Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

THÁP CỬU PHẦM LIÊN HOA VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Chùm bài về Mỹ thuật cổ:
Bài 2: Tháp Cửu phẩm liên hoa và tư tưởng Phật giáo VN 
Trang Thanh Hiền


Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện,


Bài viết dưới đây trích trong cuốn sách Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam của Trang Thanh Hiền (vợ tôi) là một công trình nghiên cứu hẹp về một phần trong nghệ thuật Phật giáo, thông qua ba cây tháp Cửu Phẩm Liên hoa ở chùa Bút Tháp, chùa Giám và chùa Động Ngọ.

Cuốn sách này được in 500 bản tại Nxb Thế giới, Hà Nội, năm 2007, bởi kinh phí tài trợ của Quỹ Thụy Điển - Việt Nam Phát triển văn hóa. Năm sau, cuốn sách này được trao Giải Đồng Sách Đẹp và Giải Đồng Sách Hay của ngành xuất bản toàn quốc.

Khi Hội chợ Sách quốc tế được tổ chức tại Thái Lan. Các nước đều dâng sách vào Hoàng cung của Đức Vua Thái Lan. Việt Nam chọn dâng vào Thư viện Hoàng cung Thái Lan 2 cuốn: Non nước Việt NamCửu Phẩm Liên hoa trong kiến trúc cổ VN. Hai cuốn sách được bọc lụa vàng và để trên khay vàng trao tận tay công chúa Thái Lan Maha Chakri Sirindhorn.

Cuốn sách này đã được một công ty tái bản 1000 bản (2010) và hiện đang được dịch toàn văn sang Tiếng Anh (do một chuyên gia Anh ngữ về Phật giáo đảm nhận).

THÁP CỬU PHẨM LIÊN HOA VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trang Thanh Hiền

Chúng ta biết rằng hình tượng Cửu Phẩm Liên Hoa trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam, chính là sự phát triển ở mức độ đỉnh cao của tín ngưỡng Tịnh Độ tông. Tuy nhiên tư tưởng này không chỉ đến thế kỷ XVII mới khởi phát khi loại hình kiến trúc này trở nên thịnh hành. Nó là một quá trình vận động phát triển lâu dài. Khi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa hình thành, các giá trị Tịnh Độ này chỉ chiếm vai trò chủ đạo chứ không phải vị trí độc tôn. Bởi lẽ lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam không phải lúc nào cũng thuần nhất một tông phái. Đặc biệt ở thế kỷ XVll, các tư tưởng Thiền - Tịnh - Mật đã luôn song hành. Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa là biểu hiện đầy đủ của các dòng tư tưởng này.

Thời Lý, tín ngưỡng Tịnh Độ tông đã rất phát triển với sự xuất hiện phổ biến thức tượng Adiđà. Ba pho tượng Phật Adiđà thời Lý bằng đá còn lại hiện nay, là tượng chùa Phật Tích, chùa Một Mái (Hà Tây) và tượng Chùa Ngô Xá (Chương Sơn, Nam Định). Trong ba pho này thì pho chùa Phật Tích là pho tượng đẹp nhất, tuy có nhiều người cho rằng, đây không phải là tượng Adiđà. Nhưng pho tượng chùa Một Mái thì chắc chắn theo sự xác nhận của dòng chữ khác trên bệ tượng. Những dòng chữ này ghi chép như sau: Luật sư ở núi Thạch Thất, pháp hiệu là Trì Bát, nhân tưởng niệm Phật Adiđà ở thế giới Tây phương Cực lạc nên đã phổ khuyến đạo tục dựng một đạo tràng lớn, muốn tạo tượng mà chưa thể được mãi đến năm Hội Phong thứ 8 (1099), ông mới làm được tượng Adiđà ở đây. Sư Trì Bát được khắc tên trên bệ tượng chùa Một Mái chính là nhà sư thuộc thế hệ thứ 12 của phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi - là học trò của thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân (Chùa Dâu, Hà Bắc). Điểu này cho thấy Tịnh Độ Tông có mặt trong cả phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.

Thời Lý, Thiền phái Vô Ngôn Thông cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó như Thiền Uyển Tập Anh cho biết: sư Tĩnh Lực (1112- 1175) thuộc thế hệ thứ 10 của Vô Ngôn Thông đã chủ chương niệm Phật cả tâm lẫn miệng, nghĩa là có sự phối hợp giữa Thiền với Tịnh.

Tín ngưỡng Adiđà và Tịnh Độ tông còn được nhắc đến trên bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Đọi (Hà Nam). Văn bia tháp này có nhắc đến tượng Adiđà đặt trong hội đèn Quảng Chiếu trước cửa Đoan Môn. ở đó có đoạn cầu chúc cho Hoàng hậu Linh Nhâm “siêu linh Tịnh Độ” ở văn bia chùa Viên Quang (dựng năm 1122, do Giác Hải trụ trì) chép đặt Di Đà Giáo Chủ (Adiđà) một bên là hình Trụ Thế Thượng Nhân (Bồ đề Đạt Ma).

Cùng với tín ngưỡng Adiđà tín ngưỡng thờ Quan âm - vị Bồ Tát dẫn dắt chúng sinh về cõi Tây phương Cực lạc, cũng được thờ cúng rất phổ biến ở thời Lý Điển hình là việc xây dựng chùa Diên Hựu năm 1049 - một trong những mô hình chùa dạng hoa sen sớm nhất ở Việt Nam. Cho dù tín ngưỡng thờ Quan âm có thể tách rời việc thờ Adiđà, nhưng việc thờ hai vị Phật, Bồ Tát này cho thấy Tịnh Độ được biết đến khá phổ biến trong giai đoạn này. Và chúng ta có thể thêm một lần nữa xác minh tính chất hòa nhập của những giáo lý Tịnh Độ này với các Thiền phái rất thịnh hành thời bấy giờ.

Một chi tiết khác cũng góp phần vào giả thuyết này là việc in, chép kinh Đại Tạng để phổ biến được diễn ra liên tục trong thời Lý khoảng những năm 1023, 1027, 1036, có sự sao chép, nhân bản phẩm 25 kinh Pháp Hoa: Quan Thế Âm Bồ Tát (phẩm Phổ Môn). Phẩm này ca ngợi công đức của Bồ Tát Quan Thế âm, người có những pháp lực vô biên, có khả năng nghe thấu những tiếng kêu than của chúng sinh mà kịp thời đến cứu vớt. Hình thức viện cầu đến người chỉ là lòng thành tâm mà niệm danh hiệu là ứng nghiệm.

Sang đến thời Trần, trước khi Thiền phái Trúc Lâm do Điểu Ngự Trượng Phu Trần Nhân Tông sáng lập ra vào năm 1299 thì đã có Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ là những người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của môn phái này. Theo sự giải thích của Trần Thái Tông, vấn đề niệm Phật được nêu ra như sau: Khi niệm Phật, thì thân ngồi thẳng không làm việc tà, nên thoát khỏi thân nghiệp. Miệng tụng kinh thì không nói điều xằng bậy tránh được khẩu nghiệp. ý chăm chú vào tinh tiến thì không sinh tà ý nên tránh được ý nghiệp. Đây là cách giải thích về Tam nghiệp mà không cần viện dẫn đến những lý luận cao siêu. Nhưng điều quan trọng trong tư tưởng của ông là ông chia người tu đạo làm ba hạng: Thượng trí giả tôm tức thị Phớt, bốt giả tu thiêm. Niệm tức thị trần, bất dung nhất điểm. Trần niệm bán tịnh, cố viết như bất động. Phật thân thân tức ngã thân thị, vô hữu nhị tướng; tướng tướng vô nhị, tịch nhiên thường tồn; tồn nhi bất tri, thị vị họat Phật. Trung trí giả, tất tá niệm phật, chú ý tinh cần, niệm niệm bất vong, tự tâm thuần thiện. Thiện niệm ký hiện, ác niệm tiện tiêu. ác niệm ký tiêu, duy tồn thiện niệm. Dĩ niệm ý niệm, niệm niệm diệt chi. Niệm diệt chi thời, tốt qui chính đạo. Mệnh chung chi thời đắc Niết bàn lạc. Thường lạc ngã tịnh Phật chi đạo dã. Hạ trí giả khẩu cần niệm Phật ngữ, tâm dục kiến Phật tướng, thân nguyện sinh Phật quốc; Hậu đắc chư Phật sở tuyên chính pháp, chứng đắc Bồ Đề, diệc nhập Phật quả. Có nghĩa là người thượng trí thức thì tâm tức Phật. Quan điểm này là của Mã Tổ Đạo Nhất, khái niệm tâm ở đây là tâm trừu tượng. Người này không cần tu thêm, vì không có niệm, mà niệm là bụi trần. Thân người thượng trí là thân Phật, tức không có hai tướng, tồn tại vĩnh hằng, đó là dạng phật sống. Đây cũng là một tư tưởng mới trong lịch sử Thiển học Phật giáo. Phật sống chỉ tồn tại ở Tây Tạng với lý luận về hóa thân, trên cơ sở giáo lý Mật giáo. Do đó khái niệm này xuất hiện trong Thiền đời Trần, chứng tỏ yếu tố Mật giáo thời Lý đến giai đoạn này vẫn còn khá đậm. Yếu tố Mật Giáo này còn tiếp tục được lưu giữ một cách vô thức trong các tông phái Phật giáo giai đoạn sau. Tuy nhiên, trong quan niệm của Trần Thái Tông có điểm khác là người thượng trí không phải hiện tượng siêu phàm, cũng không phải là sự thác sinh của Phật mà là người trí thức phàm trần, và cũng không có việc nhập Niết bàn. Tư tưởng của của Trần Thái Tông về vấn đề người thượng trí là một dạng phát triển tư tưởng quả A La Hán, tức vô học (không học) mà biết cũng có nghĩa sinh ra đã biết. Tiêu chuẩn này không phải ai cũng đáp ứng được.

Người trung trí thức, thì phải nhờ niệm Phật, luôn cần tinh tiến, tự tâm mình thuần thiện. Thiện niệm xuất hiện thì ác niệm tiêu vong rồi niệm cũng không còn nữa bởi khi còn thiện niệm thì tâm đã thuần thiện, sau khi chết sẽ vào Niết bàn (Niết bàn tứ đức: thường, lạc, ngã, tịnh).

Người hạ trí phải luôn miệng niệm Phật, lòng muốn thấy Phật, thân cầu sinh đất Phật, ngày đêm chuyên cần. Sau khi chết được sinh vào đất Phật, rồi lại nhờ chư Phật dạy dỗ thêm mới được Phật quả. Như vậy người hạ trí không trực tiếp vào Niết bàn mà sau khi chết đến đất Phật tùy duyên, được Phật độ thêm lần nữa mới thoát luân hồi để lên cõi Niết bàn.

Theo như tư tưởng này của Trần Thái Tông về ba hạng người tu đạo có thể đến cõi Phật bằng thiện tâm, thiện tín, thiện niệm thì cũng không khác bao xa với quan niệm của Tịnh Độ tông sau này khi phân ra các cấp bậc vãng sinh. Ba hạng người này ứng với ba hạng người của ba phẩm Thượng, Trung, Hạ. Người sẵn tâm Phật không cần tu thêm tức “Phật sống”. Người thuộc hạng Trung phải chuyên cần niệm Phật mới có thể chứng quả Bồ Tát. Còn hạng người thuộc hạng Hạ còn cần phải học thêm nhiều hơn nữa, chuyên cần tu niệm, nhưng cũng cần phải nhờ đến tha lực bên ngoài tức được Phật độ thêm lẫn nữa, thì mới đến được cõi Phật vậy.

Tuy nhiên trong Thiền phái Trúc Lâm sau Trần Thái Tông, vấn đề của Tịnh Độ tông không được nêu ra như một giá trị chính. Nó vẫn chỉ có ý nghĩa nói lên sự phối hợp của hình thức Tịnh Độ với các dòng Thiền Việt Nam. Hay nói chính xác là hình thức Thiển Tịnh song tu, như chúng ta đã đề cập đến trong Phật giáo thời Lý.

Sau thế kỷ XVI tư tưởng Phật giáo Việt Nam mang nhiều tính phức tạp hơn, tuy không mất đi cái mạch nguồn của nó. ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc hiện ra rõ nét hơn. Tông phái Trúc Lâm tiếp tục phát triển với vai trò của nhà sư Chân Nguyên. Nhưng Chân Nguyên không chỉ là tổ truyền thừa của Trúc Lâm mà còn chịu ảnh hưởng của phái Lâm Tế xâm nhập vào nước ta khoảng thế kỷ XVII. Cho dù thực tế thiền phái Trúc Lâm đã chịu ảnh hưởng một phần nào đó tư tưởng Lâm Tế từ trước, trong tư tưởng của Huyền Quang vị tổ thứ ba của Trúc Lâm. Lâm Tế chính phái (sau thế kỷ XVII) có quan hệ một cách chặt chẽ với Chuyết Chuyết, Minh Hành - những nhà sư Trung Quốc. Học trò người Việt của hai vị sư này là Minh Lương. Minh Lương là người đã đổi tên cho Chân Nguyên sau khi ông đắc pháp. Sau này, thậm chí Liên Xã của Trịnh Thập cũng được xếp vào phái Lâm Tế vì ông đã học Chân Nguyên. Phái Liên xã của Trịnh Thập còn gắn liền với chùa Liên Phái và tháp Cửu Phẩm Liên Hoa bằng gạch xây dựng ở trước chùa, thế kỷ XIX. Nó mang nhiều tính chất biểu tượng hơn là chức năng để tu tập niệm Phật.

Điểm qua các vị chân sư thuộc giai đoạn Phật giáo Phục hưng ở đàng ngoài, ta có thể nhận ra những mối liên hệ mật thiết của các tòa Cửu Phẩm Liên Hoa. Thiền sư Chuyết Chuyết, Minh Hành gắn bó với chùa Bút Tháp, mặc dầu Cửu Phẩm Liên Hoa chùa Bút Tháp hiện tại không ghi người khởi dựng. Qua một số thư tịch cổ chép là do Huyền Quang (Tổ thứ 3 dòng thiển Trúc Lâm Yên Tử xây dựng. Đến thế kỷ XVIII thì được sư Tính Hài dựng lại. Thiền sư Chân Nguyên là người đã cho dựng cây Cửu Phẩm Liên Hoa chùa Đồng Ngọ thuộc tỉnh Hải Dương. Ông không chỉ là tác giả của riêng cây phẩm này mà còn xây thêm 2 cây phẩm ở các chùa khác nữa như chùa Quỳnh Lâm, chùa Hoa Yên trong hệ thống các chùa thuộc dòng Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay trong số chùa miền Bắc thì chỉ còn 3 tháp Cửu Phẩm Liên Hoa còn nguyên vẹn, có niên đại XVII-XVIII.

Sự ra đời và nở rộ của các tháp Cửu Phẩm Liên Hoa trong giai đoạn này cho thấy không chỉ đơn thuần xuất phát là Tịnh Độ, mà nó còn được cộng hưởng bởi nhiều yếu tố tư tưởng Phật giáo khác nhau. Tư tưởng chủ yếu vẫn là Thiền và Tịnh, dù yếu tố Thiền - Tịnh song tu có từ thời Lý - Trần nhưng đến đây đã mang màu sắc khác. Không loại trừ màu sắc của Mật tông vốn có trong đạo Phật thời Lý trong các Thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, kể cả Thiển phái Trúc Lâm. Chúng không được gọi tên một cách biệt lập mà chỉ được coi như một yếu tố có màu sắc Mật giáo, hay có nguồn gốc từ Mật giáo sau đó bị biến đổi trong các họat động và thực hành của các Thiển phái mà thôi. Do đó, trong nghệ thuật tạo hình các yếu tố này cũng liên tục được trộn lẫn với nhau, để tạo nên một giá trị khá đặc trưng cho văn hóa Phật giáo Việt Nam.

Như vậy sự hình thành tháp Cửu Phẩm Liên Hoa trong lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục. Chúng là sự tiếp nối của các mô hình chùa tháp biểu tượng cho Phật hay một vị quân vương chiếm vị trí trung tâm của ngôi chùa, tháp - chùa hoa sen với nghĩa biểu tượng là thế giới thanh tịnh của đức Phật và cuối cùng là tháp Cửu Phẩm Liên Hoa, hình thức tượng trưng cho luận thuyết của Phật giáo Tịnh Độ và công quả của những kẻ tu hành. Tuy nhiên chúng không phải là sự thay thế lẫn nhau mà ở mỗi giai đoạn các hình thức này lại mang những ý nghĩa lịch sử khác nhau. Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa khi đạt đến độ hoàn thiện vào đầu thế kỷ XVIII là sự chứng thực cho những thay đổi và chuyển biến về tư tưởng Phật giáo Việt Nam qua các thời đại. Từ Thiền - Tịnh trong Phật giáo Lý - Trần làm nền tảng, chuyển sang một hình thức mới mẻ rõ nét hơn trong thế kỷ XVII. Tư tưởng này được hòa trộn rất nhiều các yếu tố khác nhau mà trong đó: Thiền - Tịnh - Mật chiếm vị trí chủ đạo. Đồng thời các yếu tố mới này còn mang cả tính chất thực dụng hơn. Người ta cần đến Phật pháp để mong tìm đến sự bình an trong tâm hồn vào thời loạn và tìm được ý nghĩa của sự sống mới nơi cõi Cực lạc khi được vãng sinh sau khi chết. Điều này rất phù hợp với tâm lý xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng do chiến tranh nội chiến xảy ra liên miên. Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa là một sản phẩm tất yếu của xã hội và Phật giáo Việt Nam giai đoạn này. Cho dù chúng không có tính phổ biến như tượng Adiđà hay các thể loại tượng Quan âm đặc biệt phát triển mạnh thời đó. Nhưng do gần hơn với giáo lý Phật và mang mầu sắc bác học uyên thâm, nên Cửu Phẩm Liên Hoa lại gắn liền với tên tuổi các bậc chân tu, chiếm vị trí quan trọng trong các ngôi chùa trung tâm. Cửu Phẩm Liên Hoa đã tạo nên một dạng thức hết sức độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. 
Trích trong sách: Cửu Phẩm Liên Hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THÁP CỬU PHẨM LIÊN HOA

Tòa Tích Thiên Am, chứa tháp CPLH. Chùa Bút Tháp, Bắc Ninh.

Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Bút Tháp

Nhà "Phẩm" chùa Giám, Hải Dương.
Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Giám

Nhà "Phẩm" chùa Động Ngọ (chùa Cập Nhất) huyện Thanh Hà, Hải Dương
Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Động Ngọ.

Nam Mô Bản sư Thích ca Mầu Ni Phật!

NHỮNG BỨC TRANH LỤA CỔ NHẤT VIỆT NAM

Chùm bài về mỹ thuật cổ:
Bài 1: Những bức tranh lụa cổ nhất Việt Nam
Trang Thanh Hiền

Tranh lụa Việt Nam có thể đã có một lịch sử lâu đời, nhưng những tác phẩm vẽ trên chất liệu lụa cổ nhất hiện còn được lưu giữ đến ngày nay là ba tác phẩm chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan và Trịnh Đình Kiên. Chúng có niên đại khá muộn khoảng thế kỷ XVIII - XIX thuộc giai đoạn nghệ thuật thời Hậu Lê. Đây cũng là giai đoạn mà các tranh chân dung đặc biệt phát triển, và thường do các hoạ sĩ cung đình vẽ.

Các việc vẽ tranh như vậy vào triều Lê Trịnh đã được đặt thành những qui tắc chặt chẽ do Hoạ tất tượng cục (nơi lo các việc về mỹ thuật) đưa ra. Và không phải ai cũng được vẽ chân dung, chủ yếu là các quan lại, khanh hầu… Các bức tranh thường được vẽ ngay khi các nhân vật này còn sống và sẽ dùng nó để lưu giữ trong các từ đường sau khi họ khuất núi. Riêng bức Nguyễn Trãi hiện nay chưa xác định được niên đại cụ thể, nhưng có thể ông đã được người đời sau vẽ lại theo trí tưởng tượng, mặc dầu nhìn vào bức chân dung này người ta có thể dễ dàng hình dung ra một nhân vật trung hậu nhưng chịu nhiều oan khuất và dường như không hề có tính chất thần thánh hóa trên gương mặt nhân vật lịch sử này.
 
Chân dung Nguyễn Trãi
Các tranh chân dung thời này đa phần được vẽ trên giấy dó cao cấp, một số rất ít được vẽ trên lụa. Ba tác phẩm trên nằm trong số những tranh đặc biệt đó. Chất liệu lụa được sử dụng để vẽ tranh cũng khác xa với loại lụa mà các hoạ sĩ trường Cao đẳng Đông Dương sau này. Chúng thường là loại lụa khá dày, và thường không cần bồi phần hậu. Điều này cũng giúp cho các tác phẩm dường như không hề bị mối hoặc bọ cắn trong suốt nhiều thế kỷ. Tuy nhiên do vẽ những lớp màu dày trên mặt lụa và thường dùng theo dạng tranh cuộn, nên hiện trạng của chúng ngày nay ít nhiều đã bị bong tróc. Các màu của tranh lụa cũng như tranh giấy dó cổ xưa cũng khá phong phú. Vào thế kỷ XVII, XVIII, do triều đình chúa Trịnh ít nhiều đã có quan hệ với Tây phương, nên các màu trên các tranh giai đoạn này một phần được du nhập từ phương Tây vào như màu nước được dùng khá phổ biến. Ngoài ra các họa sĩ cung đình vẫn sử dụng một số màu có tính chất truyền thống như các màu được lấy từ tự nhiên, mực nho, bột đá, chu sa… Một số màu là màu bột của Trung Quốc. Màu thường được pha với một loại dầu thực vật hoặc hồ nếp để tạo độ kết dính. Ngoài ra, các hoạ sĩ còn sử dụng các loại vàng bạc xay nhuyễn để tạo các họa tiết như trên trang phục ở tranh Nguyễn Trãi. Kiểu đưa thêm các màu bằng kim loại quí này vào tranh cũng được dùng khá phổ biến, chúng có kỹ thuật tương tự như vẽ trên các sắc phong, với truyền thống khá lâu đời (khoảng thời Lê Sơ thế kỷ XV. 

Chân dung Trịnh Đình Kiên
Cũng do đã có sự giao lưu nhất định với Tây phương, nên trong mỹ thuật Việt Nam giai đoạn này ít nhiều đã có những sự pha trộn giữa thẩm mỹ phương Đông và phương Tây, mặc dầu cái căn cốt vẫn là mạch nguồn truyền thống. Chúng ta có thể thấy được các biểu đạt rất rõ rệt kiểu phương Đông là lối nhìn ngay ngó thẳng, và hoàn toàn không có sự diễn tả không gian xa gần như ở tranh vẽ Nguyễn Trãi, hoặc lối vẽ theo kiểu không gian ước lệ như bức vẽ ông Trịnh Đình Kiên. Tác phẩm này có niên đại muộn hơn tranh Nguyễn Trãi, nên không gian phẳng dẹt đã được thêm vào chiếc bình phong vẽ thuỷ mặc ở phía sau lưng. Các nếp áo của vị Thụy Trung hầu này cũng được miêu tả như có khối nổi, chứ không đơn thuần là các nét đen tạo điểm phân cách như trên trang phục của Nguyễn Trãi. Đặc biệt là khuôn mặt và bàn tay, cách miêu tả có vờn khối này là sản phẩm của sự pha trộn của hai dòng thẩm mỹ Đông Tây, chứ không đơn giản là dạng gợi tả bằng nét kiểu phương Đông cổ truyền.

Mặc dầu là ít ỏi, nhưng các tác phẩm này phần nào giúp chúng ta hiểu biết một cách sâu sắc hơn về một nền nghệ thuật trong quá khứ, mà ở đó tranh lụa đã có được một vị thế nhất định.

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

PGS.TS VŨ DUY THÔNG 12 NĂM TRƯỚC "LƯỠI CÒN CHƯA PHUN NỌC ĐỘC"

Thi Hữu

Vũ Duy Thông (ảnh bên) sinh năm 1944 tại Phúc Yên (Vĩnh Phúc). Năm 1979, ông xuất bản tập thơ đầu tay Nắng trung du. Những năm sau đó, ông lần lượt cho ra mắt các tập: Những đám lá đổi màu (1982), Tình yêu người thợ (1987), Gió đàn (1989), Trái đất không chỉ có một người (1991), Chối từ cô đơn (1998), Một trăm bài thơ (1999),  Và cuộc đời sẽ cứu rỗi (2003). Ông có học vị tiến sĩ mỹ học, có chức danh phó giáo sư, từng là vụ trưởng một vụ ở Ban tư tưởng – văn hóa trung ương (nay là Ban tuyên giáo trung ương), từng là phó tổng biên tập báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam. Hiện nay Vũ Duy Thông nghỉ hưu ở Hà Nội. Nhân đọc bài “Cần nhận rõ những mưu đồ thâm độc” của nhà thơ, phó giáo sư, tiến sĩ Vũ Duy Thông đăng số ra ngày 22/8/2011 của báo Hà Nội Mới (cơ quan của Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam – Thành phố Hà Nội, Tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô) bôi nhọ và vu cáo những người biểu tình yêu nước ở thủ đô hai tháng qua, Thi Hữu tôi có hai việc trình với mọi người gần xa.

Thứ nhất, mời mọi người đọc bài thơ dưới đây của Vũ Duy Thông viết cách nay đúng một giáp, khi ông thăm thú Trung Quốc, vào đất Ba Thục của Lưu Bị xưa.. Đặc biệt chú ý đến khổ cuối, và nhất là câu thứ hai của khổ này mà Thi Hữu tôi xin bôi đậm. Đọc xong bài thơ ắt mọi người hiểu vì sao Vũ Duy Thông có bài báo đó.

 Uống rượu ở xứ người
 
Chiều nay vắt vẻo Phương Đình quán
Mây bay khuất nẻo rượu nghìn bình

Nghìn đôi mắt rắn ngâm trong rượu

Lặng lẽ nhìn người qua thủy tinh

Xưa nghe Tây Thục lắm rắn rết
Khe núi hổ mang đêm gầm rít

Mồ hoang rải rác đường lên trời

Nọc độc nghìn năm chưa tan hết

Xưa nghe xà tinh hiển hiện người
Dan díu duyên trần thân lạnh toát

Bao tình yêu rắn bị trời hành

Thân xác tan tành con côi cút

Nay hâm rượu nóng ngồi đọc thơ
Ngỡ mình thành vua miền cực lạc

Giữa nhà mồ rắn rượu rót tràn

Trong say cách trời ba bốn bước

Nửa đêm tỉnh giấc chợt rùng mình
Mừng lưỡi còn chưa phun nọc độc

Cay đắng cũng xin làm kiếp người

Mảnh tình phương nam xa xôi ơi

Thứ hai, Thi Hữu tôi mạn phép nhà thơ, phó giáo sư, tiến sĩ Vũ Duy Thông làm cái trò chơi ghép tên các tập thơ của ông thành một bài tứ tuyệt gọi là, trước để tặng riêng ông, sau để mọi người đọc vui.

Nắng trung du những đám lá đổi màu
Chối từ cô đơn tình yêu người thợ
Trái đất không chỉ có một người, hãy nhớ
Và cuộc đời sẽ cứu rỗi cho ai?

Thi Hữu tôi xin cảm tạ ông Thông và mọi người.

Hà Nội 29.8.2011
Tác giả gửi cho Quê choa
Nguồn: Quê Choa

NỮ SĨ KIM ANH: CHÚT LÒNG YÊU NƯỚC TỪ SAU ...XIN CHỪA

Chút lòng yêu nước từ sau … xin chừa
Kim Anh

Tôi đi biểu tình vì rất nhiều lý do:

Bởi không cầm được nước mắt khi vào những đêm mất ngủ, nhớ đến ông anh mới 17 tuổi đã ngã xuống ở chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam trong chiến tranh chống Mỹ vào năm 1969, được đem chôn chỉ với mảnh quần đùi trên người vì quần áo phải lột ra để người sống mặc, tôi không muốn để một lần nữa, mảnh đất mà bao người VN trong đó có anh tôi hy sinh để giành lấy, lại rơi vào tay quân xâm lược.

Tôi đi bởi không thể quên tiếng khóc hờ chồng hằng đêm của người thiếu phụ sống gần nhà - vợ một sĩ quan QĐND VN hy sinh trên một cao điểm nơi biên giới vào năm 1979, khi TQ tấn công VN.

Tôi đi bởi tim tôi đau nhói trước hình ảnh những người lính Việt Nam cầm cờ đỏ sao vàng trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của VN, bị đạn trên tàu chiến Trung Quốc bắn xối xả gục chìm xuống khi không có khả năng kháng cự, cũng không thể trốn tránh vào đâu được giữa biển mênh mông nước vào năm 1988.

Tôi đi bởi nỗi phẫn uất khi thấy những người đàn ông ngư dân Việt vạm vỡ khỏe mạnh, đang đánh cá trên ngư trường quen thuộc ngàn đời của cha ông, bỗng phải bất lực ôm đầu ngồi dưới họng súng lính TQ, với lý do bị bắt vì xâm phạm chủ quyền lãnh hải Trung Hoa.

Tôi đi bởi văn hóa TQ lại đang lấn át, hàng giả hàng rởm của TQ đang tràn ngập thị trường VN… Bởi nhiều lắm những điều xấu đến từ phương Bắc.

Nỗi tức giận cứ dồn lên ứ nghẹn đã từ lâu nhưng khó bề giải tỏa, vậy nên khi biết có biểu tình chống TQ, tôi đã xuống đường. Khi hòa vào dòng người yêu nước, được nhìn những khẩu hiệu yêu nước, được nghe những tiếng hô vang với quyết tâm bảo vệ đât nước, tôi trào nước mắt và thấy lòng nhẹ nhõm.

Cũng như nhiều người khác hiện nay, tôi lúc nào cũng bận rộn, suốt ngày hết việc nọ đến việc kia vì cơm áo gạo tiền, chỉ có một chút thôi thời gian, một chút thôi tình cảm dành cho đất nước vào mấy sáng chủ nhật hiếm hoi vừa rồi, vậy mà tôi bị ngăn cản.

Lực cản đến từ nhiều phía, CA đến nhà, gia đình, bè bạn lo sợ khuyên can mắng mỏ, báo đài Hà Nội đua nhau buộc tội người biểu tình, lại còn có hẳn một ông PGS – TS kiêm nhà thơ (nghe qua mấy cái danh hiệu đã biết là đầu óc thuộc loại hổ lốn) nhân danh yêu nước chân chính để chụp mũ chúng tôi. Tất cả những điều đó khiến tôi buồn chán. Cổ nhân có câu “Có cứng mới đứng đầu gió”, tôi vốn không phải người cứng rắn.

Tối nay lại vừa bị ông bạn thân cho một bài choáng váng hết cả người. Buồn quá, thôi đành… “chút lòng yêu nước từ sau… xin chừa”[1], để nước cho mấy ông bà GS, PGS - TS kiêm nhà thơ nhà báo nhà văn nhạc sĩ họa sĩ ca sĩ v.v… yêu cho đúng cách, tôi là người dân thường, chỉ biết yêu nước bằng cách biểu tình. Giờ thấm mệt rồi, nghỉ thôi!

Đã bụng bảo dạ như vậy mà không hiểu sao cứ thấy uất nghẹn trong lòng.

Không thể chịu nổi, có lẽ sáng mai phải tìm một chỗ đất nào đó đào lấy cái lỗ mà … hô xuống đấy vậy!

Nghĩ đến đây tôi tự cho mình mơ mộng lạc quan một chút:

Biết đâu, từ cái hố ấy lại mọc lên một cây thông thẳng tắp vươn trên nền trời cao, ngày đêm reo vang trong gió:

HOÀNG SA – VIỆT NAM; TRƯỜNG SA – VIỆT NAM
BẢO VỆ MÁU THỊT VIỆT NAM – BẢO VỆ!

K.A

[1] Nhại Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du

*Bài viết do Nữ sĩ Kim Anh gửi trực tiếp cho NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả! 

Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2011

NHỮNG CUỐN SÁCH MỚI NHẤT TRÊN GIÁ

Lâm Khang thư viện vừa tiếp nhận các ấn phẩm quý báu
mà các tác giả và bạn bè gửi tặng. Chúng tôi chân thành cám ơn 
và xin trân trọng giới thiệu với chư vị 


 Cuốn sách của TS Nguyễn Sỹ Dũng do Bùi Quang Minh tặng




 Hai tập thơ do tác giả Trần Vũ Long tặng

Xin trân trọng giới thiệu chùm thơ của Trần Vũ Long
trích trong hai tập thơ trên

Thi sĩ Trần Vũ Long
Ám ảnh cuộc cờ người

Khi những bông hoa bị dồn về một phía
Những giọt sương mai bị dồn về một phía
Tình yêu bị dồn về một phía
Niềm tin bị dồn về một phía
Sự tôn thờ  bị dồn về một phía
Giọng lưỡi bị dồn về một phía
Tiếng cười bị dồn về một phía
Những tiếng vỗ tay bị dồn về một phía
Đôi khi cả nước mắt cũng bị dồn về một phía
Chúng ta thành những kẻ “bơ vơ đông đảo” *

Ta bước đi trong cuộc cờ người
Giữa hai phần sáng tối
Lập lòe
 
                                 * Tên tập thơ của Việt Phương

Áo đá

Đồng Văn
Trùng trùng mùa cúc đá
Trời sinh Em sau một trận mưa rào

Đồng Văn
Lác đác người
Như mầm xanh nứt ra từ cúc đá

Đồng Văn
Đá quây quần như xóm như làng
Người héo người tươi lẫn chìm nét đá

Đồng Văn
Đá trù phú no
Dựng chân người đứng thẳng
Ánh mắt trẻ thơ ngơ ngác ráng chiều

Người Đồng Văn
Như cọc tiêu Tổ quốc
Giữ cho quê hương
                               đá
                                       đá
                                                đá
                                                       trập trùng

Ôi những con người nứt ra từ mùa hoa cúc đá
Mùa hoa tam giác mạch
Hồn nhiên xanh.


Cái bóng

Trên phố
tôi gặp
bóng tôi hôm nay
với bóng tôi hôm qua
sẻ chia kinh nghiệm
của một kiếp làm cái bóng.

Chúng mỏi mệt khi bám theo hình hài thô kệch
lúc đổi hướng cùng mặt trời
nắng xiên - bóng dài
bóng tròn - nắng xối đỉnh đầu

Mặt trời in tôi thành cái bóng đen
đôi khi buộc tôi dẫm lên nó.

Tôi thương bóng tôi
biến dạng theo từng góc chiếu

Thương kiếp bóng
thương chính mình.


Cha tôi

Cha tôi trái tim nóng bỏng miền Trung
Mảnh đất ngàn đời sỏi đá gối đầu cùng gió Lào nuôi cây lúa
Biển mặn mơn man bờ cát màu vôi
Xoa nứt da cháy sém nụ cười

Cha tôi sinh ra bên dòng sông Lam
Con nước chảy điềm tĩnh như lòng người xứ Nghệ
Ẩn chứa bao truyền thuyết
Bà đã kể cho cha
Tôi nghe cha kể lại

Cha tôi thả tuổi thơ mình trôi dọc bến sông
Qua những bãi dâu nương ngô ngút mắt
Khi câu đò đưa gọi nắng chiều vội tắt
Chiếc thuyền con lênh đênh chở nặng ánh đèn

Lời nói cha tôi thẳng ngay như tước cật
Giữa cuộc sống với trăm ngàn được mất
Với dại khôn bắc giáo thành tầng

Cha tôi trái tim nhân hậu như dải đất miền Trung
Như phù sa sông Lam ngày đêm bồi đắp
Màu mỡ cha vun mát hồn tôi.


Một ông già đi vào phố
                               
                                Tưởng nhớ nhà văn Kim Lân

Hà Nội lâu nay vắng bóng ông
Dáng nhỏ liêu xiêu
Ba toong dọc phố
Như đi tìm cọng rơm vàng cuối vụ
Tìm một giọng nói nhà quê cho thỏa nỗi khát thèm

Lắng nửa cuộc đời
Ông bạn cùng những khoảng trống
Ung dung như nỗi buồn
Gom từng niềm vui người đời quên lãng

Quãng đường từ nhà ra phố
Mòn dấu chân ông
Sao cái gì cũng lạ
Một ông già nhà quê giữa phố
Hay một ông già thành phố nơi thôn quê

Ông ngụp tận đáy sâu
Để tránh những thứ rong rều trôi nổi
Khi niềm tin một thời không còn là phao cứu sinh
Chuyện ông cười nghe như trong nước mắt

Lắng nửa cuộc đời
để sống trọn đời
Hà Nội lâu nay vắng bóng ông
Phố vẫn nhắc tên
Cây vẫn nhớ hình.

Mùa sớm
Những quả sấu đầu mùa rơi non vào nỗi nhớ
Đã im lìm tròn nắm tay em
Anh bối rối ngước nhìn hàng cây vừa sai quả
Có lẽ nào mùa sấu đến sớm hơn

Những quả sấu đầu mùa chưa kịp chua mà em vội hái
Để non dở mùa sau
Để ai đó còn chưa dám nói
Dang dở một lời, dang dở trong nhau

Những quả sấu mùa sau lặng lẽ lăn tròn nơi phố vắng
Tự héo khô trong nỗi nhớ vị muối ớt cay nồng
Em có nhớ đến một mùa như thế
Em có còn hương vị ấy không

Mãi mãi

                              Nhớ nhà thơ Bế Kiến Quốc

Mãi mãi ngày đầu tiên*
yêu và thương như thế
trái tim mỏng manh nén cồng kềnh đa cảm
nước mắt nhà thơ chẳng khô bao giờ

Một cánh buồm trôi không hẹn bờ đợi bến
thời gian thành vô nghĩa
tham vọng thành thấp hèn
dòng nước vô vi
cánh buồm định mệnh
cười khóc vô nghĩa
trần thế vô thương

Lắng đọng phù sa bồi lở yêu thương

*Tập thơ của Bế kiến Quốc

Em đừng buồn như thế

                           Cho em

Anh sẽ héo khô như mùa hạn hán
như thành phố năm triệu dân nhớn nhác chen
nên xin em đừng buồn như thế
bởi vì anh tư duy bằng ánh mắt em


Khi cánh cửa ban công mở ra
họa mi không hót nữa
bình minh tung lên cao rồi rớt trước thềm nhà
cánh hoa giấy không còn màu tươi đỏ
giọt mật hôm qua
hôm nay thành vị đắng dờm dợm đầu môi
chúng ta như những tờ giấy bị vo tròn ẩn mình trong ngăn kéo
may thay còn chưa bị vứt vào sọt rác
may thay còn chưa bị xé toạc
cảm ơn cái ngăn bàn còn biết giữ lời
nhưng xin em đừng buồn như thế.

Rồi thành phố năm triệu dân sẽ yên bình trở lại
lòng tốt chỉ là lòng tốt
không phải mặt hàng xa xỉ đâu em.

Em đừng buồn như như thế
bởi vì anh tư duy bằng ánh mắt em.

Tác giả Trần Vũ Long sinh tại Hà Nội. Giải thưởng thơ của báo Người Hà Nội (2001), báo Tiền Phong (2002). Hiện công tác tại Báo Văn Nghệ. Trần Vũ Long là con trai của nhà thơ Võ Thanh An (Võ Liệt - Thanh Chương - Nghệ An; tên thật là Trần Quang Vinh).

THƯ GỬI ANH VŨ DUY THÔNG




Lời dẫn của Trần Nhương.com: Nhà thơ Trần Trương và Vũ Duy Thông đều là bạn đồng nghiệp của tôi. Cả hai ông đều hạ cánh cả rồi. Ông Trương hồi hưu về viết những bài thơ nhân tình thế thái. Ông Thông hồi hưu nhưng vẫn vung roi. Thế mới biết ở đời biết mình khó lắm thay

THƯ GỬI ANH VŨ DUY THÔNG
Nhà thơ Trần Trương 

Anh Thông thân mến! Vừa qua tôi có đọc  bài viết của anh trên báo HNM  tôi thấy cách thể hiện “Lòng yêu nước” của anh hơi quá mức so với trình độ, chức vụ cũng như học hàm học vị của anh. Sự “lên gân” và cách nói có thể là thiếu lễ độ ấy rất gây phản cảm cho bạn đọc. Cái Oai của anh cũng chỉ là cái chức Vụ trưởng một thời mà thôi,ngày xưa biết bao vị công hầu, khanh tướng lúc về hưu cũng có bao giờ nói “mạnh” như anh đâu. Người ta biết đến anh ở những bài thơ 5 chữ ấy, chứ họ không biết anh làm chức vụ gì, vì thế nếu cứ ngỡ “Cái ghế” là vị thần cứu tinh cho danh giá của mình thì thật là nhầm lẫn, nhầm lẫn giữa cái “Đế”(gọi chệch đi một tí) với cái Đầu(Cũng là chữ Đ cả) thì thật là thảm hại.

Đến ngay ông G/Đ sở CA HN cũng bảo biểu tình là yêu nước, Ông Phạm Quang Nghị, Ông Nguyễn Thế Thảo cũng phát ngôn trước các nhà trí thức rất đàng hoàng , cởi mở, đúng mức và khiêm nhường, hèn chi anh mới ở cái chức “bạch mã ôn” mà đã lên gân quá. Không biết anh có nghe dư luận người ta nói về cái bài viết theo kiểu “bồi bút” của anh như thế nào không, tôi cũng thấy có cái gì đấy ở cái giọng nói của anh đã đi quá bước chân của mình, và có ý coi thường những người tham gia biểu tình, và đặc biệt là các nhà trí thức vào loại bậc đàn anh nếu không muốn nói là bậc thầy của anh.

Nhiều người nói bóng, nói gió về anh, nhưng tôi chọn phương cách nói thẳng với anh để khỏi băn khoăn, vì dù sao tôi vẫn còn nhận ra rằng, có thể anh viết theo đơn đặt hàng hoặc vì một sự mưu sinh bức xúc nào đó. Anh hãy nhớ rằng khi xúc phạm đến danh dự của ai đó mà theo kiểu” cả vú lấp miệng em” là rất không nên, dù người ấy là “Đại Giáo sư” đi nữa, chứ không phải mới chớm giáo sư như anh.

Tôi không là người bị anh xúc phạm, nhưng tôi thấy cái nguy hại ở bài báo anh viết trên HNM mang tính “răn đe” theo kiểu  áp đặt thì chính cái lời lẽ phản cảm ấy có khi lại là mồi lửa đốt cháy cả cái ý đồ mà anh tưởng là “trong sáng” của anh.

Rất mong  nhà “tập làm chính trị” Vũ Duy Thông hãy viết những câu thơ 5 chữ thật hay,đừng nhầm tưởng đứng cạnh “Ông to” lại ngỡ mình cũng TO , anh ạ. Chúc anh mạnh khỏe bằng chính tinh thần của mình. Thân ái!

T. T
_____________
 
Dưới đây là bài viết của ông Vũ Duy Thông trên báo Hà Nội mới:
Cần nhận rõ những mưu đồ thâm độc 
22/08/2011 06:40

(HNM) – Nhân dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Hàng nghìn năm nay, lòng yêu nước khi thấm sâu, khi sôi sục trở thành những dòng thác mạnh mẽ nhấn chìm những âm mưu thôn tính, xâm lược của kẻ thù để giữ vững độc lập, tự do cho đất nước.

Thể hiện lòng yêu nước có nhiều cách. Thể hiện bằng lời nói, bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả phù hợp với năng lực, và trong khuôn khổ pháp luật thì các hoạt động hô hào cũng là một cách nhưng lại không mang lại hiệu quả nhất. Không chỉ thế, những người có ý đồ xấu thường lợi dụng hình thức biểu tình, tụ tập đông người này (mà nhiều người tham gia thường nhẹ dạ, cả tin, không biết mình đang bị lợi dụng) để thực hiện những mưu đồ của họ.
 
Mưu đồ đó là gì? Cứ nói thẳng ra, đó là muốn mọi cố gắng về ngoại giao và các mặt khác của Đảng, Nhà nước bị thất bại, quan hệ Việt – Trung ngày một xấu đi, phải tăng cường mọi biện pháp tự vệ, ngân sách không còn được ưu tiên đầu tư cho xây dựng hòa bình, cho công cuộc phát triển và đời sống người dân ngày một khó khăn, xã hội rối ren… Âm mưu lâu dài, chiến lược của họ là cô lập và làm suy yếu đất nước ta, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá Đảng và Nhà nước ta, làm suy yếu để đi đến lật đổ chế độ.

Với mưu đồ như vậy nên khi UBND TP Hà Nội ra thông báo yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động tụ tập, biểu tình, tuần hành tự phát trên địa bàn thành phố và áp dụng các biện pháp cần thiết đối với những người cố tình không chấp hành chủ trương trên, một số người và nhất là những người không thiện cảm với nước Việt Nam hiện nay, thông qua các phương tiện thông tin đã ra sức vu cáo, kích động người đọc. Họ còn hằn học và thâm hiểm khi chọn Hồ Gươm là địa bàn tụ tập gây mất trật tự công cộng với hy vọng chuyện bé xé ra to, tìm cớ tung những thông tin thất thiệt ra bên ngoài khi chủ trương của chính quyền được dư luận người dân trong và ngoài thành phố hưởng ứng, khi số người tham gia các hoạt động biểu tình, tụ tập đông người giảm đi rất nhiều do đã nhận rõ ý đồ xấu của một số kẻ chủ mưu.

Những hành vi vi phạm pháp luật của họ đã thất bại và trở nên lố bịch trong mắt mọi người. Sáng Chủ nhật 21-8, trong lúc nhiều hoạt động vui chơi, giải trí, liên hoan văn nghệ của hàng nghìn người kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 diễn ra sôi nổi, một nhóm người đã mượn danh yêu nước, đứng ra hò hét, kích động và đã không nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Hành động vi phạm pháp luật, gây rối trật tự công cộng của họ đã bị các lực lượng chức năng xử lý trong sự đồng tình, ủng hộ của những người thật sự yêu nước, yêu chuộng hòa bình.

Lòng yêu nước chân chính là như Bác Hồ đã nói “Làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Lòng yêu nước chân chính là giữ vững được chủ quyền đất nước, bảo vệ và xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh như các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần phát biểu trước dư luận trong và ngoài nước. 

Muốn thực hiện được những mục tiêu cao nhất đó, lòng yêu nước chủ yếu thể hiện ở việc làm trong lao động, học tập, nghiên cứu sáng tạo ở những cương vị khác nhau trong cuộc sống hằng ngày. Lòng yêu nước là hiểu và ủng hộ những việc làm của Đảng và Nhà nước ta trên các mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa để đạt được các mục tiêu đề ra. Lòng yêu nước là không ngừng rèn luyện đạo đức, trí tuệ, thể lực để sẵn sàng “đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần” như bao lớp cha anh ta đã từng khắc sâu. Đó là lòng yêu nước, là truyền thống, là bản lĩnh của người Việt Nam tiếp nối từ hàng nghìn năm nay. 

PGS.TS Vũ Duy Thông

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2011

THƯ YÊU CẦU ĐÀI PT-TH HÀ NỘI XIN LỖI VÀ CẢI CHÍNH


Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Hà Nội, ngày 26-8-2011


THƯ YÊU CẦU ĐÀI PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI (HanoiTV)

Đăng phát biểu của một số công dân liên quan đến nội dung chương trình phát sóng của HTV1 từ 18:42:16 đến 18:48:53 ngày 22-8-2011
Xin lỗi và cải chính vì HTV1 đã phát nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến công dân.

Kính gửi: ông Tổng giám đốc Đài Phát thanh Truyền Hình Hà Nội

Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, được biết HTV1 đã phát sóng vào ngày 22-8-2011 một nội dung liên quan đến những người biểu tình phản đối các hành động gây hấn của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với Việt Nam trong thời gian vừa qua (cùng với một số chương trình có nội dung tương tự khác). Trong buổi phát sóng này, HTV1 có đưa hình ảnh của nhiều người biểu tình, trong đó có ảnh của các ông Nguyên Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Văn Khải. Chương trình này có những lời bình của HTV1 và ý kiến của một số người như sau:

Lời bình của HTV1: 18:42:37
… “Thời gian gần đây lợi dụng vỏ bọc yêu nước một nhóm người bị các thế lực phản động trong nước và nước ngoài kích động đã tụ tập biểu tình hòng lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin không nắm bắt thông tin đầy đủ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, cản trở và chống đối lực lượng chức năng làm nhiệm vụ.” ….
18:43:14 - Ông Nguyễn Đức Thành, một cựu chiến binh phát biểu: về những người biểu tình “…dâng khẩu hiệu và nói bậy nói bạ… ”
Lời bình của HTV1: 18:44:03
… “là những người con của Hà nội đã từng cầm súng ra trận bảo vệ tổ quốc các cựu chiến binh như ông Khoa ông Thành vô cùng bức xúc trước những hành động tự phát của một số kẻ xấu đã chà đạp lên tình cảm yêu nước chân chính của người dân Thủ Đô. Để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc hơn bao giờ hết lúc này mỗi người dân Hà Nội đang chúng sức chung lòng nỗ lực phấn đấu lao động sản xuất và chiến đấu quyên mình, chính vì vậy trước hành vi của một nhóm người tập trung trái phép mang theo băng rôn biểu ngữ và hô khẩu hiệu gây mất an ninh trật tự khiến cho nhân dân trong khu vực hết sức bất bình.”
18:44:57 - Bà Nguyễn Thị Đài: “theo tôi nghĩ thì ở đây có một sự kích động nào đấy của các thế lực phản động chứ không phải là yêu nước. … chính quyền bây giờ phải dẹp mà kiên quyết với những phần tử phản động ấy chứ không nếu không cứ lan tràn ra những lớp thanh niên trẻ là họ không có nhận thức đúng đắn được thì nói chung là nhiều khi là nguy hiểm”.
Những nội dung trên rõ ràng đã xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến chúng tôi, những người tham gia những cuộc biểu tình trên.
Thực tế, những cuộc biểu tình trên đã diễn ra một cách ôn hòa, trật tự. Chính Trung Tướng Nguyễn Đức Nhanh, giám đốc công an Hà Nội đã công nhận như vậy trước báo chí ngày 2-8-2011. Thành phần tham gia biểu tình có nhiều cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, nhà khoa học, nhà văn, sinh viên, học sinh và nhiều người thuộc các tầng lớp nhân dân khác. Khẩu hiệu đều tập trung lên án các hành động sai trái từ phía Trung Quốc, hát các bài ca yêu nước. Đông đảo khách du lịch quốc tế chứng kiến đều có thái độ khâm phục những cuộc biểu tình diễn ra trật tự và văn minh. Nhiều báo quốc tế đã đăng tin về những cuộc biểu tình ôn hòa này và nhấn mạnh nhà nước Việt Nam đã không ngăn cản phần lớn những cuộc biểu tình đó.
Vì vậy chúng tôi yêu cầu Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội căn cứ vào Điều 9 Luật Báo Chí (do Quốc Hội ban hành năm 1989 và được sửa đổi, bổ sung năm 1999), và Điều 4 của Nghị định số 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo Chí:
-        Đăng phát biểu này của chúng tôi;
-         Xin lỗi chúng tôi và cải chính vì HTV1 đã phát nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến chúng tôi.
Trong trường hợp Quý Đài không đáp ứng yêu cầu trên, vi phạm Luật Báo Chí, chúng tôi sẽ sử dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm của lãnh đạo Đài và những người liên quan đến việc thực hiện chương trình trên.
Chúng tôi cũng giữ quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những cá nhân đã phát biểu vu khống chúng tôi trong chương trình trên và các chương trình tương tự khác.
Để làm rõ hơn những vấn đề liên quan chúng tôi đề nghị ông Tổng giám đốc Đài tiếp và trao đổi với những người tham gia các cuộc biểu tình trên tại Quý Đài vào 15 giờ 30 ngày Thứ Ba, 30-8-2011, nhằm tránh những phát sinh, hiểu lầm phức tạp có thể xẩy ra.
Kính chào Ông.
Những người ký tên vào thư yêu cầu này:
Nguyên Ngọc
Nguyễn Đăng Quang
Nguyễn Huệ Chi
Nguyễn Quang A
Nguyễn Văn Khải (xác nhận qua điện thoại)
Phạm Xuân Nguyen
Vũ Ngọc Tiến
Nguyễn Xuân Diện
Lê Dũng
Nguyễn Đức Mậu
Bùi Thị Minh Hằng
Nguyễn Chí Đức
Phạm Văn Chính
Nguyễn Tiến Nam
Lã Việt Dũng
___________________
Sáng nay, văn thư này đã được gửi (qua bưu điện) đến TGĐ Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội và trực tiếp trao tay Ông Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội