiệu hay hay trích câu của Gandhi: “Chúng ta hoảng sợ không phải vì sự hung ác của kẻ mạnh mà sợ vì sự nín nhịn của người thiện”.

Cuộc tấn công miệng trước Đại sứ quán Trung Quốc rất ngắn ngủi. Chỉ khoảng 5, 7 phút, cảnh sát đã dồn đoàn người về phía đường Trần Phú. Không có ai tranh cãi với cảnh sát nhưng đoàn người cũng nấn ná không chịu đi ngay. Lần đầu tiên tôi áp sát CSCĐ. Trước kia nhìn trên màn hình, thấy các chú áo đen, mũ nồi, lá chắn trông khủng khiếp như thần Chết, cũng kinh, nhưng giáp mặt cũng thấy họ hiền thôi. Toàn thanh niên trẻ, cao lớn, đẹp trai. Họ cứ ấn lá chắn vào lưng chúng tôi đẩy đi. Tôi nói nhỏ với một cậu: “Các cháu không thấy thương dân, không thấy cảm phục dân mình à? Hãy để nhân dân hô ít câu cho bọn Trung Quốc nghe thấy rồi hãy đuổi”. Cậu này tha cho tôi được nửa phút rồi lại đẩy tiếp, bảo “Biết rồi, thôi bác đi cho”. Hôm nay xuống đường chẳng được đông, may thì được 100. Tuy nhiên tinh thần rất hăng hái. Cứ dịch dịch một tí lại dừng lại hô vang khẩu hiệu, cho đến khi tiếng loa chói gắt bắt giải tán và các lá chắn ấn mạnh quá mới chịu đi tiếp.

Bắt đầu khởi hành. Có một anh tuổi trung niên, từ nãy tôi cứ nghi nghi là mật vụ, vì không thấy hô khẩu hiệu, nhưng khi lên đường mới thấy anh tung biểu ngữ và quán xuyến đội hình, nhắc bà con chú ý bảo vệ nhau, vì có thể Trung Quốc cho mật vụ trà trộn vào và bắt cóc người của ta. “Nếu để cho nó bắt người mình ngay giữa thủ đô của mình thì rất nhục”, anh nhắc lại mấy lần. Nếu quả có thế thì kinh khủng thật. Chẳng lẽ nòi giống Đại Việt anh hùng lại suy đồi đến thế a?

Đoàn người đông dần, lúc đông nhất có lẽ đến hai trăm. Trên đoạn Hai Bà Trưng được gặp anh Gốc Sậy (Về sau tôi mới biết là tiến sỹ Nguyễn Hồng Kiên). Tôi nhận ra vì đã nhìn thấy anh trên mạng ở mấy cuộc trước. Đúng là “gốc sậy”. Người nhỏ nhắn, nhưng dáng nhanh nhẹn thông minh. Tôi đọc lại câu của Pascal “Người là cây sậy…” và nhắc lại cái bài tường thuật rất hay của anh ở lần biểu tình thứ hai hay thứ ba gì đấy.

Trời nắng gắt. Đoạn đường Hai Bà Trưng khá dài. Đoàn người đi hơi rời rạc. Nhưng tới Nhà Hát Lớn mọi người hăng hái trở lại. Cảnh sát áo xanh đứng chặn thành hàng không cho lên bậc thềm Nhà Hát nhưng một số người đã nhanh chân lên được. Tôi  lựa một chỗ trống lỏn lên, cũng thoát. Những người còn ở dưới đấu tranh mạnh, bảo đây không có biển cấm và chả có gì phải cấm, cuối cùng cũng được lên cả.

Cậu thanh niên áo đỏ hăng hái đi đầu lúc khởi hành lấy ra bản tuyên cáo và nhờ một nhân sỹ nào đó đứng ra đọc. Nhưng không kiếm được bác nào “lớn lớn” (hình như nắng gắt, hành trình  dài, bác Ngô Đức Thọ, bác Nguyễn Quang A đã về). Tôi vớ được anh Phạm Xuân Nguyên, là một bác trí thức cũng “trọng trọng” cả danh vọng lẫn tuổi tác,  liền đẩy anh ra. Nhưng không hiểu sao anh Nguyên không nhận lời. Thế là cậu áo cờ Tổ quốc lại “thân chinh” đọc. Kết thúc, đoàn người hô vang các loại khẩu hiệu. Nhưng CS không cho đứng lâu. Một sỹ quan CS mặt rắn đanh cầm loa thét mọi người giải tán.

Đoàn người đi vào Tràng Tiền để ra Bờ Hồ. Vừa qua ngã tư thì có tiếng la “Quay lại, quay lại”. Tôi với anh Nguyên dắt nhau quay lại. Lại có tiếng kêu “Có người bị bắt”. Các bạn thanh niên chạy vượt qua chúng tôi, có hai cậu quấn cả biểu ngữ làm tôi và anh Nguyên ngã dúi dụi. Sau một cậu kêu cậu kia buông tay ra để cậu rút rồi cuốn lại chứ cả hai cùng nắm thì gỡ sao được. Chỉ có thế mà cả bốn người không nghĩ ra!

Thấy đoàn người hừng hực trước cửa đồn côn anh Tràng Tiền đang hô to “Đả đảo bắt người”, chúng tôi hô theo. Tiếng loa yêu cầu trật tự, nhưng mọi người phớt lờ, những lời hô và cánh tay cứ giơ lên thành nhịp: “Đoàn kết”, “Đả đảo bắt người trái phép”, “Trả người”, “Trả người”. Tôi bảo một bác đứng tuổi: “Cần có người đại diện vào thương thuyết bác ạ”, bác bảo “Có rồi đấy”. Khoảng 5 – 7 phút sau thấy những người đứng phía trong reo “Hoan hô công an”. À, thế là thả rồi. Đám đông vây kín người được thả khiến tôi cũng không rõ người bị bắt là ai. Tôi kêu to “Phải kiểm tra, lỡ vẫn còn người bị giữ thì sao”. Nhưng nhiều người bảo hết rồi. Tất cả kéo nhau ra Bờ Hồ.

Vừa được hưởng cái mát mẻ của Hồ Gươm được mấy bước thì một rừng CSCĐ áo đen, mặt lạnh, nhiều cậu to như hộ pháp, hùng hổ xông đến bắt đoàn người phải giải tán. Mọi người lừng chừng, tản ra xung quanh một chút rồi nhập lại đi tiếp, CSCĐ cũng thôi. Qua cổng trụ sở Quận đoàn Hoàn Kiếm, đoàn người dừng lại khá lâu....

Dọc đường, rất nhiều các tiếp viên nhà hàng và các du khách nam thanh nữ tú đang dạo chơi ngó xem chăm chăm nhưng không ai nhập cuộc hay hưởng ứng một vài lời hô. Một cô bé chừng 20 tuổi, trắng trẻo, xinh xắn, chạy đến tôi, cất giọng hỏi rất bài bản: “Chú ơi, chú có thể cho cháu hỏi một số câu hỏi được không?” Ái chà chà, nghe cứ như những câu trong bài học tiếng Anh (Excuse me, may I have the pleasure…) dạy về cách hỏi “cực” lịch sự. Đại thể những câu như thế này:
– Đoàn biểu tình đi từ đâu đến ạ?
– Thưa chú, cuộc biểu tình là do tổ dân phố đứng ra tổ chức hay là ai tổ chức ạ?
V.v…
Tôi khó chịu nhưng vẫn kiên nhẫn trả lời. Nhưng đến câu sau đây:
– Chú ơi, chú có thể cho biết lý do của cuộc biểu tình này không ạ?
thì tôi nóng tiết quá, tôi gắt:
– Cháu nhìn mọi người, cháu nghe các khẩu hiệu, thế mà còn hỏi lý do? Cháu không biết tí gì tình hình đất nước à? Chú không thể tưởng tượng thanh niên như cháu mà lại hoàn toàn mù như thế.
Anh Phạm Xuân Nguyên đứng bên cạnh (hình như đã theo dõi từ đầu) cứ cười mà chẳng hỗ trợ tôi tí nào. Tôi mắm môi định mắng to hơn nữa. Cô bé có vẻ hoảng, vội cảm ơn rồi chuồn nhanh.

Đến tượng đài Cảm tử quân thì đã trưa, khoảng 11giờ, nắng gay gắt. Mệt và mỏi. Cũng chỉ còn độ dăm chục người nhưng vẫn hô khẩu hiệu rất đanh, rồi mọi người nhanh chóng chia tay. Tôi vừa quay đi được mấy bước thì một anh trung trung tuổi vừa rời đoàn biểu tình đến bắt tay tạm biệt. Có lẽ anh ấy kém tôi độ dăm bảy tuổi, nhưng lúc đầu nghĩ tôi ít tuổi hơn nên bảo “Em về khoẻ nhé”. Rồi nói nhỏ, đổi lại xưng hô: “Anh cẩn thận, “nó” theo dõi anh đó. “Nó” biết anh đấy”. Mình hơi hoang mang, hỏi: “Thế thì đi bằng cách nào?”. Anh bảo: “Rủ vài người, gọi taxi, tìm cách đánh lạc hướng. Thôi em về đây”.  Tôi nhìn đi nhìn lại cũng chỉ còn thấy một bác lớn tuổi vừa rời đoàn là đi cùng hướng với mình. Nhưng hỏi ra thì bác ấy lại đi khác hẳn tuyến đường. Tôi bảo: “Em bị “bám” rồi, nên thế nào anh?”. Anh bảo: “Kệ mẹ nó. Mình có làm gì sai đâu”. Ừ, thôi kệ, việc của họ. Trí tò mò bỗng muốn xem cái “đuôi” nó thế nào nên quyết định đi bộ một đoạn để quan sát. Lúc rẽ vào đường Tràng Thi, gần 12 giờ trưa, chủ nhật, đường vắng tanh. Bỗng thấy cô đơn, yếu đuối vô cùng. Nghĩ bây giờ “nó” vù xe đến, quặp mình lên xe, thì có kêu cứu cũng không kịp. Mà dẫu có ai trông thấy, cũng không ai nghĩ là bắt người đi biểu tình, vì đã cách chỗ biểu tình khá xa và người đi biểu tình cũng đã về hết từ lâu. Nhưng mà những việc khuất tất như thế trước sau cũng lộ tẩy. Hậu quả nặng nề sẽ thuộc về những kẻ xấu xa, còn mình thì cố chịu trận, cuối cùng cũng sẽ vượt qua, miễn là can đảm thôi. Thấy một bác xe ôm, tôi liền gọi đi ngay.

Hôm sau đi làm, tôi chủ động gặp giám đốc, kể việc hôm qua đi biểu tình, để nếu công an có hỏi đến thì lãnh đạo của mình cũng biết mà trả lời. Giám đốc của tôi vốn là một thầy giáo nho nhã, một người hiểu biết và rất nhân từ bác ái, lại là một cựu chiến binh chống Mỹ, nên không có gì ngạc nhiên về hành động của tôi, dù trước đó trong cơ quan chưa có ai làm như tôi. Anh bảo: “Em yên tâm, chắc công an cũng chẳng hỏi gì đâu. Và chẳng có gì phải lo lắng cả, khi mình hành động theo lương tâm”. Tôi bảo: “Vâng, em cũng sẵn sàng làm việc nếu công an triệu tập. Cũng như việc em đi biểu tình, đấy chỉ là những việc tối thiểu có thể làm được vì Tổ quốc.

TÂM TRẠNG HẬU BIỂU TÌNH
Trong cuộc biểu tình này tôi rất phục một phụ nữ khoảng ngoài bốn mươi, luôn đi đầu hô khẩu hiệu rất đanh thép. Sau này biết chị ấy tên Hằng, người gốc Hà Nội nhưng nay hộ khẩu ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Tôi sẽ nói thêm về chị khi kể về cuộc biểu tình 17-7. Cũng rất phục đoàn người hôm nay dù ít nhưng đã cố kết với nhau, đã đấu tranh quyết liệt về vụ bắt người trái phép.

Và rất vui vì có những phút giây mình được sống là mình, chân thành, cởi mở, không sợ hãi, nói như Nam Cao là “đầy hăng hái và tin tưởng”. Chưa bao giờ cảm nhận được hai chữ “đồng bào” vừa thiêng liêng vừa gần gũi đến như thế. Bỗng nhớ đến thi sỹ Tản Đà cũng có những phút giây hạnh phúc như vậy, khi ông đem chia số tiền lẻ còn lại cho lũ trẻ nghèo gặp tình cờ ở núi Sót, Hà Tĩnh. Cụ gọi đó là “cơn vui đồng chủng đồng bào, tưởng như ngư phủ gặp đào nguyên chưa hẳn có thú vui như thế vậy”.

Còn buồn và lo lắng thì khôn kể xiết. Một Hà Nội lớn như thế mà chỉ có một nhúm xuống đường. Có người bảo như thế Trung Quốc nó cười cho. Tôi thì không nghĩ Trung Quốc nó cười. Một người xuống đường nó cũng sợ, nhưng giá có mười người xuống đường nó phải sợ gấp mười, trăm người nó sợ gấp trăm,… Tôi nghĩ Trung Quốc rất sợ nhân dân Việt Nam, cho nên tất cả các hành động gần đây đều nằm trong chuỗi hành động thăm dò để lấn dần từng bước nếu ta không phản ứng mạnh. Đáng buồn là nhiều người bây giờ, trong đó có cả những trí thức chữ nghĩa hàng bồ, lại đi sợ sức mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc so với ta (về vật chất) lúc nào chả mạnh hơn, nhưng đem quân sang đánh ta thì hầu hết đều thua (nói “hầu hết” vì cũng có những lúc ta thua do mất đoàn kết và mất tinh thần, bỏ mất cái sức mạnh tuyệt đối của ta). Người ta lớn bởi vì ta quỳ xuống, câu thơ của Tố Hữu vừa mới hôm nào ai cũng thuộc mà sao bây giờ nhiều người vội quên thế?

Kỳ sau: Sống trong đồng chí
(Về cuộc bị bắt ngày 17 tháng 7 năm 2011)

PHẠM XUÂN NGUYÊN: ĐAU XÓT NHỤC NHÃ BIẾT BAO!

Phạm Xuân Nguyên

Lời dẫn của Nguyễn Quang Lập: Cách đây vài tháng mình đã có bài “Ai đục bỏ lòng yêu nước” kể chuyện Tấm bia kỷ niệm chiến thắng tại đầu cầu Khánh Khê (Lạng Sơn)  đã bị đục bỏ mấy chữ “Trung Quốc xâm lược“. Chuyện này do Mr. Do kể lại và đã gây sốc rất nhiêu người. Cứ tưởng đây là chuyện hi hữu, có một không hai. Không ngờ tại đền thơ vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An), tấm bia khắc thơ Hồ Chủ tịch đã bị đục bỏ chỉ vì lời yêu nước chống Tàu của Bác. Tệ hại hơn, tấm bia khắc công trạng của vua Quang Trung cũng bị đục bỏ, vì đó là công trạng chống Tàu. Thật kinh khủng khiếp.

Kể từ 30/6 blog mình không đăng bài người ngoài. Bài viết của Phạm Xuân Nguyên là một ngoại lệ, một ngoại lệ vô cùng cần thiết.

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu
Ông đà chí cả mưu cao

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà


Cả đoạn thơ viết về Nguyễn Huệ trên đây của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã được khắc vào tấm bia đá đặt ở đền thờ “người anh hùng áo vải” trên núi Dũng Quyết ở thành phố Vinh (Nghệ An). Đền này được khánh thành năm 2008. Đi vào cổng đền, qua bình phong tứ trụ, là hai nhà bia nhìn vào nhau. Nhà bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung”. Nhà bia bên phải khắc “Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Quang Trung”, chính là đoạn thơ này. Đứng trên đỉnh núi lộng gió, đưa mắt nhìn toàn cảnh một vùng sơn thủy hữu tình địa linh nhân kiệt xứ Nghệ, đọc tấm bia khắc những lời người anh hùng dân tộc thế kỷ XX ca ngợi người anh hùng dân tộc thế kỷ XVIII tôi thấy lòng mình cảm khái vô cùng. Hồ Chí Minh không chỉ ca ngợi Nguyễn Huệ. Ông ca ngợi khối đoàn kết toàn dân, khi “vua hiền tôi sáng” biết ở giữa nhân dân, dựa vào sức dân, nhân mạnh lên sức của dân, để giữ nước và xây nước. Ông vua nào, nhà cầm quyền nào, thể chế nào có được, và giữ được, và phát huy được sức mạnh đó, thì sẽ bền vững và xứng đáng với dân tộc, giống nòi. “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà” – đó là một chân lý truyền đời.


Những người làm văn hóa ở Nghệ An đã có công khi chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ và thuyết phục được các cấp lãnh đạo, quản lý chấp nhận khắc ghi nó lên tấm bia ở đền thờ. Tôi nói “thuyết phục” vì trong một lần về thăm đền tôi nghe phong thanh chừng như là đang có ý kiến cho rằng mấy câu thơ ấy “nhạy cảm”, dẫu là của cụ Hồ nhưng trong hoàn cảnh “tế nhị” hiện nay của quan hệ Việt-Trung thì khắc nó lên bia, bày nó ra giữa thanh thiên bạch nhật là không lợi. Ôi, chỉ mới nghe phong thanh thế thôi tôi đã bực mình, tức giận. Sao lại có thể hèn nhát đến vậy! Tôi nghĩ, đó chỉ là một vài ý kiến của ai đó, sẽ không được chấp nhận. Tôi tin, tấm bia khắc những câu thơ viết về Nguyễn Huệ của Hồ Chí Minh sẽ đứng mãi ở đền thờ Quang Trung, trên núi Dũng Quyết, giữa đất trời Nghệ An, đất trời Việt Nam, để tỏa sáng một chân lý của người Việt Nam, nước Việt Nam.

Hỡi ôi, lời phong thanh đã thành sự thực, niềm tin của tôi đã bị dập tắt phũ phàng. Khi viết bài này tôi đã gọi điện về Vinh nhờ một tiến sĩ văn học lên tận đỉnh núi Dũng Quyết, vào tận đền thờ Quang Trung, xem tận mắt tấm bia khắc lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung có còn nguyên đó không. Điện báo ra là đã thay, đã thay rồi chú ơi! Cháu gửi ảnh ra ngay cho chú đây.

 
Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã bị đục bỏ, thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu.

Thơ yêu nước của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô.

Và nhìn những tấm ảnh chụp mới tức thì, tôi không tin vào mắt mình nữa. Tấm bia bên trái khắc “Công trạng vua Quang Trung” đã thay bằng bài “Tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung” của Vũ Khiêu. Còn ở tấm bia bên phải, những lời của Hồ Chí Minh đã bị đục bỏ, thay bằng đoạn trích chiếu của Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chọn đất đóng đô. Tôi đã điện hỏi kỹ người chụp đây có phải là thay bia mới vào bia cũ, hay là chỉ đục bỏ văn bia, thay bài mới. Anh cho biết đã hỏi người trông coi đền thờ thì họ nói là chỉ đục bỏ chữ, thay văn bia, chứ không thay bia.

Vậy là đã rõ. 

Lý do việc đục bỏ văn bia lời Hồ Chí Minh là sợ Tàu! (Hãy gọi là Tàu như trong đoạn thơ của ông Nguyễn). Đau xót, nhục nhã biết bao! Chẳng lẽ trên khắp nước Nam cái gì nói đến lịch sử oai hùng của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc từ xưa đến nay đều là phải né tránh, cấm đoán?

Nhưng chính quyền tỉnh Nghệ An phải có trách nhiệm trả lời cho đồng bào cả nước biết rõ ràng, công khai, vì sao có sự đục bỏ văn bia ghi lời Hồ Chí Minh viết về Quang Trung tại đền thờ Quang Trung trên núi Dũng Quyết? Ai đưa ra chủ trương này? Một việc hệ trọng, thiêng liêng như vậy đã được quyết định ở cấp nào, theo nghị quyết nào của tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, hay của Bộ VH-TT-DL, hay của một cấp cao hơn nữa?
Bởi vì tôi được biết, để chọn được đoạn thơ của Hồ Chí Minh và quyết định khắc vào bia dựng ở đền thờ Quang Trung là phải có cả một quá trình từ người chuyên môn đến nhà chính trị lựa chọn, cân nhắc và quyết định. Khắc bia rồi đục bia, xưa hay nay, đều là chuyện nghiêm trọng.

Nếu hôm nay người ta không dám ca ngợi anh hùng dân tộc của mình trên đất nước mình, thì ngày mai người ta sẽ thóa mạ ai?

Nếu hôm nay người ta đục bỏ lời của Hồ Chí Minh, thì ngày mai người ta giữ lại cái gì?

Đục bỏ những lời Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ tại đền thờ Quang Trung vì lý do sợ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao nước láng giềng là xúc phạm cả Nguyễn Huệ, cả Hồ Chí Minh, cả toàn thể nhân dân Việt Nam. Hơn lúc nào hết, trong những ngày này, những lời ca ngợi sức mạnh đoàn kết toàn dân để giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc trong những lời thơ Hồ Chí Minh viết về Nguyễn Huệ đang rất cần được vang lên mạnh mẽ và thống thiết!

 Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu làm hung
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà

Hà Nội 23.7.2011
P.X.N

Nguồn: Quê Choa -Blog.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

NHÀ BIÊN KỊCH NGUYỄN THỊ HỒNG NGÁT LÊN TIẾNG

Đạp vào mặt nhân dân
Nguyễn Thị Hồng Ngát

Mình bận những việc quỉ quái gì ấy nên là người cập nhật chậm clip ông Minh CA mặc thường phục dùng chân đạp mấy nhát vào mặt anh Nguyễn Chí Đức, người đi biểu tình bị 4 người túm 4 chân tay khênh lên ô-tô bus hôm 17-7 . Cú đạp được ghi lại này là vết nhơ không thể xóa của không chỉ riêng mình ông Minh CA mà còn là của cả ngành CA nữa.

Mặc dù ngành CA đã có rất nhiều thành tích, có rất nhiều công lao bảo vệ an ninh cho đất nước, có rất nhiều anh hùng, có rất nhiều người trong ngành này được thưởng huân huy chương cao quí. Nhưng, như các cụ nói " kiếm củi 3 năm thiêu 1 giờ" "một con sâu bỏ dầu nồi canh" hành động của anh ta đã làm mất đi rất lớn uy tín của cả ngành mà người dân mỗi khi nghe nhắc đến 2 từ CA vốn đã có nhiều e ngại. Anh CA Minh này nhìn mặt mũi cũng không phải loại đồ tể sao lại hành xử như một tên đồ tể? Cú đạp đó được nhà thơ Hoàng Hưng, Trần Mạnh Hảo nâng lên thành cú đạp " đạp vào mặt nhân dân" cũng không ngoa. Hỏi ai xem đoạn clip này mà lòng không căm phẫn và đau xót trước sự hành xử không còn là của người với người nữa mà là của thú với người thì đúng hơn. Thú có khi cũng còn e dè hơn.Chó dữ thấy người lạ vào nhà muốn cắn cũng phải sủa thị uy đã rồi vừa sủa vừa lùi giữ miếng, sau đó thấy nguy hiểm nó mới lao lại cắn. Đằng này, chả thấy có cơn cớ gì, nguy hiểm gì sao anh ta  lại  xông  xuống co chân đạp thẳng  mấy nhát vào  mặt người bị khiêng không có khả năng chống đỡ?

Nên nhớ rằng mỗi hành vi của các anh, mỗi câu nói dù chỉ hơi cao giọng của các anh đều được trăm tay ngàn mắt của nhân dân để ý.Nếu anh không rèn cho tâm thế của mình được bình tĩnh, được sáng sủa thì hành vi sẽ phản lại anh- và hình ảnh của anh sẽ dập vào mắt dân, được dân ghi lại ngay .Và, chỉ sau 1phút tải lên mạng là cả thế giới đều biết chứ không chỉ ở VN.Vụ clip vừa rồi là một  ví dụ đau xót và chua chát cho ngành CA. Hành vi đồ tể của anh CA Minh kia đã  làm xấu đi hình ảnh của CAND nói chung rất nhiều.Đây cũng là bài học không nhỏ cho anh em CA trong mọi cách hành xử, tiếp cận giải quyết các công việc khác nhau với người dân sao cho các anh đúng là người của nhân dân vì nhân dân  phục vụ! Bình tĩnh, ôn hòa với dân và quyết liệt với mọi loại  tội phạm. Đừng bao giờ hành xử ngược lại và coi rẻ xứ mạng mà mình được giao phó.

Bao nhiêu trí thức, nhân sĩ đã lên tiếng, đã có đơn gửi thẳng tới các vị lãnh đạo ngành CA- sao lãnh đạo ngành vẫn chưa có biện pháp gì xử lý anh ta? Dù ngành CA chưa xử lý thì những ngày vừa qua dư luân đã xử lý anh ta rồi. Anh ta  không thể ăn ngon ngủ yên được. Lương tâm anh ta không thể không cắn rứt và ân hận . Tiến chức, thăng quan chưa thấy đâu chỉ thấy ngàn vạn người căm ghét. Bao nhiêu nước sông, nước biển, cần bao nhiêu thời gian mới rửa sạch hình ảnh xấu xa này của anh ta?

Một bài học không nhỏ tí nào đối với tất cả những người chiến sĩ CA của NHÂN DÂN!!!Buồn thay!

23-7-2011 

VINH ANH: ĐI BIỂU TÌNH, TÔI LỚN LÊN NHIỀU LẮM!


Đi biểu tình, tôi lớn lên nhiều lắm
Vinh Anh

Ngày chủ nhật 17/7, lần thứ tư tôi tham gia nhưng lại chỉ là lần thứ hai tôi đồng hành với các bạn trẻ và những người yêu nước tham gia biểu tình một cách ôn hòa phản đối những hành vi gây hấn ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.

Sau khi bị bắt vào đồn Mỹ Đình (Mễ trì), một bạn trẻ hỏi tôi: “Bác bị bắt lần thứ mấy?” Tôi trả lời: “Lần đầu tiên” và ngay lập tức và cũng rất tự nhiên thấy mình thiếu kinh nghiệm sống hơn anh bạn trẻ.

Từ rào chắn đường sắt ở phố Điện Biên Phủ, tôi bị lùa lên xe buýt trước khi ông bạn Lê Hùng, nguyên là cán bộ biên tập của nhà xuất bản Thanh niên và Trí Đức bị quẳng lên xe và bị đạp hai cú vào mồm, một cú vào ngực, một cú trượt qua cổ (trước đó, Lê Hùng cũng bị đẩy ngã trên bậc xe buýt). Thực sự thì, tôi, dù đã chuẩn bị tư tưởng cho vợ từ lúc ở nhà là hôm nay mình có thể sẽ bị bắt, vẫn cứ bàng hoàng khi bị lùa, bị ủn lên xe, kể cả khi đã ngồi vào một chiếc ghế trống vẫn cứ như mê. Tôi tê liệt, đóng băng nhìn những hành vi của công an trước đồng bào của mình không kịp một phản ứng.

Khi xe chạy là lúc mà thần kinh đã ổn định lại, những người bị bắt trên xe nhìn nhau để nhận mặt, hỏi thăm về nhau. Tôi nhận ra Trí Đức từ chủ nhật 3/7 với vóc dáng khá “hộ pháp”. Trí Đức mồm xưng vêu vẫn còn những vết đỏ xây xát và chiếc sơ-mi lấm lem cả khoảng lưng vì mồ hôi và đất cát trên mặt đường và sàn xe.

Trên xe gặp nhiều người. Chuyến xe đó về Mỹ Đình chở những 21 người đi biểu tình cơ mà. Số còn lại co cụm phía đầu xe và không nói bất kỳ một câu nào trên cả quãng đường chục cây số. Nhưng quan sát, tôi chú ý một cậu thanh niên trẻ, đẹp trai, mặc áo nâu đen, ngồi phía bên kia hàng ghế. Cậu này cũng không nói năng gì. Hình như tôi nghe thấy tiếng của bogger Gốc Sậy: “Có lẽ cậu ta lo lắng”.

Nhưng không phải. Cuối chặng đường, một số người đi biểu tình nghi vấn có gián điệp Tầu trên xe, bởi hắn ta suốt chặng đường không nói năng gì. Chính blogger Gốc Sậy trước khi xuống xe đứng lại trước mặt cậu thanh niên hỏi hắn có biết tiếng Việt không, cậu ta lạnh lùng vẫn không trả lời. Phải mấy giây sau, blogger Gốc Sậy, đứng lại, không xuống. Lúc đó cậu ta mới nói: “Thôi ông xuống đi”. Vậy ra cậu ta là cá chìm ẩn dưới bộ mặt đẹp trai, lạnh tanh và vô cảm.

Ngay hôm sau, trên các trang mạng, tôi đã nhận ra cậu ta trong bức ảnh cùng với người sếp của CA tên Minh, người đã đạp Trí Đức bốn phát. Cậu ta đứng hơi lui phía sau, mặc áo đen, đeo kính. Trên bức ảnh đó chỉ có một người trẻ nhất đeo kính.

Sau khi xuống đồn Mỹ Đình, tôi không nhìn thấy cậu ta nữa. Tiếc quá. Cậu ta đã chọn nhầm đường, nếu như cậu ta không sớm rút ra bài học từ người đội phó tên là Minh của mình.

Trong sân thuộc khuôn viên đồn công an, chỉ có không khí vui vẻ của những người bị bắt chứ không hề có sự lo sợ. Nửa già trong số 46 người mà ba xe buýt chở xuống hôm đó là thanh niên trẻ măng, đầy nhiệt huyết. Tất cả đều hiểu mục đích đi biểu tình của mình là một biểu hiện của lòng yêu nước. Chẳng có dân tộc nào trên thế giới lại đi kết tội, bắt giam lòng yêu nước.

Tôi đã làm quen với Nguyễn Văn Phương hôm đó và cũng  tỏ rõ lòng khâm phục của tôi bởi sự dũng cảm của Phương ngày chủ nhật 13 tháng 7, lần đầu tiên tôi tham gia đến tận cùng. Tôi đã thấy Phương suốt từ quán cà phê Cột Cờ đến Nhà Hát Lớn, nơi Phương đọc bản “Tuyên cáo”, cho tới lúc mọi người chia tay ở tượng đài “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Nhưng điều tôi học được, điều tôi lớn lên là gì? Đó chính là hiểu thêm sâu sắc về lòng yêu nước, đó là thêm tin và yêu lớp trẻ và đặc biệt, tôi đã bước qua nỗi sợ hãi vô hình ám ảnh. Chân lý ở mình, lẽ phải ở mình mà mình cứ phải sợ ư?!

Tôi cũng nhận ra nhiều bộ mặt thật của cuộc đời. Người ta có thể nói về lòng yêu nước có nhiều cách biểu hiện. Tôi không phản đối. Tùy từng điều kiện mỗi người, có những cách biểu lộ khác nhau. Nhưng xin đừng ngụy biện. Những lúc cuộc đời cần phải có thái độ dứt khoát, tất cả mọi sự giả dối đều rất dẽ bị lộ tẩy. Trong suốt cuộc đời, không nhiều cơ hội để có được những ngày tháng thể hiện được tư cách con người của mình. Phương nói với tôi: “Cháu bị sức ép từ nhiều phía, từ phía chính quyền, từ phía cơ quan, từ cả người chủ nhà trọ”. Có lẽ trong những người đi biểu tình vì sự tồn vong của Tổ quốc, ít ai có tâm trạng “đau” như Phương. Tôi dùng từ “đau” và tôi nghĩ đó là từ mà tôi dùng chính xác cả với Phương và cả với những người tham gia. Tôi chỉ có một điều nhỏ nhoi an ủi Phương: “Nhà bác sẵn sàng mở cửa đón cháu”. Và tôi hài lòng, tôi cũng vượt qua được cửa ải mà nhiều người đã vượt qua. Tôi nghĩ dù chỉ một lời nói vậy thôi, nhưng có thể Phương cũng bớt đi được phần nào cái sự nặng nề, trái ngang cuộc đời mà một người trẻ như Phương phải gánh.

Những ngày sau, đọc các bài viết của các bạn cùng trên xe buýt mà sung sướng, mà ấm lòng. Đây là bài viết của Nguyễn Tường Thụy, đây là bài của blogger Gốc Sậy, rồi các bài của Lê Dũng, bài của Chí Tuyến, bài của Phương Bích, bài nào cũng hay. Tất cả những gì diễn ra trong ngày 17 đều được các bạn ghi lại đầy đủ. Lại nhớ lúc Lê Hùng bị xô ngã trên bậc lên xuống nơi cửa xe, Hùng có hỏi mọi người: “Có ai chụp được cảnh đó không?” Không ai trả lời. Nhưng hình ảnh mà người phóng viên nào đó “chộp” được cảnh ác ôn Minh đạp Trí Đức bốn nhát thì là bằng chứng quá đủ để ta hiểu nỗi đời rồi còn gì.

Và xin được nói lại một câu mà ngày xưa đi học, được các thày dạy: Người ta lớn bởi vì ngươi quỳ xuống. Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên!

                                                                                      Vinh Anh
                                                                                      22/7/2011

HAI CUỘC ĐIỆN THOẠI TRƯỚC NGÀY 24.07


Phương Bích

Chiều hôm qua đang nấu cơm thì điện thoai di động đổ chuông, một giọng phụ nữ trẻ lạ vang lên rất to:
Xin lỗi cho em hỏi chị có phải là chị Bích không ạ?
-     Phải rồi
Những ngày này nghe cái biệt danh đấy là tôi biết ngay ai gọi tôi. “Người mình”- những người cùng đi biểu tình gọi nhau một cách thân thương thế để nhận biết những người đã cùng với mình dãi nắng suốt gần 2 tháng qua để phản đối chính quyền Trung Quốc… Nhưng giọng nói này lạ lắm, tôi không đoán được ngay đó là ai:
-     Có chuyện gì thế?
-     Bác ơi, em là mẹ 2 cháu hôm vừa rồi cùng bị bắt về đồn với các bác đấy ạ…
-     À phải rồi, tôi có biết, hôm đó nghe nói cả ba bố con cùng đi cơ, thế có chuyện gì vậy?
-     Là thế này bác ạ, mọi khi bố cháu đưa các cháu đi, nhưng hôm chủ nhật tới này, thằng bé nhà em nó phải đi học, còn em và nhà em cùng có việc bận cả nên bố cháu không đi được, chỉ có một mình con bé con là đi được thôi, em nhờ các bác có gì trông nom….
Thoạt đầu tôi cứ tưởng là cô ấy trách móc vì đi biểu tình theo các bác mà các con cô ấy bị bắt nên giờ sẽ không cho đi nữa, nhưng cô ấy mới nói đến đấy là tôi đã hiểu ngay. Khóe mắt tôi hơi cay cay, không để cho cô ấy nói hết, tôi vội cướp lời :
-     Tôi hiểu rồi, cứ yên tâm, tôi sẽ để mắt trông coi cháu, không chỉ tôi mà cả các bác lớn tuổi cũng sẽ để ý bảo vệ các cháu nhỏ. Ừ, cả nhà bạn thật quý hóa quá…
Giọng người phụ nữ trẻ vẫn oang oang:
-     Bác ạ, ở trường họ đều gọi cả hai cháu lên gặp đấy, họ dọa đuổi các cháu, cấm không cho đi biểu tình…
-     Láo toét!
Tôi không kìm được kêu lên.
-     Vâng, em mới bảo các chị muốn đuổi con tôi cũng được, cứ đưa cho tôi văn bản nói rõ đuổi học vì đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, tôi chấp nhận ngay, cho con tôi hạnh kiểm kém vì đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, tôi cũng chấp nhận ngay, thằng bé nhà em nó cứ đòi đi nhưng nó phải đi học bác ạ
-     Bạn giỏi quá…không sao đâu, nhiệm vụ chính của cháu là học mà…
Tôi không biết nói thế nào để tỏ lòng mến phục những con người này. Họ thật hạnh phúc vì cả gia đình cùng đồng lòng như thế. Nghe trên mạng nói hình như nhà họ ở tận Yên Bái, sao lại có thể tham gia biểu tình dài hơi thế nhỉ, nghĩ vậy tôi hỏi:
-     Thế nhà bạn ở đâu?
-     Dạ nhà em ở phố Huế bác ạ, ở ngõ Yên Bái ấy.
Ôi chao, ở ngõ Yên Bái phố Huế mà thành ra là ở tỉnh Yên Bái !!!…hic… hic..
Tôi rối rít động viên cô ấy cứ yên tâm và hứa sẽ để ý đến cô con gái nhỏ của cô ấy. Mặc dù cô bé đã 21 tuổi và rất cứng cỏi nhưng thể chất của cháu là rất bé nhỏ, nom còn bé hơn cả cậu em 15 tuổi của nó.
Tắt máy rồi mà tôi cứ nghĩ mãi về cái gia đình 4 người nọ, họ là dân Hà Nội đấy, chỉ thiếu điều cả bà mẹ cùng đi nữa thôi. Trong số những người đi biểu tình suốt thời gian qua, có mấy cặp bố con, vợ chồng cùng tham gia như bố con Lê Dũng, bố con Nguyễn Quang Thạch, bố con cháu Tố Uyên vừa nói ở trên, vợ chồng bác giáo sư Nguyễn Đông Yên, vợ chồng cô giáo trẻ Vân Anh và có thể còn nhiều những gia đình như thế mà tôi chưa biết tên...
Không biết mọi người nghĩ sao chứ tôi thì tôi thấy cảm động lắm. Rồi lại buồn khi thấy có bao nhiêu người đứng ngoài nhìn chúng tôi với con mắt thờ ơ và bàng quan. Cứ như chuyện Trung Quốc cướp bóc đánh đập ngư dân nước láng giềng chứ không phải nước mình, chuyện còn hay mất Hoàng Sa hay Trường Sa cũng chẳng liên quan gì đến họ, chuyện những người còn sống hay những người đã chết của những người sống chết với nghề biển cũng vậy. Thế mà đọc mạng tôi mới biết có một người Việt, nhưng lại không phải dòng máu đỏ da vàng – ông André Menras lại lặn lội đến với những ngư dân miền Trung để tìm hiểu về cuộc sống cực nhọc của họ. Báo chí chính thống thì làm gì có những thông tin này, họ chỉ đăng ngư dân này trúng đậm mẻ này, ngư dân nọ trúng đậm mẻ kia thôi…
Một cô bạn tôi kể khi lên bộ làm việc với một tay vụ phó vụ Kế hoạch đầu tư, một tay cũng còn gọi được là tử tế, có nói chuyện về việc một chị ở cơ quan em (tức là tôi đấy) chủ nhật tuần nào cũng đi biểu tình chống Trung Quốc, anh ta ngạc nhiên lắm hỏi:
-     Thật á? Đi biểu tình á? Thế có bức xúc chuyện cơ quan, chuyện chồng con gì không?
Em bảo hoàn toàn không, chỉ là bức xúc chuyện Trung Quốc thôi. Dường như anh ta không thể tin được lại có chuyện như thế.
Tóm lại cô bạn tôi bảo đấy là loại người còn được cho là sáng láng và tương đối tử tế đấy, cũng thường xuyên lướt mạng chứ đâu phải loại mù thông tin, cũng nước ngoài nước trong đủ cả đấy chứ.
*
Chiều nay thì Minh Hằng lại gọi điện cho tôi, giọng hắn buồn ghê gớm. Hắn hỏi tôi có biết trên mạng họ chửi hắn là “man rợ”, là “vô liêm sỉ” vì chửi tục khi bị bắt lên xe buýt một cách thô bạo không. Tôi ngạc nhiên bảo không vì chỉ đọc mấy trang chính đã không đủ thời gian rồi. Hắn nói tay Kami Ka miếc và tay Đỗ nào đó  chửi hắn như vậy. Lúc này dường như Minh Hằng trở về với con người thật của hắn, rất triết lý chứ không như lúc lên cơn phẫn nộ. Hắn nói cái tuổi của tôi và của hắn đâu còn bồng bột xốc nổi nữa chứ, chẳng qua bị dồn vào cái thế không vùng lên không được, chúng nó sẽ đè đầu cưỡi cổ mình ngay. Mặc dù dân mạng người ta bênh vực hắn và chửi lại 2 gã kia nhiều hơn nhưng hắn vẫn buồn đến mất ngủ. Hắn hẹn hôm nào rảnh sẽ ngồi nói chuyện để tôi hiểu rõ con người hắn không phải dung tục xấu xa như thế.
Chao ôi Minh Hằng ơi, sao tôi lại không hiểu chứ? Có thể tôi không biết rõ cuộc đời gian truân của Minh Hằng như thế nào, nhưng trực giác của tôi cho biết là tôi có thể tin vào Minh Hằng. Hơn nửa cuộc đời tôi sống gần như khép kín, chỉ đến bây giờ mới dũng cảm bước chân ra ngoài xã hội mà còn dám thét lên những lời căm phẫn vào mặt những kẻ đàn áp những người biểu tình huống chi là Minh Hằng? Người đàn bà “dung tục” như Minh Hằng mà còn biết đến “nợ nước” trên vai thì với tôi còn cao sang hơn chán vạn những kẻ khác đấy.  Những lời dung tục ư? Khối kẻ còn dung tục hơn thế nhiều mà có ai hé răng phê phán câu nào đâu? Những kẻ vừa đánh đập người không có khả năng tự vệ vừa chửi rủa họ thô bỉ hơn thế nhiều thì sao nhà Kami hay họ Đỗ nọ không lên tiếng?
May mắn thay những kẻ như Kami hay Đỗ không nhiều. Tôi không cổ súy cho việc chửi bới này nọ nhưng trong nhiều hoàn cảnh tôi ước gì những lời chửi rủa hay nguyền rủa đó có thể biến thành sự thật, và tôi còn có thể chửi rủa thậm tệ hơn thế nữa cơ Minh Hằng ơi.
Trước cuộc xuống đường cùng “người mình” vào ngày 24/7, hai cuộc điện thoại làm cho tôi vui nhiều hơn buồn. Tôi không phải là người lạc quan nhưng tôi vẫn hy vọng vào những nỗ lực của người dân tham gia biểu tình chúng tôi sẽ ít nhiều lay động nhiều con tim hơn nữa. Chẳng có một sự im lặng nào là mãi mãi, chẳng có một cuộc hành trình nào là không có cái đích.
Hà Nội ngày 23/7/2011
P.B

HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN: NƠI SĨ PHU BẮC HÀ LO VẬN NƯỚC - Bài 2



HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN
Kỳ 2 - Một cơ sở vận động yêu nước của Hà Nội
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Vũ Thế Khôi

Cuối năm 1945, giáp Tết đầu tiên dân ta được đón sau khi giành lại nền độc lập, dẫu tình thế đất nước còn gian nan, công việc còn bề bộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm Hội Thiện đền Ngọc Sơn, vấn an cụ Hội trưởng, chăm chú nghe báo cáo về việc giảng thiện của Hội và cuối cùng "xin phép gợi ý": "Tôi nghĩ điều thiện lớn nhất là yêu nước, yêu dân chủ. Điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Nay ta có thể giảng công khai như thế. Có phải không, thưa các cụ?" (chúng tôi nhấn). 

Mười lăm năm trước đây, dẫn sự việc trên, chúng tôi nêu vấn đề: "Phải chăng anh thanh niên Nguyễn Tất Thành có được nghe những nhà văn thân cùng chí hướng với Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc nhắc đến hoạt động văn hoá yêu nước của Hội Hướng thiện Ngọc sơn?" Nay đã có đủ băng chứng để khẳng định: Hồ chủ tịch biết rất rõ Đền Ngọc Sơn không phải chỉ là một di tích tôn giáo mà còn là - chủ yếu là - trung tâm hoạt động văn hoá - giáo dục yêu nước của nhiều thế hệ trí thức Nho học, bắt đầu từ cái Hội Hướng Thiện đã sáng lập Đền vào mùa đông năm Tân Sửu 1841, khánh thành xây dựng cải tạo vào mùa thu năm Nhâm Dần 1842. Chẳng những thế, Người còn có mối quan hệ truyền thống về tư tưởng - tình cảm với ngôi "đền văn minh" ("Tụng kinh Độc Lập ở đền văn minh" - thơ văn Đông Kinh nghĩa thục). Xin nêu vài chứng cứ:

- Đêm 30 của cái Tết Độc lập đầu tiên ấy, vào thời khắc Giao thừa thiêng liêng đối với tâm linh Việt, Hồ Chủ tịch đã "vi hành" trở lại Đền Ngọc Sơn, những định thắp nén hương trước ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng người hành lễ đông nghịt, không len chân vào được, đành đứng bái vọng từ xa rồi lặng lẽ ra về. 

- Từ trước đó, 25 - 9 - 1945, 23 ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, đúng ngày Kỵ đức Trần Hưng Đạo 20 tháng Tám âm lịch, theo chỉ thị của Người Bộ Tuyên truyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã làm Lễ giỗ tại Nhà hát lớn Hà Nội và trong cả nước.

- Năm 1952, giữa chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp xâm lăng, khai giảng lớp chỉnh huấn cho cán bộ cao cấp trong Chính phủ, lãnh tụ cộng sản Hồ chí Minh, được coi là (xin nhắc lại: được coi là ) phải lấy đấu tranh giai cấp làm chủ thuyết, lại nói về sự giao tranh giữa cái thiện và cái ác trên toàn thế giới, trong cả nước và trong mỗi con người.

Duyên do sâu xa của những cuộc viếng thăm ấy và những câu chuyện ấy đã được một số nhà nghiên cứu soi sáng. Nhà văn Sơn Tùng, chuyên sưu tầm và viết về Hồ Chủ tịch và gia đình của Người hơn một phần tư thế kỷ nay, từng công bố mươi năm trước đây (trên báo An ninh Thủ đô, số Xuân 1991) rằng hai bạn đồng khoa và đồng chí hướng là Cụ Nghè Ngô Đức Kế và Cụ Bảng Nguyễn Sinh Sắc năm 1903 từng ra Hà Nội gặp gỡ với Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền và Cử nhân Lương Văn Can tại nhà cụ Vũ Hoành (cũng một yếu nhân của Đông Kinh Nghĩa Thục sau này) ở Khuyến Lương. Trong lần đi ấy, Cụ Bảng Sắc mang theo cả hai anh em Sinh Khiêm và Tất Thành, nhưng giữa đường Sinh Khiêm bị ốm, nên chỉ Tất Thành được "chầu hầu" cuộc đồng chí tương ngộ ở Hà thành. 

Vậy không lẽ nào trong cuộc viếng thăm đất cố đô Thăng Long, nhà Nho khoa bảng không đưa con trai đến chiêm bái Văn Miếu và đền Ngọc Sơn, nơi không chỉ thờ Thần văn chương và khoa cử, mà ngay từ khi sáng lập đã trở thành trụ sở của hội Hướng Thiện tụ họp các danh sĩ Hà thành như Thần siêu, Thánh Quát, các ông Nghè danh sư Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung ... tiến hành các hoạt động chấn hưng văn hoá Thăng Long . Một điều cậu Tất thành không thể không lưu ý là cũng đúng vào cái năm 1903 ấy, Cụ Cử Lương và Cụ Hoàng giáp Nguyễn cùng nhiều nhân vật khác liên quan trường Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Duy tân sau này, đã cùng phả Thiện An Lạc xây dựng "Hoằng thiện kinh đàn" ở ngay bên trái chính điện (nay bị biến thành gian hàng bán đồ lưu niệm!) để giảng bài "Chính kinh" của Đức Thánh Trần (quê hương ở An Lạc!) và các bài kinh giáng bút khác của chư vị thánh thần dân tộc răn dạy giữ lòng trung hiếu, yêu nước thương nòi và bảo tồn thuần phong mỹ tục cổ truyền. Danh tính Lương Văn Can và Nguyễn Thượng Hiền được khắc trên bia "Tu bổ Ngọc Sơn từ bi kí", lập ngay tháng 6 (âm lịch) năm 1903, hiện vẫn gắn trên tường trong Đền, tấm biển lớn "Hoằng Thiện Kinh Đàn", sơn son chữ thếp vàng rực rỡ, niên đại cũng ghi 1903. Bản "Chính kinh" do Đức Thánh Trần "giáng bút" bằng chữ Hán, từng được diễn Nôm giảng tại đàn Ngọc Sơn và các đàn Thiện trong khắp cả nước, mới đây có nhà nghiên cứu phát hiện một bản “Chính kinh” đó từng được "thỉnh" từ Đền Ngọc Sơn về Nghệ An và khắc in lại ở địa phương.

Những cuộc viếng thăm đền Ngọc Sơn của Hồ Chủ tịch, biệt nhãn cuả Người đối với công cuộc hướng thiện và việc tôn thờ Trần Hưng Đạo nơi đây, sự tham gia trực tiếp vào sự nghiệp văn hoá - giáo dục này của những sĩ phu cùng chí hướng với thân phụ của Người, đồng thời là những yếu nhân của phong trào Duy tân - Đông Kinh Nghĩa Thục, đã soi rọi một ánh sáng mới vào đền Ngọc Sơn và hội Hướng Thiện. Rõ ràng trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các trí thức Nho học chủ trương duy tân, tuy chỉ hoạt động chính thức được chưa đầy 8 tháng, nhưng phong trào mà nhà trường khởi động sở dĩ đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp chính là vì thực ra cơ sở văn hoá - xã hội của nó, cả tinh thần lẫn vật chất (các ông đồ và những ngôi trường làng) đã được hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn bền bỉ chuẩn bị từ hơn nửa thế kỷ

Năm 2007 là tròn 100 năm mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907 - 2007) và cũng là tròn 80 năm mất của Thục trưởng Lương Văn Can (1927 - 2007). Nhân sự kiện này từ ngày 3 đến ngày 5 - 5 - 2007 tại Đại học Aix-en-Provence và Trung tâm lưu trữ hải ngoại CAOM (Pháp) đã tiến hành một Hội thảo quốc tế về chủ đề "Việt Nam, thời khắc duy tân (1905 - 1908)". Mục tiêu đầu tiên trong 3 mục tiêu của Hội thảo, như nêu trong Đề dẫn gửi tới các đại biểu trước mấy tháng, là: tìm hiểu phong trào canh tân (hiện đại hoá) ở Việt Nam về bề dày xã hội, những cội nguồn văn hoá của nó. Tại cuộc Hội thảo nói trên, trong bản báo cáo khoa học (30 tr. khổ A4) "Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn - một cội nguồn văn hoá - xã hội sâu xa của phong trào Duy tân và Đông Kinh Nghĩa Thục", bằng nhiều tư liệu văn bia Hà Nội và vùng lân cận, thơ văn và gia phả chữ Hán của một số nhân vật liên quan chủ chốt chúng tôi đã minh chứng những mối liên hệ về nhân sự và tư tưởng của phong trào văn thân yêu nước và Duy tân nói chung, của trường Đông Kinh Nghĩa Thục nói riêng với Hội Hướng Thiện của sĩ phu Hà thành, xuất hiện từ thời Minh Mạng (1836?) và hoạt động hoạt động chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Những mối liên hệ về nhân sự, chúng tôi đã thể hiện cụ thể thành 3 phả đồ và một sơ đồ quan hệ sư phụ - môn sinh. Ở đây chúng tôi xin thâu tóm một số tư tưởng tiến bộ (trên câu đối trong đền Ngọc Sơn gọi là "chủ trương") và phương thức hoạt động cùng cơ sở văn hoá - xã hội của nhóm sĩ phu Hà thành nửa đầu thế kỷ XIX mà chúng tôi đã phát hiện thông qua việc kết hợp tìm hiểu các hoạt động của nhóm sĩ phu Hà thành tập họp trong Hội Hướng Thiện và giải mã lại một số câu chữ trên bi ký, thơ văn chữ Hán tại Đền Ngọc Sơn, một số đền miếu khác ở Hà Nội cũng như các vùng lân cận và trong tác phẩm thơ văn chữ Hán của những danh sĩ liên quan. 

- Trước hết, đó là chủ trương "trung với dân" và "nghĩa vụ của người quân tử là lo cho dân" ( "trung ư dân", "quân tử vụ dân chi nghĩa" - Vũ Tông Phan: "Trùng tu Hoả thần miếu bi ký", 1841) và để thực hiện điều đó, họ đã động viên các trí thức Nho học về "làm người quân tử trong làng, làm thầy đồ trong xã" ("vi hương quân tử, vi xã tiên sinh" - Nguyễn Văn Lý: "Thọ Xương tiên hiền từ vũ bi ký", 1838). Từ đó, việc đem ánh sáng văn hoá về làng quê - đất căn bản của nền văn hoá Việt - trở thành một lẽ sống đích thực của kẻ sĩ, được chẳng những các Nho sĩ duy tân trong Đông Kinh Nghĩa Thục hưởng ứng, mà sau đó cả các trí thức "Tây học" nhưng không vong bản trong nhóm "Thanh Nghị" còn biến thành lời kêu gọi: "Anh em thanh niên! Đã đến lúc chúng ta về làm việc làng!". Năm 1969 Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, tiến sĩ "Tây học" nhưng uyên bác về văn hoá phương Đông, mẹ đẻ lại đã tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục, từng nêu nhiệm vụ cần nghiên cứu về vai trò của các ông đồ (cả bà đồ nữa!) ở các ngôi trường làng trong cách mạng Việt Nam. Nhưng phải chăng vì trên tài liệu ghi phát kiến lớn đó có cộp dấu "Mật", nên ngành giáo dục im lặng về vấn đề đó suốt thời gian qua, và đến nay vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ! Vậy mà hàng ngàn ngôi trường làng cùng hàng ngàn ông đồ quân tử ấy từng là cơ sở và lực lượng dự bị, có sẵn, tại khắp các địa phương đã giúp cho Đông Kinh Nghĩa Thục triển khai công cuộc vận động canh tân của mình một cách nhanh chóng và rộng rãi. Kể cả sau khi ngôi trường "trung ương" ở số 10 Hàng Đào - Hà Nội bị chính quyền thực dân Pháp đóng cửa, Thục trưởng Lương Văn Can cùng cả loạt giáo viên bị bắt bớ, tù đày, thì tại các làng quê những ông đồ ấy, tại những ngôi tư thục tồn tại có khi hơn nửa thế kỷ rồi, vẫn mở lớp dạy "rập khuôn trường Đông Kinh Nghĩa Thục". Cũng không ít những ông đồ ấy về sau trở thành Chánh/ Phó chủ tịch, Uỷ viên thư ký của các Uỷ ban Nhân dân lâm thời trong Cách mạng tháng Tám 1945.

- Các nhà Nho sáng lập hội Hướng Thiện chủ trương tập họp Nho sĩ và thương nhân trong một tổ chức cùng hoạt động văn hoá - xã hội: trên các bia trong đền Ngọc Sơn, từ bia đầu tiên năm 1843 đến bia cuối cùng năm 1916, đứng chung tên với Nho sĩ còn có các cá nhân thương gia hoặc các hiệu Nguyên Xương, Hưng Ký, Dụ Hưng, Đồng Lợi ... Khỏi phải nói rằng ở đầu thế kỷ XIX, khi Nho giáo chính thống của triều Nguyễn vẫn "trọng nông, khinh thương", thì đây là một tư tưởng đổi mới thực sự. Vị tiến sĩ Nho học Hội trưởng Hướng Thiện đầu tiên còn cho trưởng nam của mình là Tú kép Nho học Vũ Như Trâm kết hôn với thục nữ Bùi Thị Dĩnh, cháu họ của doanh nhânmưu doanh sản nghiệp". Do tư tưởng "trọng nông, khinh thương" cố hữu chăng mà người đời nay đã biến ông thành "giám sinh Quốc Tử Giám"?! Trong khi đó thành công của ông Tổ họ Bùi chính là ở lĩnh vực "mưu doanh", nhờ vậy ông mới để lại cho con cháu một "sản nghiệp" lớn để rồi hậu duệ của ông là Bùi Huy Tùng, đã hằng sản lại hằng tâm, nên đóng góp tới hơn 10 mẫu ruộng cho Văn hội Thọ Xương - nòng cốt của hội Hướng Thiện xây dựng và duy trì hoạt động của Văn chỉ Thọ Xương. Chủ trương liên kết mật thiết trí tuệ của kẻ sĩ và tài lực của doanh nhân trong công cuộc chấn hưng văn hoá Thăng Long ở nửa đầu thế kỷ XIX đã được các nhà Nho trong phong trào Duy tân và Đông Kinh Nghĩa Thục tiếp tục phát huy. Thậm chí, một số nhà Nho còn "sắn tay áo lên", trực tiếp mở hiệu kinh doanh, tuy nhiên, theo Nguyễn Hiến Lê, thua lỗ không ít, vì kinh doanh đâu phải là chỗ mạnh của kẻ sĩ! Bùi Huy Tùng. Chúng tôi nhấn mạnh không ngẫu nhiên: phả chữ Hán của họ Bùi ngõ Phất Lộc, soạn năm 1866 đời vua Tự Đức, ghi rõ vị tiên tổ Bùi Văn Mạo từ làng Phất Lộc huyện Đông Quan phủ Thái Bình lên Thăng Long năm 1717 để "

- Chính sự liên kết trí tuệ và tài sản đã giúp cho hội Hướng Thiện "làm những việc có ích cho người, mà giáo hoá họ" ("hành phương tiện" - Vũ Tông Phan: bia "Ngọc Sơn Đế quân từ ký") như phục dựng hàng loạt di tích lịch sử - văn hoá đã trở nên hoang tàn sau ba chục năm chiến tranh liên miên (1771 - 1802), biến đền Ngọc Sơn thành một cơ sở khắc in sách lớn nhất Hà Nội hồi nửa đầu thế kỷ XIX (đây là một công việc xưa kia vô cùng tốn kém!): cho đến năm 1966, theo báo cáo kiểm kê của nhà Hán Nôm học lão thành Vũ Tuân Sán, sau bao biến thiên ở Hà Nội, trong kho đền Ngọc Sơn vẫn lưu trữ 1156 cái ván khắc. Rất đáng chú ý là hội Hướng Thiện đã tổ chức khắc in các sách tiểu học để phổ cập chữ Hán, sách truyện danh nhân đất Việt như Chu Văn An, Trần Hưng Đạo..., sách phổ biến kiến thức thông thường như vệ sinh thai nghén, sinh đẻ và nuôi con. Phương châm làm sách này cũng được Đông Kinh Nghĩa Thục phát huy, và sau ĐKNT còn được một số người tâm huyết với văn hoá dân tộc và sự học của tầng lớp bình dân như cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, con trai thứ của sáng lập viên ĐKNT cử nhân Nguyễn Hữu Cầu, tiếp tục.

- Từ hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã bắt đầu hình thức thuyết giảng không phải thuần tuý tôn giáo như xưa, mà đã là thuyết giảng công khai, mang tính tuyên truyền xã hội, dẫu mới đầu chỉ là những buổi tụng giảng kinh đạo lý cổ truyền, đã được diễn Nôm để quảng đại người nghe hiểu ngay. Đông Kinh Nghĩa Thục đã phát huy vô cùng hiệu quả hình thức hoạt động này.

Một điều nữa cũng nói lên mối liên quan tư tưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với hội Hướng Thiện, đó là: bắt đầu từ đền Ngọc Sơn, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục triển khai mạnh mẽ với đền Ngọc Sơn là một trong những diễn đàn chính, thì sau khi ĐKNT bị cấm, các tư tưởng và hình thức tuyên truyền thông qua diễn thuyết lại trở về đền Ngọc Sơn - đương nhiên, do tình thế mới, trở về dưới vỏ bọc khác là tụng giảng tại "Hoằng Thiện kinh đàn" các bài kinh "giáng bút" của chư vị thần thánh đất Việt, trong đó có "Kinh Đạo Nam " với những đề bài và nội dung không mấy khác các bài giảng ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục trước đây, như "Hợp đoàn thể", "Khuyến công", "Khuyến thương", "Khuyến nữ học"... kể cả "Ái quốc ca". Vì thế nên đền Ngọc Sơn mới bị quan lớn Thống sứ thực dân lưu ý bọn mật thám phải theo rõi, Kinh Đạo Nam mới bị cấm, người giảng bị bắt bớ tù đày. Thì lại đến lượt kinh tam giáo "Tâm pháp" được Vân Hương thánh mẫu (Liễu Hạnh) "giáng" và đưa ra giao giảng, dẫu kín đáo hơn, "tôn giáo" hơn, nhưng đây đó vẫn ẩn hiện cái hồn của Đông Kinh Nghĩa Thục:

Cùng non nước , cùng hình dáng ấy,
Cùng giống nòi tự bấy nhiêu lâu,
Cùng chung khí huyết một bầu:
Tiên - Long ta vẫn trước sau ghi truyền.
Tình nghĩa lúc sinh tiền khôn xiết,
Cùng màu da, xác thịt trước sau,
Kể chi già, trẻ, nghèo giầu,
Vốn là cùng giống với nhau một loài!

*Bài viết do Nhà giáo Vũ Thế Khôi gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện – blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả.