Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

SỨ THẦN VIỆT NAM, TRIỀU TIÊN TẠI TRUNG QUỐC

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 5: Sứ thần Việt Nam - Triều Tiên tại Trung Quốc
Lý Xuân Chung


VỀ VĂN BẢN THƠ XƯỚNG HỌA GIỮA
NGUYỄN CÔNG HÃNG (VIỆT NAM) VỚI DU TẬP NHẤT, LÝ THẾ CẨN (HÀN QUỐC) TRONG CHUYẾN ĐI SỨ TRUNG QUỐC NĂM 1718

Lý Xuân Chung
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Năm 1718, sứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Hãng, Trưởng đoàn ngoại giao (Chánh sứ) Việt Nam đi sứ Yên Kinh (TQ). Tại Yên Kinh, đoàn ngoại giao Việt Nam và Triều Tiên do Du Tập Nhất làm Trưởng đoàn đã được nước chủ nhà bố trí ăn nghỉ tại Khách sạn Ngọc Hà (lúc đó gọi là Ngọc Hà quán). Hai đoàn ngoại giao VN và Triều Tiên đã ở cùng với nhau hơn 01 tháng tại Ngọc Hà quán và đã xướng họa thơ văn với nhau. Bài viết dưới đây của TS. Lý Xuân Chung (Viện KHXH Việt Nam) sẽ cho chúng ta biết về cuộc xướng họa của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên trong thời gian này. Xin cảm ơn TS Lý Xuân Chung!
Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Năm 1700, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới các chức Hữu Thị lang, Tả Thị lang Bộ Binh rồi Thượng thư, Tham tụng trong phủ chúa. Ông được chúa Trịnh Cương tin dùng, ban chức trọng yếu, giữ chức Tể tướng suốt 13 năm. Trịnh Giang sau khi lên ngôi chúa còn tin dùng ông một thời gian, sau nghe lời gièm, giáng xuống làm Thừa chính xứ Tuyên Quang rồi bức tử vào năm 1732.

Trong thời gian giữ trọng trách trong phủ Chúa, năm 1718, ông được cử đi sứ Trung Quốc.


Về thơ văn, các sách như Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp; Từ điển văn học của Lại Nguyên Ân chủ biên; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên; Thơ đi sứ của Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên... đều thống nhất ghi rằng, ông có Tinh sà thi tập một quyển, làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc.


Lần tìm trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu - cũng như Thư mục ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không tìm thấy cuốn sách có đầu đề như vậy. Có điều là, chúng tôi tìm thấy một cuốn có ghi chép thơ văn của Nguyễn Công Hãng được làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1718, tức năm Vĩnh Thịnh thứ 14. Đó là cuốn Bắc sứ thi tập, ký hiệu VHv.2166, bản viết tay, chữ tốt, dễ đọc, 72 trang, khổ 26 x15cm, gồm 2 tập thơ đi sứ của Đào Công Chính và Nguyễn Công Hãng. Thơ văn của Nguyễn Công Hãng duy nhất có cuốn này, tuy mới có thêm bản chụp mang ký hiệu VHc.304 thì cũng là photocopy từ bản này, trong đó, từ tờ 31b đến tờ 34a có phần thơ xướng họa giữa Nguyễn Công Hãng với Du Tập Nhất và Lý Thế Cẩn, tổng cộng 12 bài, gồm 4 bài xướng của Nguyễn Công Hãng, 4 bài họa của Du Tập Nhất và 4 bài hoạ của Lý Thế Cẩn.


Theo Bắc sứ thi tập, trong chuyến đi sứ năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), Nguyễn Công Hãng khi đó đang giữ chức Binh bộ Hữu thị lang được cử làm Chánh sứ, dẫn đầu đoàn sứ bộ nước ta sang Trung Quốc. Trong thời gian ở Bắc Kinh, đoàn sứ bộ nước ta đã gặp đoàn sứ bộ Triều Tiên do Chánh sứ Du Tập Nhất, hiệu là Thủ Huyền cư sĩ, giữ chức Hình bộ Thượng thư cùng với Phó sứ Lý Thế Cẩn, hiệu là Tĩnh Hiên cư sĩ, giữ chức Phán quan dẫn đầu. Nguyễn Công Hãng là người gửi bài thơ xướng và Du Tập Nhất, Lý Thế Cẩn làm thơ họa lại.


Khi tới Hàn Quốc, chúng tôi đã mất công tìm kiếm nhưng chưa tìm thấy thi tập của Du Tập Nhất, chỉ tìm thấy tập thơ văn của Lý Thế Cẩn, nhan đề Tĩnh Hiên tập, có phần thơ văn xướng họa với Nguyễn Công Hãng.


Theo Tĩnh Hiên tập, tr.352, 353, tư liệu ở Thư viện Quốc gia Trung ương, Seoul, Hàn Quốc cho biết, hai đoàn sứ thần khi tới Bắc Kinh thì được bố trí ở chung tại quán nghỉ Ngọc Hà hơn 40 ngày, đôi bên thường xuyên qua lại thăm hỏi lẫn nhau và trao đổi thơ văn. Có điều là, Tĩnh Hiên tập chỉ ghi chép 8 bài thơ xướng hoạ giữa Nguyễn Công Hãng với Lý Thế Cẩn, Nguyễn Công Hãng làm bài xướng (4 bài), Lý Thế Cẩn họa lại (4 bài).


Đối chiếu từng câu từng chữ ở 8 bài có trong hai văn bản, thấy có đôi chỗ xuất nhập, chúng tôi chọn 8 bài trong Tĩnh Hiên tập để phân theo thứ tự (sau đây gọi là bản A, còn bản Bắc sứ thi tập gọi là bản B) để xem xét.
Bài thứ nhất: có 3 chỗ xuất nhập ở câu 1, 4 và 5:
Câu 1, bản A chép: 故 園 歸 夢 不 言 賒 - Cố viên quy mộng bất ngôn xa.
Bản B chép: 故 園 於 夢 不 憚 賒 - Cố viên ư mộng bất đạn xa. Xét về nghĩa: ngôn nói, đạnsợ, ngại.
Bất ngôn xa có nghĩa không nói là xa; Bất đạn xa có nghĩa là không ngại xa, không sợ xa. Xét về niêm luật thì ở chữ thứ 6 này phải là vần bằng, chữ đạn vần trắc ở đây là thất niêm nên bất ngôn xa hợp lý hơn bất đạn xa. Chữ quy và chữ ư ở hai câu cũng cần xem xét. Về nghĩa, câu của bản A có thể hiểu là: mộng về quê cũ chẳng nói là xa. Nếu thay chữ ư vào chữ quy thì có thể hiểu là: Quê cũ ở trong mộng không nói là xa, xem ra câu thơ thuận lý hợp tình. Như vậy, câu này sẽ là: Cố viên ư mộng bất ngôn xa.
Câu 4, bản A chép: 驛 梅 新 放幾 枝 花 "Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa". Bản B bỏ trống hai chữ 新 放tân phóng. Bởi thế, hai chữ tân phóng của bản A đã hoàn thiện cho câu thơ của bản B. Nghĩa cả câu là:
Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
Câu 5, bản A chép: 玉 樓 寒 盡 猶 瞻 極 - Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực.
Bản B chép: 玉 樓 寒 盡 惟 吟 日 - Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật".
Xét về niêm luật thì cả hai câu đều đúng. Xét về ý nghĩa thì khác nhau: Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực".
Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, có thể phóng hết tầm mắt.
"Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật"
Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, chỉ là ngày ngâm vịnh.
Đây là bài thơ Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng, bởi thế, về mặt văn bản, ba chữ do chiêm cực của bản A có lẽ hợp hơn. Hơn nữa, xét đối với câu dưới: 銀渚 春 生 未 返槎 - "Ngân chử xuân sinh vị phản sà". Nghĩa là: Ở Ngân đảo, xuân đã đến, (mà) chưa thể quay bè sứ trở về.
Ta thấy, câu chữ của bản A có lẽ đẹp hơn, hay hơn, hợp hơn với nỗi niềm của người đi sứ nhớ quê hương.
Bài thứ ba: có ba chỗ xuất nhập ở câu 4, 5 và 7.
Câu 4 và 5, bản A chép:
書中慕子三冬足
旅次嗟予兩 鬢 花
"Thư trung mộ tử tam đông túc,
Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa".
Nghĩa là:
Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Bản B chép:
觀 光 慕 子 雙 眸 闊
作 客 嗟 予 兩 鬢 花
"Quan quang mộ tử song mâu khoát,
Tác khách ta dư lưỡng mấn hoa".
Nghĩa là:
Xem (tướng mạo) sáng sủa, hâm mộ ông có đôi mắt rộng,
Than cho tôi là kẻ làm khách đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Hai chữ lữ thứtác khách ở câu 5 không khác nhau lắm về ý nghĩa. Nhưng, ở câu 4, bản B dùng cả một câu khen tướng mạo sứ thần nước bạn, hâm mộ đôi mắt (to) rộng thì thấy có vẻ không ổn. Trong các bài thơ gửi tặng Nguyễn Công Hãng, Lý Thế Cẩn không giấu nổi nỗi buồn chưa hoàn thành việc đi sứ, phải ở lại lâu ngày ở quán khách, lẻ loi buồn rầu. Ở bài thứ 6, Lý Thế Cẩn viết rõ:
孤館
無 限 羈 愁 萬 斛 餘
Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
Nghĩa là:
Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm, tựa như sống trong cảnh thiền,
Nỗi buồn vô hạn, uống rượu nhiều.(1)
Hoặc như:
故 園 於 夢 不 言 賒
客 館 經 年 便 作 家
"Cố viên ư mộng bất ngôn xa,
Khách quán kinh niên tiện tác gia".
Nghĩa là: Quê cũ ở trong mộng, không nói là xa,
Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
Như vậy, câu chữ ở bản A có lẽ hợp lý hơn.
Câu thứ 7, bản A chép: 歸 來 相 憶 形 聲 夢 -Quy lai tương ức hình thanh mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng.
Bản B chép: 歸 來 相 憶 形 客 夢 - Quy lai tương ức hình khách mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng khách ở trong mộng.
Về ý nghĩa, sứ thần hai nước Việt - Hàn trong lịch sử luôn có tình cảm tốt đẹp với nhau, coi nhau như bạn thân lâu ngày gặp lại. Điều này đặc biệt phản ánh rõ nét trong nội dung thơ xướng hoja của hai ông. Bởi thế, chữ khách ở đây không hợp ý nghĩa, hơn nữa, lại phạm luật bằng trắc, chữ thứ 6 này phải là thanh bằng mới hợp cách.
Như vậy, câu chữ bản A hợp lý hơn.
Sau khi xem xét tổng thể văn bản của hai bên, sơ bộ, chúng tôi có nhận xét sau:
1. Văn bản Bắc sứ thi tập của Nguyễn Công Hãng ở Việt Nam có nhiều hơn Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc) 4 bài thơ.
2. Trong 4 bài thơ của Lý Thế Cẩn trong Tĩnh Hiên thi tập thì có 2 bài trùng với 2 bài của Du Tập Nhất trong Bắc sứ thi tập. Như vậy, nếu coi bản Bắc sứ thi tập đầy đủ hơn thì bản Tĩnh Hiên thi tập thiếu mất hai bài của Lý Thế Cẩn, thừa ra 2 bài của Du Tập Nhất.
3. Hai văn bản đều thống nhất chép rằng, Nguyễn Công Hãng gửi bài xướng và sứ thần Hàn Quốc Lý Thế Cẩn họa vần.
4. Trong 8 bài ở cả hai văn bản, chỉ có bài thứ nhất và bài thứ ba đều có ba chỗ xuất nhập như đã nêu ở trên.
Dưới đây là phần phiên âm, dịch nghĩa 8 bài thơ trong Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc):
Ở quán Ngọc Hà đáp lại thơ khất họa của Chánh sứ An Nam (Ngọc Hà quán thù An Nam quốc Chánh sứ khất họa vận).
Bài 1: Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng.
Phiên âm:
Cố viên quy mộng bất ngôn xa,
Khách quán kinh niên tiện tác gia.
Thôn tửu thặng thành liên nhật tuý,
Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa.
Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực,
Ngân chử xuân sinh vị phản sà.
Đồng thị lữ nhân quân cánh viễn,
Nhất ban sầu tứ tưởng ưng gia.
Dịch nghĩa:
Mộng về quê cũ chẳng kêu xa,
Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
Rượu trong thôn vẫn có, thành ra cứ say hết ngày này qua tháng khác,
Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
Ở lầu ngọc đã hết lạnh, có thể phóng hết tầm mắt,
Ở Ngân đảo, mùa xuân đã đến mà chưa thể quay thuyền trở về.
Cùng là khách đi xa, nhưng ông ở xa hơn,
Nỗi buồn như nhau nhưng nỗi niềm nhớ quê hương của ông
hẳn càng sâu nặng hơn.
Bài thứ hai:
Phiên âm:
Các tự Đông Nam hải nhất tâu,
Ngộ ngôn vô lộ chỉ hồi đầu.
Y quan định tập văn minh chế,
Điền phú ưng tòng thượng hạ trù.
Cánh bả thiên chương khâm điển nhã,
Tức tri phong khí tuyệt khoa phù.
Kinh bang đại pháp duy Chu Khổng,
Tu hướng di biên tự tự tu.
Dịch nghĩa:
Tôi và ông từ góc biển Đông và Nam tới,
Gặp nhau, nói không hiểu chỉ ngoái đầu.
Mũ áo nhất định phải phỏng theo chế độ văn minh,
Thuế ruộng nên định theo bờ trên bờ dưới.
Càng nên rèn rũa khâm định văn chương cho thêm điển nhã,
Tức là biết khoa trương phong khí đến mức tuyệt vời.
Phép lớn kinh bang duy chỉ theo Chu Công, Khổng Tử,
Nên theo Ngài tu sửa từng chữ từng chữ trong di cảo.
Nguyễn Công Hãng gửi Lý Thế Cẩn theo vần như trước
Bài 1.
Phiên âm:
Hải quốc Đông Nam vạn lý xa,
Ngọc kinh hỷ ngộ quán thiên gia.
Thư trung mộ tử tam đông túc,
Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa.
Tưởng thị đồng niên từ giả án,
Cộng tuỳ bát nguyệt phiếm tiên sà.
Quy lai tương ức hình thanh mộng,
Dĩ nghĩ vu kim cánh bội gia.
Dịch nghĩa:
Tôi ở bờ biển Nam, ông ở biển Đông
cách xa nhau hơn vạn dặm,
Vui mừng được gặp nhau ở Yên Kinh, quán Ngọc Hà và cùng vào chầu thiên vương.
Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Ngỡ là cùng một năm từ biệt án thư màu đỏ sẫm,
Vào tháng tám, cùng nhau cưỡi bè tiên đi về.(2)
Trở về cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng,
Nghĩ đến hôm nay càng nhớ nhau hơn.
Bài 2.
Văn đạo Đông Hàn trạch hải tâu,
Cửu Đô sơn hạ Hán giang đầu.
Văn chương cơ trục cao thiên cổ,
Nghĩa lý uyên nguyên tục cửu trù.
Hàng tửu khử hàn xuân sắc noãn,
Ma y liễm thể tuyết hoa phù.
Tức kim ba thiếp Đông minh cửu,
Cộng dĩ niên niên chức cống tu.
Dịch nghĩa:
Nghe nói nhà ông ở Đông Hàn, bên góc bể,
Ở đầu nguồn sông Hàn(3), dưới chân núi Cửu Đô.
Nếp văn chương có từ ngàn xưa,
Nghĩa lý nguồn sâu kế tục Cửu trù(43).
Uống rượu Hàng Châu xua cái lạnh đi sắc xuân ấm tới,
Thu mình trong tấm áo gai theo hoa tuyết bay.
Cũng tức là nay theo làn sóng về biển Đông quốc
Tôi cùng ông trải mấy năm hoàn thành chức trách đi triều cống.
Lý Thế Cẩn lại gửi bài thơ họa lại thơ của Chánh sứ An Nam Nguyễn Công Hãng
Bài 1.
Phiên âm:
Thủ bả quỳnh cư ngoạn tái tam,
Từ đàn thanh giá trọng song Nam.
Tòng tri vạn quốc đồng văn quỹ,
Cánh hỷ viêm phương dưỡng đạo tàm.
Kinh nghĩa tự lai đa uẩn dữ,
Công phu tu thả cực nghiên đàm.
Hoàn tương vô ngữ thù khuyến ý,
Duyệt nhược tình song đối trần đàm.
Dịch nghĩa:
Tay cầm ngọc đẹp thưởng ngoạn ngắm nghía hồi lâu(5),
Ông đã nổi tiếng trên văn đàn được cả hai nước tôn trọng.
Từ lâu đã biết các nước đồng văn đồng quỹ(6)
Càng vui hơn khi biết vùng xứ nóng trồng lúa nuôi tằm.
Kinh nghĩa từ trước tới nay đã trao tặng cho nhau nhiều,
Càng phải bỏ công phu nghiên cứu thật sâu xa.
Ngày ông về, chẳng biết nói gì, làm thơ đáp lại tỏ ý khuyến khích,
Vui mừng như cùng ngồi bên song cửa đầy nắng bàn chuyện thế gian.
Bài 2.
Phiên âm:
Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
Đắc thử quỳnh chương song thủ quán,
Thắng ư phỉ kỷ thập niên thư.
Khách trung tuế luật hồi nguyên hiến,
Mộng lý hương tình thuyết Mạnh chư.
Văn đạo tiên sà quy nhật cận,
Xuất phàn phi điểu hứng hà như.
Dịch nghĩa:
Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm tựa như sống trong cảnh thiền,
Nỗi buồn nơi đất khách vô bờ bến, uống rượu nhiều.
Nhận được bài thơ như ngọc này, vội rửa sạch hai tay,
Hơn hẳn (thơ) của đồng liêu mấy chục năm đọc sách.
Trong số khách (đến đây), ông đã xong việc tuế cống và được trở về với quê hương văn hiến,
Trong mộng trào dâng tình cảm quê hương và nói chuyện kinh sách thánh hiền.
Nghe nói công việc đi sứ đã xong, sắp đến ngày sứ bộ trở về,
Ra khỏi miền đất này, không biết cánh chim vui thú bay về đâu.
Nguyên vận của Nguyễn Công Hãng
Bài 1.
Phiên âm:
Thương hải dương trần kỷ độ tam,
Viêm bang tự tích trạch giao Nam.
Lục kinh dĩ ngoại vô tha đạo,
Nhất tuế chi trung thục bát tàm.
Vạn hộ ngư diêm thường cấp túc,
Tứ thời hoa thảo cộng phu đàm.
Quy lai tuyên thất như tiền tịch,
Tự dữ quan phong trợ nhất đàm.
Dịch nghĩa:
Trải bao phen vật đổi sao dời,
Vùng đất xứ nóng từ xưa đã ở phương Nam.
Ngoài lục kinh ra(7), chẳng theo đạo nào khác,
Một năm thu hoạch tám lứa tằm.
Nhân dân theo nghề đánh cá làm muối thường no đủ,
Bốn mùa hoa cỏ tốt tươi.
Khi về nhớ cảnh đền đài,
Giống như trong bữa tiệc hôm trước nói chuyện về phong cảnh tham quan.
Bài 2.
Phiên âm:
Địa các Đông Nam hải tế cư,
Kế trình vạn lý hữu linh dư.
Uy nghi cộng bỉnh Cơ gia lễ,
Học vấn đồng tôn Khổng thị thư.
Hảo bả văn chương thông khẳng khái,
Hưu luân ôn bão độ cư chư.
Sứ thiều vân phản trùng tương ức,
Tại tử an tri bất ngã như?
Dịch nghĩa:
Tôi ở bờ biển Nam, ông ở bờ biển Đông,
Đường đi tính ra tới hơn vạn dặm trường.
Nghi lễ cùng theo lễ nhà Chu,
Học vấn cùng theo sách thầy Khổng Tử.
Khéo dùng văn chương khẳng định điều ấy,
Không phải bàn luận chuyện no ấm qua ngày.
Sứ thiều trở về nhớ đến chuyện ở đây,
Biết đâu ông lại chẳng giống như tôi?
Chú thích:
(1) Hộc: dụng cụ đo dung tích thời xưa; Vạn hộc dư: hơn vạn hộc, ý chỉ uống rượu nhiều.
(2) Tiên sà: bè tiên, chỉ công việc đi sứ. Đây ý nói vào tháng tám, công việc đi sứ hoàn tất thì cùng chia tay nhau trở về.
(3) Sông Hàn: theo chữ Hán là Hán giang nhưng đọc theo âm Hàn là Han-Kang, nghĩa là sông lớn, sông cái. Các học giả Hàn Quốc chấp thuận theo cách dịch là sông Hàn chứ không có nghĩa là sông Hán, chỉ Trung Quốc.
(4) Cửu trù: tức Hồng phạm cửu trù (chín phép cai trị thiên hạ). Tục truyền sau khi nhà Chu diệt xong nhà Thương đã phong vương cho Cơ Tử ở đất cổ Triều Tiên. Cơ Tử là người nắm được Hồng phạm cửu trù và truyền cho Chu Vũ Vương. Ở đây ý nói theo lễ nghi nhà Chu.
(5) Ở đây, Lý Thế Cẩn ví bài thơ xướng họa của Nguyễn Công Hãng gửi cho như những viên ngọc đẹp.
(6) Đồng văn đồng quỹ: tức "xa đồng quỹ, thư đồng văn", xe lăn cùng một khổ trục bánh, sách viết cùng một lối chữ, ý nói hai nước cùng theo một đạo học - đạo Nho.
(9) Lục kinh: 6 bộ sách kinh điển của Nho gia gồm Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc Xuân Thu, nay kinh Nhạc không còn, chỉ còn lại Ngũ kinh. Đây có ý chỉ đạo Nho.
Tài liệu tham khảo
1.Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, H. 1993.
2.Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục. 2004.
3.Từ điển văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết TK XIX), Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4.Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên, Nxb. Giáo dục, 2005.
5.Thơ đi sứ. Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.
6.Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. tập I, II; Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H. 2003.
7.Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971.
8.Nguyễn Công Hãng: Bắc sứ thi tập; VHv.2166; VHc.2160.
9.Tĩnh Hiên tập, tư liệu thư viện quốc gia Seoul Hàn Quốc./.


Tác giả Lý Xuân Chung, là Tiến sĩ ngữ văn, đã từng công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 

SỨ THẦN TRUNG HOA VÀ NGÔI ĐÌNH LÀNG XỨ BẮC

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 4: Sứ thần Trung Hoa và ngôi đình làng Xứ Bắc
Phạm Thùy Vinh


Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Tây (cũ). Ảnh: Internet.
Sứ thần Trung Hoa và ngôi đình làng xứ Bắc

Phạm Thùy Vinh

Xã Quang Thịnh huyện Lạng Giang là xã tận cùng phía Bắc của tỉnh Bắc Giang giáp giới với huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn. Đây là một xã miền núi có nhiều đồi rừng nhưng lại thuận lợi nằm giữa trục đường quốc lộ đi ngược lên xứ Lạng và xuôi về Hà Nội. Xã Quang Thịnh ngày nay được hợp thành bởi hai xã: Vĩ Liệt và Thịnh Liệt thuộc tổng Thịnh Liệt huyện Bảo Lộc phủ Lạng Giang xứ Kinh Bắc xưa. Các sứ thần Đại Việt khi đi sứ sang Trung Quốc và các đoàn sứ bộ Trung Hoa vào Việt Nam đều phải đi qua con đường chạy dài qua địa phận xã Quảng Thịnh. Rất có thể đây là một trong những dịch trạm cho các sứ thần Đại Việt và Trung Hoa trên chặng đường đi sứ.

Trong dịp đi sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại huyện Lạng Giang vào cuối năm 1998 vừa qua, chúng tôi(1) được phân công đi về 9 xã phía Bắc của huyện, trong đó có xã Quang Thịnh. Cứ tưởng là vùng núi xa xôi sẽ chẳng còn tư liệu gì của ông cha để lại, nhưng thật bất ngờ ở đây di sản Hán Nôm còn tương đối phong phú, nhất là văn bia. Hầu hết các bia đá đều được bảo quản trong các di tích như đình, chùa. Trong các cụm di tích ở đây, đáng lưu ý nhất là các ngôi đình. Thật hiếm gặp ở các xã miền núi xa lại giữ được nhiều ngôi đình đến thế. Hiện xã còn 4 ngôi đình, trong đó đáng kể nhất là hai ngôi đình mang kiến trúc thời Lê ở hai thôn Tân Lạc và Thanh Lương. Cả hai ngôi đình này đều đã được dân trong thôn tu tạo lại nhưng vẫn giữ nguyên bộ khung của đình bằng gỗ lim gồm các cột đình, các vì kèo, các câu đầu, các rui mè v.v… Đình thôn Tân Lạc còn có tấm bia đá tạo năm Vĩnh Khánh 2 (1730) - đời nhà Lê ghi lại việc xây dựng đình vào thập niên đầu thế kỷ 18. Đình thôn Thanh Lương thì chỉ còn một số bia Hậu vào đầu thời Nguyễn. Bộ khung đình của thôn Thanh Lương còn khá chắc chắn, gỗ lim để lâu nên nước đen bóng mặc dù đã bị chuyển dịch nhiều lần.

Khi chúng tôi đến đình thôn Thanh Lương, các cụ cao tuổi trong làng có giới thiệu tóm tắt về lịch sử xây dựng định. Có một chi tiết mà các cụ cứ nhắc đi nhắc lại rất đỗi tự hào: Rằng đình làng chúng tôi được xây dựng từ thời Tống do ông Tống Trân khi đi sứ Tàu đã về làng hưng công xây dựng nên; Rằng tên ông ấy còn ghi lại trên cột đình. Lúc đó chúng tôi đã cười vì câu chuyện mang đầy sự tưởng tượng dân gian của các cụ. Làm gì có ngôi đình nào Việt Nam được xây dựng từ thời Tống? Làm gì có một ông Tống Trân của Việt Nam hiện hữu và đi sứ sang Tàu? Câu chuyện Tống Trân – Cúc Hoa chỉ là truyện dân gian mượn của Tàu, kiếm đâu ra một ông sứ thần Tống Trân của Việt Nam lại còn về xây đình cho thôn Thanh Lương nữa thì thật là quá sức tưởng tượng của chúng tôi. Với suy nghĩ như vậy nên quả thật cả hai anh em chúng tôi đều không chú ý đến tình tiết của câu chuyện mà các cụ đã kể. Chúng tôi chỉ lúi húi ghi chép các hoành phi câu đối và in rập văn bia.

Như đã nói ở trên, ngôi đình làng này còn mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê nhưng không còn văn bia của thời đó ghi lại việc xây đình như đình thôn Tân Lạc. Trên các câu đầu hoặc thượng lương của đình cũng không ghi. Tôi có đến đọc một số chữ Hán khắc trên các cây cột đình, đến cây cột mà các cụ chỉ là của ông Tống Trân thì chữ khắc ở trên cao, lại ở góc khuất, nên chỉ đọc được mấy chữ “Bắc quốc… cung tiến nhất chu”, chúng tôi đã tạm giải thích cho các cụ: Chắc là có người Trung Quốc nào đó hoặc ở chỗ khắc hoặc lấy vợ làng này đã công đức một cây cột đình khi làng xây đình, chỉ có vậy thôi. Bởi vì vào các thế kỷ 17, 18 cũng đã có một số người Trung Quốc sang Việt Nam lấy vợ. Họ đã bỏ tiền của ra giúp dân địa phương nơi họ sinh sống trang trải các khoản công dịch hoặc chuộc lại ruộng đất v.v.. Vì thế nên có người nào đó cung tiến một cây cột thì cũng chẳng có gì lạ. Nhưng cách giải thích đó không làm thỏa mãn các cụ, trong bữa cơm chia tay các cụ vẫn băn khoăn. Trên đường đi sang xã khác, chúng tôi đã cùng ông chủ tịch xã và các cụ trở lại ngôi đình thôn Quang Hiển để bắc thang trèo lên đọc và in chữ ở cây cột đó. Khi tôi in dập được những chức khắc trên cây cột xuống, quả thật tôi cũng không tin được vào mắt mình nữa. Đúng là có ông sứ thần Tống Trân, nhưng là sứ Trung Hoa chữ không phải sứ ta như các cụ đã truyền ngôn.

Nguyên văn của dòng chữ này như sau:


Phật Hoa phủ Tống Trân Bắc quốc sứ thần cung tiến nhất chu” nghĩa là: “Tống Trân người phủ Phật Hoa là sứ thần Bắc quốc cung tiến một cây”.

May thay lại có một cây cột đình của đất Việt ghi lại rõ ràng hơn về ông sứ thần này: ÔNg ta là người của phủ Phật Hoa, là sứ thần của Bắc quốc. Đến đây chúng tôi lại thắc mắc: sao lại ghi là “Bắc quốc” mà không ghi tên nước là Đại Minh hay Đại Thanh? Chữ và cách ghi trên cột là do chính vị sứ thần ghi hay do dân địa phương ghi? Chữ khắc khá đẹp theo lối viết chân. Vì sao vị sứ thần này lại công đức cho làng một cây cột đình? Có quan hệ gì thân thiết chăng?

Theo thiển nghĩ của chúng tôi, có lẽ khi dân làng Thanh Lương làm đình thì cũng là lúc vị sứ thần Tống Trân đi ngang qua đây, hoặc là lúc mới vào Đại Việt, hoặc là lúc trở về chính quốc, thấy không khí tưng bừng của làng khi bắt đầu xây dựng đình, nên đã dừng ngựa ghé xem. Hoặc giả đây chính là dịch trạm nơi ông dừng chân nghỉ ngơi rồi biết dân làng đang xây đình, mến cảnh mến người, nên ông đã bỏ tiền mua một cây cột lim để công đức vào đình. Dân làng trọng tình nghĩa của ông nên đã nhận và ghi tính danh quê quán của ông để đời sau chiêm vọng. Thời điềm xây dựng ngôi đình Thanh Lương theo suy luận của chúng tôi là không vượt quá thế kỷ 18 có lẽ chỉ từ đầu thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ này, và sứ thần Tống Trân của Trung Hoa vào Việt Nam cũng chính là ở giai đoạn đó. Xin được sự kiến giải thêm của các học giả và các nhà chuyên môn về trường hợp này, và vì thế lịch sử bang giao của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc lại thêm những chi tiết thú vị chưa từng được biết đến.
Chú thích:
1. Tôi và anh Dương Thái Minh là cán bộ phòng Văn tịch Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr497-501). 
Tác giả Phạm Thùy Vinh, là PGS. TS, hiện công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

THƯ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC GỬI ÔNG PHẠM QUANG NGHỊ

Thư của Nhà văn Nguyên Ngọc gửi Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị 

 

Đây là bức thư của tôi gửi ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, chiều 25-8-2011. 

Định là thư ngỏ, nhưng tôi chưa công bố ngay, mà gửi trước cho vài người bạn qua email để tham khảo ý kiến. 

Không biết qua đường nào, ông Phạm Quang Nghị đã biết được thư này và tối 25-8 đã đến nhà tôi, trong khi tôi đi vắng. Sáng 26-8 ông ấy đã gọi điện thoại cho tôi, nói rằng có thể Đài Phát thanh-Truyền hình Hà Nội “đã non nớt” trong khi phát phóng sự này.

Từ đó đến nay, tôi chưa công bố bức thư này để chờ xem của Đài PT-TH Hà Nội trả lời ra sao về việc làm sai trái của họ. 

Nay đã có trả lời phủi tay và vô liêm sỉ của ông Trần Gia Thái, tôi quyết định đưa bức thư này ra trước công luận.
Nguyên Ngọc

———

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Ngày 25-8-2011

Kính gửi ông Phạm Quang Nghị,
Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hà Nội,

Tôi viết thư này cho ông vì ông là Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam của thành phố Hà Nội, là người lãnh đạo cao nhất của thành phố này, đương nhiên chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của các tổ chức và cơ quan dưới quyền lãnh đạo của ông, không chỉ là tổ chức Đảng mà cả tổ chức và cơ quan chính quyền theo cơ chế ở nước ta hiện nay.

Tối ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, trong chương trình thời sự hằng ngày của mình từ 18 giờ 30 đến 19 giờ, đã cho phát một phóng sự về những cuộc biểu tình và những người biểu tình ở Hà Nội trong thời gian vừa qua, mà chính ông Nguyễn Đức Nhanh, Giám đốc Công an thành phố, đã trịnh trọng tuyên bố trong một cuộc họp báo trước đó là biểu tình yêu nước chống Trung Quốc gây hấn đe dọa nghiêm trọng nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam. Vậy mà đến tối 22 tháng 8, Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội đã quay ngược hoàn toàn, coi các cuộc biểu tình và những người biểu tình ấy là phản động, và trong khi nói như vậy đã đồng thời đưa rõ hình ảnh ba người là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải và tôi.

Thưa ông,

Tôi năm nay đã 80 tuổi. Cho đến nay, trong suốt cuộc đời 80 năm qua của tôi, chưa có ai dám vu khống và xúc phạm tôi nặng nề như Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, một cơ quan đặt dưới dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, đứng đầu là ông. Ở nước ta, như chắc chắn ông biết, gọi một người là phản động cũng tức là kết tội người ấy là một tên phản quốc. Đối với tôi, đây là một sự lăng nhục cực kỳ nghiêm trọng, nhất quyết không thể tha thứ.

Đài này còn sử dụng một thủ đoạn ti tiện mà tôi nghĩ ở tuổi ông hẳn có thể ông cũng từng được biết, vào thời Cải cách ruộng đất và Nhân văn Giai phẩm, dùng những người không được bất cứ ai cử ra nhưng lại được coi là đại biểu của “quần chúng nhân dân” lớn tiếng vu khống và chửi bới chúng tôi trên một phương tiện truyền thông chính thức của Đảng bộ và Chính quyền Hà Nội.

Tôi xin hỏi:

1 – Thành ủy Hà Nội, đứng đầu là ông, có chủ trương và chỉ đạo việc thực hiện chương trình sai pháp luật và cực kỳ vô văn hóa này của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội không?

2 – Nếu không có chủ trương và chỉ đạo đó, mà đây chỉ là hành động “tự phát” của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, thì ai chịu trách nhiệm về việc làm sai trái nghiêm trọng này? Thành ủy Hà Nội sẽ xử lý những người đó như thế nào?

Bởi vì sự xúc phạm của đài Hà Nội là công khai, với toàn dân, với cả nước, cả thế giới, nên bức thư này của tôi là thư ngỏ, và tôi yêu cầu câu trả lời của ông cũng phải công khai.

Tôi và tất cả những người có lương tri yêu cầu và chờ đợi câu trả lời đó.
Trân trọng,
Nguyên Ngọc

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2011

TGĐ ĐÀI PTTH HÀ NỘI TRẢ LỜI THƯ YÊU CẦU CẢI CHÍNH, XIN LỖI

HTV rút kinh nghiệm với phóng viên làm tin về biểu tình

Cập nhật 31/08/2011 07:05:33 PM (GMT+7) 

Đài PT -TH Hà Nội có công văn trả lời các ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Xuân DIện, Nguyễn Quang A… yêu cầu ông Tổng giám đốc Đài xin lỗi, cải chính một số nội dung đã phát sóng trong chương trình thời sự 18h30 ngày 22/8.

Ngày 29/8/2011, Đài PT – TH Hà Nội đã nhận được bức thư đề ngày 26/8/2011 của các ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Xuân DIện, Nguyễn Quang A và các ông bà khác yêu cầu ông Tổng Giám đốc Đài xin lỗi, cải chính một số nội dung đã phát sóng trong chương trình thời sự 18h30 ngày 22/8. 

Hôm nay (31/8),, Đài PT -TH Hà Nội đã có công văn trả lời. Toàn văn như sau:
 

Nguồn: VietNamNet

Công văn này, xin để bạn đọc phán xét

NHỮNG BỨC HỌA CỦA CÁC SỨ THẦN VIỆT NAM

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:

Bài 3: Những bức họa của các sứ thần Việt Nam

Nguyễn Xuân Diện


Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ 79 cuốn Thơ văn của các sứ thần Việt Nam và Trung Quốc (1 cuốn). Đó là các tác phẩm thơ văn được viết bằng chữ Hán trong các chuyến đi sứ của sứ thần Việt Nam sang Trung Hoa trên đoạn đường đi từ Mục Nam Quan đến Yên Kinh. Nội dung ghi lại chặng đường đi sứ, về đất nước, con người, phong tục tập quán và cảnh quan của Trung Quốc, trong đó có những bài thơ miêu tả nỗi niềm xa quê của các sứ thần Việt Nam.

Đáng chú ý là rất nhiều cuốn trong đó có các bức bản đồ, họa đồ, nhiều cuốn có bản đồ họa đồ màu, do các sứ thần Việt Nam tự tay vẽ nên.

MỘT SỐ BỨC HỌA CỦA CÁC SỨ THẦN VIỆT NAM


Hươu nai trong sách Yên Đài yến ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)


Thành quách tỉnh Hồ Bắc (TQ) trong tập thơ Yên Đài Yến Ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)


Đầm Cửu Châu, trong tập thơ Yên Đài Yến Ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)


Bản đồ thành Thiên Tân. Trong cuốn Như Thanh nhật trình 
của Phạm Thận Duật và Nguyễn Thuật (triều Nguyễn)


Này hươu nai nhởn nhơ bên suối
Này bác tiều phu dưới núi mấy người.


Những bản đồ màu. Hình trong sách Như Thanh đồ 
của Bùi Quỹ và Phan Văn Trữ (triều Nguyễn)


Này sông, này núi. Này quách, này thành. Hình trong sách 
Yên Thiều nhật trình của Nguyễn Huy Oánh (triều Lê)


Thành quách Trung Hoa được các sứ thần VN ghi chép rất tỷ mỉ.
Hình trong sách Yên Thiều nhật trình của Nguyễn Huy Oánh (triều Lê).

N.X.D

NGUYỄN TÔNG QUAI: SỨ THẦN - THI SĨ

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 2: Nguyễn Tông Quai: Sứ thần - thi sĩ
Bùi Duy Tân

NGUYỄN TÔNG QUAI (1693-1767) ĐƯỜNG ĐI SỨ - ĐƯỜNG THƠ (NGƯỜI KHAI SÁNG DÒNG CA NÔM SỨ TRÌNH)
Bùi Duy Tân

Trong lịch sử bang giao với các triều đại và sĩ dân phương Bắc, Nguyễn Tông Quai có hai cống hiến đặc sắc. Một là khai sáng dòng ca Nôm sứ trình cùng với tài thơ đi sứ, Nôm và Hán hay bậc nhất thời Lê Trung hưng. Hai là thể hiện tâm chí ái quốc và bản lĩnh văn hóa vô tốn bất dị(1) của sứ thần Đại Việt trên đất nước Đại Thanh.
Nguyễn Tông Quai(2) hiệu là Thư Hiên quê gốc ở làng Sâm, nay thuộc xã Hiệp Hòa, huyện Hưng Hà, Thái Bình. Lúc nhỏ, theo cha mẹ lên sống ở Thăng Long, từng là Giám sinh trường Giám và theo học Thám hoa Đình nguyên Vũ Thạnh. Đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Dần (1721) thời Lê Dụ Tông, Nguyễn Tông Quai được bổ dụng ngay vào những hoạt động bang giao. Năm 1734, ông đón sứ Thanh sang sắc phong. Năm 1742, là Phó sứ cùng Chánh sứ Nguyễn Kiều sang sứ Thanh, chuyến đi này kéo dài đến 3 năm. Năm 1747 ông lại được cử làm Chánh sứ sang Thanh. Sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tông Quai tương đối dài và lắm gian truân. Trên 30 năm làm quan, trải 5 đời vua, 3 đời chúa, ông từng bị biếm trích, có lần bị cách tuột mọi chức vụ, giáng làm thứ dân. Đương thời, Nguyễn Tông Quai nổi tiếng là nhà khoa bảng có tiết tháo, tâm huyết, không a phụ bọn quyền gian. Nguyễn Án nhận xét: “Tính ông ngay thẳng mà ghét sự tà khúc, không chịu kiêng tránh gì cả” (Tang thương ngẫu lục). Hồ Sĩ Đống tôn vinh: “Tiên sinh giữ đạo chính, ghét kẻ tà, tuy bị kẻ hằn thù vu cáo mà bị tội, song lúc tiên sinh trở về vườn thì danh vọng lại càng trong” (Tựa Sứ hoa tùng vịnh). Học trò ông như Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Thục... đều là danh sĩ của quốc gia.
Sinh thời, Nguyễn Tông Quai viết tương đối nhiều. Ngoài thơ Nôm giáo huấn (Ngũ luân tự) và thơ vịnh sử (Vịnh sử thi quyển), thì hai tác phẩm đi sứ bằng Nôm: Sứ trình tân truyện và Hán: Sứ hoa tùng vịnh hiện còn, đều rất sáng giá.
SỨ TRÌNH TÂN TRUYỆN GIAI TÁC BÚT KÍ NÔM ĐI SỨ
Sứ trình tân truyện có nghĩa là: “truyện mới về lộ trình đi sứ”. Tác phẩm có tính chất ký sự này gồm 670 câu thơ Nôm lục bát, thuật lại cuộc hành đi sứ lần thứ nhất 1742-1745, ghi lại tâm tư, cảm xúc, ngâm vịnh về danh lam thắng tích, sơn kỳ thủy tú của sứ giả nhà thơ trên dặm dài từ Thăng Long đến Yên Kinh. Giữa mạch lục bát, xen vào 8 bài thơ Nôm Đường luật, được nhiều học giả xưa và nay coi là một chùm thơ đẹp. Bài Tiêu Tương xuân vãn (chiều xuân trên sông Tiêu Tương) chẳng hạn, sớm hơn thơ Bà Huyện Thanh Quan hàng trăm năm về trước, mà thơ đã rất trau chuốt, điển nhã:
“Chín mươi xuân sắc hãy còn dư,
Cây rợp ngăn sương bóng phất phơ.
Sóng rợn duyềnh xanh sông muộn gió,
Mây êm thức biếc núi cùng mưa.
Giăng văng mặt nước vài con én,
Đủng đỉnh bên sông mấy chiếc ngư.
Tài khách ghẹo thêm con mắt khách,
Chuông chiều văng vẳng khói thưa thưa”.
Sứ trình tân truyện mở đầu:
“Cảnh Hưng rồng dậy thứ ba,
Tháng thu ngày tám sứ Hoa khởi trình.
Tiễn đưa tiệc mở giang đình,
Nam nhi phơi phới nhẹ mình bước ra.
Ngang thuyền qua bến Nhĩ Hà
Tạm dừng vó ký đây là Điêu Diêu...”
Đoạn thơ ghi rõ: Cuối tháng chín(3) năm Nhâm Tuất (1742) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba đời Lê Hiển Tông (1740-1748), sau yến tiệc tiễn đưa ở đế đô Thăng Long, đã khởi trình ngang đò qua Nhị Hà (sông Hồng), rồi tạm nghỉ ở Điêu Diêu (Gia Lâm).
Đường đi từ Thăng Long đến biên giới tuy chẳng bao xa, vẫn phải đến cuối đông năm ấy, sứ bộ mới qua cửa Nam Quan, sang địa phận Đại Thanh:
“Dịch mai xảy thấy tin truyền,
Cuối đông mồng bảy sứ liền quá quan.
Tiếng người tiếng súng dậy ran,
Kẻ về Kinh quốc, kẻ sang Yên đài...”
Mùa xuân năm Quý Hợi (1743) tới trạm Vĩnh Thuần, gặp tết Nguyên tiêu tưng bừng đêm hội:
“Doành xanh hây hẩy gió đưa,
Giục hoa, xuân lại tưới mưa đói ngàn.
Vĩnh Thuần chợt mới hỏi hàn,
Nguyên tiêu thoắt đã bãi tràn ba châu.
Kìa ai thương nguyệt đêm thâu,
Tiếng ca dậy đất đèn lầu giãi sao...”
Mấy tháng đường dài, trải qua nhiều vùng miền, vừa đi vừa thăm thú, ngâm vịnh danh địa thắng tích, đại xuyên Hàng Châu, Quế Lâm, thành Cô Tô, đá Phi Lai, lầu Nhạc Dương, sông Xích Bích, Hoàng Hạc lâu:
“Ông tiên cưỡi hạc bao giờ,
Lầu còn chần chẫn đứng chờ bến sông.
Một thơ Thôi Hiệu ngoan nồng,
Làm cho gác bút mếch lòng thơ tiên...”
Dời Hoàng Hạc lâu, qua sông Giang Hán “đã dài muôn dặm, lại ngang ngàn tầm”, sang hè đoàn tới Giang Tây:
“Cửu Giang là cõi Giang Tây,
Sông chia chín ngách, non xây ngàn tầng.
Tỳ bà đình ấy đón trăng,
Đợi chàng họ Bạch(4)có chăng mới đàn...”
Đông qua, xuân đến, đầu năm Giáp Tý (1744), sứ bộ qua thành cổ Tề Tấn:
“Thành xưa dấu cũ khách chơi,
Nền nhà Tề, Tấn là nơi đi về.
Mảng vui cảnh vật sơn khê,
Gió xuân thổi lọt rèm the bao giờ...”
Thu đông năm ấy (1744) đoàn mới qua Hoàng Hà, rồi tới Yên Kinh:
“Tiếng thu xào xạc trên xanh,
Một đền ấy tỏ ba canh chưa nằm...
Tứ bề sương khói oi oi,
Tiếng ai thông đạt là nơi kinh kỳ...”
Đoàn được đón tiếp tử tế, tiệc yến linh đình giữa đế đô vàng son lộng lẫy:
“Thái Hòa vòi vọi ngôi Càn,
Chín lần chúa thánh, trăm quan tôi hiền.
Vẳng tai ba tiếng minh tiên,
Hương trời ngào ngạt, nhạc tiên rùng rình...”
Sứ giả vào chầu, bái yết thiên tử hoàng đế, được “tứ tọa, tứ trà”, thu nạp cống phẩm... Sang đầu năm Ất Sửu (1745)(5), đoàn mới hoàn thành sứ mệnh ra về: “Chỉ nam xe ruổi rình rình, ngựa qua đường cũ trỏ nghềnh Trương gia”. Đến đây, tác giả dừng bút và có lời kết, khép lại một thiên bút ký bang giao trong trẻo, trang nhã, đầy đặn một bản lĩnh văn hóa, một cảm hứng thi ca. Sứ trình tân truyện thế là chỉ thuật lại những điều tai nghe mắt thấy trên lộ trình đi sứ từ Thăng Long Đại Việt đến Yên Kinh Đại Thanh.
Sứ trình tân truyện là tập bút ký lục bát Nôm sớm nhất về đề tài đi sứ. Trước tác phẩm này, sử sách có ghi Đỗ Cận thế kỷ XV có Kim Lăng ký bằng Nôm, Hoàng Sĩ Khải thế kỷ XVI có Sứ Bắc quốc ngữ thi tập, song cả hai đều mất. Thể thơ lục bát cũng đã được dùng nhiều từ đầu thế kỷ XVI, trong đó có những bài hay như Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ, nhưng chưa hề có lục bát Nôm viết về đề tài đi sứ. Nguyễn Tông Quai là nhà thơ đầu tiên dùng lục bát Nôm viết về đề tài đi sứ. Hơn nữa đề tài mới được thực hiện ở một thể loại cũng là mới(6): thể ký bằng thơ quốc âm, tuy rằng tên tác phẩm là tân truyện. Đây rõ ràng là tập bút ký bằng thơ Nôm, ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy trên lộ trình muôn dặm từ Thăng Long đến Yên Kinh. Tuy nhiên, đề tài và thể loại mới mẻ này, chỉ được khẳng định khi Sứ trình tân truyện thực sự là một thể nghiệm thành công. Toàn bộ tác phẩm, như đã được nhiều học giả nhận xét, là một áng thơ rất đẹp, tứ thơ văn nhã, tài hoa, âm điệu hài hòa, réo rắt, hành văn lưu loát, trôi chảy, tiếp lời liền mạch. Những đoạn thơ thế này:
- “Non xanh nước biếc mây lồng,
Tam Thanh một động gồm cùng hòa ba.
Ngọc đông nên cảnh chiền già,
Hương lừng mùi quế bóng lòa màu đan.
Bồ lao om núi kêu ran,
Sơ sương một tiếng rã tan mọi niềm.
Kỳ Lừa cây rợp bóng êm,
Cửa the nhà gấm vây thêm tứ bề...”
- “Sụt sùi bóng ngả tịch dương,
Bên trời cái nhạn pha sương bay về,
Thớt thưa bến liễu hàng hòe,
Vàng đeo dẫy lá, bạc khoe đầy cành.
Tiếng thu xào xạc trên xanh,
Một đèn hãy tỏ ba canh chưa nằm...”
Câu thơ lục bát, so với lục bát ở diễn ca lịch sử, và vãn ca trước đó, đã nhuần nhị uyển chuyển, tươi mát biết bao! Lời thơ trau chuốt, trong sáng, đánh dấu bước phát triển mới về ngữ ngôn văn học, so với thơ Nôm Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Gần 700 câu thơ tiếng Việt, đẹp đẽ, đều tay, giàu hình ảnh, nhiều màu sắc như thế, đã chứng tỏ tiếng Việt văn học đang tự khẳng định khả năng giàu đẹp của nó.
Trong tập truyện ký, còn có 8 bài thơ Nôm Đường luật, bài nào cũng mới lạ, hay và đẹp lạ thường. Xin chỉ dẫn thêm một bài: Tuyết thiên nhàn vọng (Ngắm cảnh trời tuyết):
“Bát ngát giang sơn thuở ác tà,
Trên không phơi phới tuyết rây hoa.
Đầu non phấn điểm in màu bạc.
Mặt nước mai trang phẳng dợn là.
Cảnh vật phau phau trăng lẩn bóng,
Lâu đài lôm lốp ngọc giồi da.
Kìa ai dạm được chiều thanh ấy,
Dắng dõi Dương xuân Bạch tuyết ca.”
Không cổ kính như Nguyễn Trãi, bình dị như Nguyễn Bỉnh Khiêm; đẹp một cách điển nhã, trang trọng, tinh tế, phảng phất như có gì gần thơ Bà huyện Thanh Quan sau này.
Sứ trình tân truyện còn là một thành công của sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong thể thơ lục bát. Đây là một khả năng mà sau này, với truyện Nôm bác học: Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều... sẽ có những thành tựu nghệ thuật sáng giá.
Ở đây, Nguyễn Tông Quai không chỉ ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ bằng một lối thơ giàu khả năng tự sự, mà ông còn ký ngụ vào đó cả tâm tư cảm xúc của mình, làm cho cảnh vật và tính người chứa chở, sống động, quyện hòa vào nhau, thể hiện cá tính sáng tạo của một tài thơ trác việt. Chẳng hạn đoạn viết về sứ bộ bước sang đất khách, câu thơ chỉ còn là tâm trạng của sứ giả:
“Đã hay mến cảnh nhớ người,
Quân thân hai chữ một vai đã quằn.
Tôi người đâu ngại nhọc nhằn,
Song nghì cố quốc khôn ngăn được lòng”.
Tâm trạng ấy thành điểm nhấn cho bài thơ Nôm Đường luật tiếp ngay sau:
“Hai chữ quân thân gánh nặng quằn,
Song nghì cố quốc dạ khôn ngăn.
Dời chân ải Bắc đường muôn dặm,
Ngoảnh mặt trời Nam cửa chính lần...”
Phần cuối tác phẩm, cũng có những vần thơ tỏa rạng niềm vui của sứ giả khi hoàn thành trọng trách:
“Ơn trên muôn một lo đền,
Đã đành việc nước lại quên việc nhà,
Ai rằng muôn dặm thì xa,
Niềm đan một tấm xem là tấc gang”.
Niềm đan ái quốc, trung quân, thực chất của chí nam nhi ấy là sức mạnh, vượt qua mọi gian nan, cốt đem lại quan hệ hòa hiếu Bắc Nam:
“Mấy phen trải gió tắm mưa,
Cát cừu thay đổi kể vừa ba xuân.
Tôi người đã quản nhọc nhằn,
Miễn binh được rỗi, miễn dân được bình.
Hoàng hoa xong việc lữ đình,
Tay đeo hay chữ bình ninh về chầu...”
Sứ trình tân truyện mới được phát hiện cách nay vài thập kỷ. Nhưng chỉ với nó - một giai tác - Nguyễn Tông Quai xứng đáng có vị trí cao trong lịch sử văn học dân tộc.
SỨ HOA TÙNG VỊNH DANH THI VÔ TỐN BẤT DỊ TRUNG HOA
Trước khi tôi và Kiều Thu Hoạch phát hiện ra giai tác Sứ trình tân truyện, khoảng thập kỷ 70 thế kỷ trước, người đời, kể cả nhà thư mục học nổi tiếng Trần Văn Giáp chỉ biết ở mảng thơ đi sứ, Nguyễn Tông Quai chỉ có mỗi tập thơ chữ Hán là Sứ hoa tùng vịnh.
Khảo sát văn bản Sứ hoa tùng vịnh, một văn bản quá phức tạp với hơn 30 dị bản, thấy dưới cái tên Sứ hoa tùng vịnh chung với thơ Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai viết hơn 200 bài thơ trên sứ trình vạn dặm từ Thăng Long đến Yên Kinh, qua nhiều nẻo lượt đi về. Ngoài 6 bài Tựa, Bình ở đầu tiền, hậu tập, phần cuối của thi phẩm là ngót trăm bài thơ xướng họa tặng đáp với nhân sĩ Trung Quốc với sứ thần Triều Tiên. Kể ra, trong gần vạn bài thơ của hàng trăm nhà thơ sứ trình, không thiếu những tài hoa thượng thặng. Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Phạm Đình Hổ thường đánh giá cao thơ đi sứ của Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, coi nó là “hào mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lăng, hay không kém gì đời Thịnh Đường” (Phan Huy Chú); “trình bày công việc vừa lịch duyệt, vừa vui tươi, có phần làm mạnh được quốc thể” (Lê Quý Đôn). Đến Lê Trung hưng, cũng có nhiều tập thơ đi sứ nổi tiếng của Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Sĩ Đống, Lê Quý Đôn. Nhưng không tập thơ nào có được vinh dự cao tột trong sự khẳng định tài hoa cho bằng Sứ hoa tùng vịnh. Dẫn những lời khen nhủ chưa từng có, về cái hay của tập thơ trong những lời tựa, bình của danh sĩ nước ngoài, sợ có người còn băn khoăn về phương diện “giao tế, thù tạc”? Thì đây, những nhận xét chắc phải khách quan, vô tư của chính danh sĩ nước ta. Nếu Phan Huy Chú coi tập thơ là “điêu luyện, mới mẻ đáng ưa” thì Nguyễn Án khẳng định “đến nay trải hơn năm mươi năm, người trong nước vẫn đều truyền tụng” Sứ hoa tùng vịnh. Ngô Thì Sĩ là một nhà thơ, một nhà sử học lớn, phải hạ bút: “Sứ hoa tùng vịnh lừng tiếng là thơ hay khắp cõi”. Hồ Sĩ Đống, sứ giả - nhà thơ nổi tiếng một thời, buồn vì không được thụ giáo tiên sinh (tức Nguyễn Tông Quai), khi được đọc thơ ông thì mừng, xem đó “cũng là mối nhân duyên gặp gỡ”. Khen lao như thế, thì những tài ba kiệt hiệt trong làng thơ đi sứ như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Huy Oánh, Hồ Sĩ Đống, Lê Quý Đôn.... cũng không có được. Xin dẫn ra đây, dù chỉ trong muôn một, bài Thái Thạch hoài Thanh Liên (đến ghềnh Thái Thạch, nhớ Thanh Liên Lý Bạch):
Phiên âm:
“Bích thủy, thanh sơn, nhất diệp thuyền,
Càn khôn ký ngạo tứ phiêu nhiên.
Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt,
Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên,
Tẩu mã trần phao kim điện khách,
Kỵ kình lữ túy bích cung tiên.
Cao phong cảnh ngưỡng sơn đình cổ,
Nhật mộ giang vân tỏa thúy yên”.
Dịch thơ:
Con thuyền lơ lửng, nước non xanh,
Gửi giữa càn khôn một mảnh tình.
Uống cạn sông trăng ngàn lớp sóng,
Ngâm động tinh hà suốt năm canh.
Bụi mờ kinh khuyết buông cương ngựa,
Bạn với tiên cô sẵn cá kình.
Nhớ tới người xưa đình cổ đó,
Chiều về, mây phủ khói sông quanh.
Theo nguyên chú, tục truyền Lý Bạch đi thuyền, chơi trăng ở ghềnh Thái Thạch khúc sông Trường Giang, đất Giang Nam. Ông mặc áo cẩm bào, uống rượu ca vang lúc say, nhảy ôm mặt trăng ở dưới sông. Nay còn đền thờ và “Đình bắt trăng” ở trên núi. Lại có thuyết nói: lúc Lý Bạch đang say rượu ngắm trăng thì có tiên đến đón về trời, Lý bèn cưỡi trên lưng cá kình mà thăng thiên. Bài thơ gắn với một huyền thoại diệu kỳ, lại có hai câu được xem là thần cú:
“Ẩm tàn giang quốc thiên ba nguyệt,
Ngâm động tinh hà ngũ dạ thiên”.
Dịch thành Đường luật:
Uống cạn sông trăng ngàn lớp sóng,
Ngâm động tinh hà suốt năm canh.
Thơ Sứ hoa tùng vịnh thường thanh cao, diễm lệ, hài hòa, giữa thơ và họa, cân đối giữa tình và ý, rất điêu luyện về mặt dùng chữ đặt lời, về cách phối hợp các hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh... Nguyễn Tông Quai qua tài làm thơ, xứng đáng có vị trí cao trong nẻo thơ đi sứ.
Điều đáng nói ở đây là: chính tài thơ trác việt, cùng với học vấn uyên bác và nhất là phẩm hạnh một sĩ quân tử phong lưu, nho nhã đã đem lại cho Nguyễn Tông Quai những cuộc tiếp xúc văn hóa rất kỳ thú giữa nhà thơ và nhân sĩ Trung Quốc, Triều Tiên trên đất nước Trung Hoa. Trong tập thơ của ông, không ít bài là những giai tác xướng họa tặng đáp lịch lãm thân tình, vượt ra ngoài khuôn sáo của từ chương giao tế, nếu viết thì bài này khó tránh khỏi dài dài. Chỉ xin trích dẫn ra đây một số lời nhận xét, bình luận.
Năm 1743, viết Tựa cho tập thơ, Trương Hán Chiêu, một nhân sĩ Trung Quốc thuật lại: “Mùa hạ năm Quý Hợi (1743) tôi qua nhà người bạn là Cao Uẩn Sơn được gặp sứ quân An Nam là Nguyễn Thư Hiên... Ở trong thuyền, cùng nhau đàm luận về thi ca. Sứ quân nhân hứng đưa ra một tập thơ Sứ hoa tùng vịnh nhờ tôi đề tựa, tôi nhận lời và viết...”. Trương Tiên sinh đánh giá khí chất của Thư Hiên: “Là người nho nhã, phong lưu, mũ cao, đai rộng, nghe ông ta nói lưu loát không cần phiên dịch, thân mật thấy đó là con người hòa nhã dễ gần. Thử hỏi về học vấn thì Bách gia Chư tử không chỗ nào không thông, ông là một học sĩ am tường thư tịch, sự tích, đặc biệt giỏi về thơ ca. Những lúc công vụ rảnh rỗi, ông thường thích thú ngâm nga, ngày làm không biết bao bài thơ...”. Trương Tiên sinh dành riêng cho chất thơ trong thi tập những nhận xét: “Thanh vận, cách luật trong thơ đều học ở Đường thi... Nguồn tình thơ nhàn nhã, âm vận thơ cao nhã, độc đáo... đề cập tới những di tích nhân vật ngàn xưa đều không cần tra hỏi, cảm hứng cứ theo ngọn bút tuôn ra, đủ thấy rõ sự học uyên thâm của sứ quân vậy”.
Âu Dương Vương, một nhân sĩ Trung Quốc hết lời khen Sứ hoa tùng vịnh: “Tả cảnh thì công phu diệu tuyệt như họa, tả tình thì chân thật, sâu kín... Thơ của Thư Hiên cao nhã, phóng khoáng như thơ Thái Bạch (Lý Bạch). Vương Văn Tường (nhân sĩ Trung Quốc) trong lời bình cho rằng: “Tài văn chương và đức hạnh đều siêu trác”.
Trong cả hai lần đi sứ, Nguyễn Tông Quai tiếp tục truyền thống hòa nghị Đại Việt - Triều Tiên từ Mạc Đĩnh Chi - Phùng Khắc Khoan, đã có những cuộc tao ngộ sứ giả - nhà thơ với sứ Triều Tiên: Lý Hiệu Lý, Mộ Tự Gia. Trong Sứ hoa tùng vịnh có đến 5 bài thơ xướng họa với sứ thần Triều Tiên. Xin trích dẫn đôi câu để thấy tinh thần đồng văn dị quốc thấm đậm vào các lời thơ:
Phiên âm:
“Quân tự tê Nam, ngã hải Đông,
Tương khan mạch mạch điểm tê thông.
Tuy kim ngôn ngữ chư phương dị,
Tòng cổ y quan lưỡng địa đồng...”
Dịch thơ:
“Ông ở núi Nam, tôi biển Đông,
Xa nhau địa mạch vẫn tương thông.
Nói năng hai nước tuy có khác,
Áo mũ đôi nơi một chữ đồng...”
Đặc biệt, với Lời tựa của Lý Bân Thốn, tài thơ của Nguyễn Tông Quai thực sự là siêu đẳng: “Từ mùa thu năm Quý Hợi (1743), tôi chơi ở Kim Lăng, ngụ tại nhà Cao Tử, được gặp gỡ với sứ quân, cùng nhau thù xướng, mới được xem Sứ hoa tùng vịnh - tiền tập. Những nơi danh thắng ông đã đi qua, đều ngâm nga xướng vịnh, vung tay một cái thơ đã đầy trang, ý tứ phóng khoáng, thơ làm lanh như thế mà không sai luật. Có bài đôn đốc lòng trung tín như Lạng Sơn ngẫu tác, Ngọ môn đãi tửu”. Có bài phát triển niềm tự hiểu như Chu thứ vệ thủy. Có bài bàn luận cổ sự mà nói lên tình cảm của mình, cảm xúc trước cảnh vật mà gửi gắm ý tứ vào thơ...”. Lời tựa còn viết tiếp: “Mùa thu năm Giáp Tý (1744) sứ quân trở về Kim Lăng, đưa Sứ hoa tùng vịnh - hậu tập, nhờ tôi viết bài tựa cho. Tôi đọc đến hết, thấy khí thế trong đó bàng bạc mênh mông như núi sập, đá tan, mưa gió sầm sập, sông suối vỡ bờ, nếu không dầy công tích khí sao có thể được như vậy?...”. Thơ của tiên sinh cách luật nghiêm chỉnh, âm điệu cao siêu, nắn nót từng câu, từng chữ, thảy đều theo đúng khuôn phép Thịnh Đường. Dẫu Trung Hoa có tiếng hay thơ cũng không hơn thế được”.
Trong lịch sử văn học bang giao, sau tập Vạn thọ thánh tiết nổi tiếng thi quy điển nhã của Phùng Khắc Khoan thế kỷ XVI, Sứ hoa tùng vịnh xứng đáng là danh tác tiếp theo, cũng chính là dựa vào tài thơ của sứ giả.
Như vậy là, với Sứ hoa tùng vịnh, Nguyễn Tông Quai không những thể hiện trọng trách sứ sự, lòng yêu nước thương nhà, cảm hứng nhân ái và niềm tự hào dân tộc... mà còn biểu dương thắng lợi nền văn hóa vô tốn bất dị của tri thức Đại Việt.
Cần phải thấy rằng trong hàng ngàn năm phong kiến, các đế chế và sĩ phu Trung Hoa thường coi ta là ngoại phiên, di địch, có cái nhìn rất kỳ thị dân tộc ta. Ông cha ta trong những dịp bang giao sứ sự, đã chứng minh một cách hùng hồn rằng Việt Nam có một nền văn hóa riêng - Nền văn hóa ấy tuy có tiếp thu văn hóa Hán Đường, như Triều Tiên, nhưng không kém gì văn hóa Hán Đường ngay ở trên đất Trung Hoa - Thơ ca cũng vậy. Do hạn chế, bế tỏa của một vùng văn hóa đồng văn, ông cha ta chưa có thể hình dung ra một nền văn hóa nào cao hơn và khác hơn văn hóa Trung Hoa. Lại do sự nghiệt ngã trong quan hệ bang giao, sứ thần ta không dễ gì biểu dương nền văn hóa văn học chân chính phong phú về cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc và nhân ái thương người, hình thành từ nền văn hóa văn học dân gian giầu bản sắc, tâm hồn dân tộc và từ sự tiếp biến văn hóa văn học nước ngoài. Nhưng điều chủ yếu là ông cha ta đã có ý thức về tính độc lập, về lòng tự hào đối với trình độ văn hóa của một đất nước có nền văn hiến lâu đời. Với sứ giả - nhà thơ - từ chương hoa quốc có ý nghĩa bang giao thiết dụng là như thế.
Nguyễn Tông Quai với tư cách một sứ thần không những đã hai lần hoàn thành trọng trách của một nho thần trung tâm ái quốc, mà còn để lại hai giai tác Sứ trình tân truyệnSứ hoa tùng vịnh, tiêu biểu cho thơ văn bang giao thời Lê Trung hưng. Đường đi sứ là Đường thơ. Ông xứng đáng là danh nhân văn hóa của cố đô Thăng Long trước hết là với thành tựu sứ giả - nhà thơ ấy.
Chú thích:
(1) Có sách đọc là Khuê 奎?. Chúng tôi đọc là Quai 乖theo bia Tiến sĩ ở Văn miếu và một số tập sử truyện.
(2) Vô tốn bất dị: không kém không khác so với văn hóa Trung Hoa.
(3) Dựa vào sử sách và nguyên chú có thể biết sứ bộ lên đường vào ngày 28/9 năm Nhâm Tuất.
(4) Bạch Cư Dị nhận chức Tư mã Giang Tây.
(5) Lời thơ ghi lầm là năm Giáp Tí (Bước sang Giáp Tí đầu xuân). Nay dựa vào lời thơ: “Cát cừu thay đổi kể vừa ba xuân”, cái mốc thời gian trong tác phẩm và ghi chép của một số sử sách, sửa lại cho đúng. Sứ đoàn này đi sứ trải qua 3 mùa xuân: Quý Hợi (1743), Giáp Tí (1744) và Ất Sửu (1745).
(6) Sau này, với Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) ta lại có lục bát về về đề tài đi sứ, nhưng là lục bát chữ Hán, ở tác phẩm Phụng sứ Yên đài tổng ca./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007; Tr. 3-10).
nh: Trang đầu cuốn Sứ Hoa tùng vịnh.
*Tác giả: Giáo sư Bùi Duy Tân (20.10.1932 - 31.10.2009), Giáo sư cổ văn, ĐH Tổng hợp HN.