Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

BÙI CÔNG TỰ: NHỮNG THÁCH THỨC ĐANG CHỜ ĐỢI CHÍNH PHỦ MỚI


MỘT GÓC NHÌN KHÁC VỀ NHỮNG THÁCH THỨC CHỜ ĐỢI CHÍNH PHỦ MỚI

Bùi Công Tự


Vừa qua GS Nguyễn Minh Thuyết và nhà nghiên cứu Phạm Chi Lan, mỗi người bằng cách nói riêng, đều đã đưa ra “năm thách thức” đối với chính phủ nhiệm kỳ II của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nội dung được đăng tải trên nhiều phương tiện thông tin, trong đó có Nguyễn Xuân Diện blog.

Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của hai vị học giả. Tuy nhiên nhận thấy do là bài trả lời phỏng vấn, nội dung phụ thuộc vào cách hỏi ý kiến của nhà báo, cho nên cả GS Nguyễn Minh Thuyết và bà Phạm Chi Lan đều chưa có điều kiện phân tích các nguyên nhân đưa đến những thách thức đó.

Tôi liên tưởng đến cách làm phim của các nhà điện ảnh. Khi quay phim, người ta đặt máy quay ở nhiều góc độ, xa gần khác nhau. Tôi cũng muốn từ một góc nhìn khác (với hai tác giả nói trên) để đưa ra những nhận định của mình đối với những thách thức của hiện tình đất nước đang chờ đợi tân chính phủ.

Những ý kiến của tôi được hệ thống thành “năm thách thức” như sau:

1-Thách thức thứ nhất là sự suy giảm lòng tin của nhân dân.

Điều này đã được nhiều người phản ánh, mới đây nhất là phát biểu của nhà sử học đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc tại Quốc hội ngày 6/8/2011.

Nỗi bức xúc của người dân có thể thấy ở khắp nơi, trong mọi giai tầng xã hội. Nguyên nhân làm cho dân chúng bất bình là tổng hợp tất cả những vấn nạn kinh tế xã hội càng ngày càng nhức nhối, chưa thấy có lối thoát. Người dân tự hỏi, không hiểu lãnh đạo tài giỏi thế nào, ổn định vĩ mô ra sao mà lạm phát nước ta giờ đây đang cao nhất châu Á, đứng thứ nhì thế giới. Giá cả tăng chóng mặt làm cho mâm cơm cũng bị xuống cấp. Trái khoáy là đến nông dân là người làm ra lúa gạo mà cũng bị đói.

Có nhận xét là sự mất lòng tin với lãnh đạo lại phổ biến hơn ở các tầng lớp trung lưu, các doanh nhân, trí thức, hưu trí, sinh vên. Tầng lớp này có thể không khó khăn lắm về đời sống vật chất nhưng họ có nhu cầu đòi hỏi cao hơn về những quyền tự do dân chủ. Họ không chấp nhận sự trì trệ quá dài cũng như họ trăn trở trước nguy cơ mất độc lập chủ quyền của đất nước.

Trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet mới đây, GS Nguyễn Minh Thuyết nói: ”Lúc này lúc khác, đã có hiện tượng dân chưa thật tin vào lãnh đạo và ngược lại, lãnh đạo cũng chưa thật tin vào dân. Nếu không khắc phục được hiện tượng này thì làm sao củng cố được khối đại đoàn kết dân tộc”.

Tôi xin bổ sung thêm là: Nếu chính quyền để mất lòng tin của dân thì mục tiêu “chính trị - xã hội ổn định” đã đề ra cũng không thể thực hiện được.

Tất nhiên không phải chính quyền mong muốn ổn định để phát triển mà nhân dân lại càng mong muốn ổn định để làm ăn. Dân như rừng cây, mà cây thì bao giờ cũng mong gió lặng. Tuy nhiên đôi khi sự mất ổn định lại không phải gây ra từ phía dân chúng.

2-Thách thức thứ hai là một bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả:

Chính phủ khóa XIII có 22 bộ trưởng, trong đó có 15 vị là người mới được bổ nhiệm lần đầu. Chúng ta có câu “tân quan tân chính sách” có nhân sự mới chắc là có cách làm việc mới, đường lối mới. Đó là điều chúng ta chờ đợi.

Hiện nay đã xây dựng chính phủ điện tử. Máy tính giúp xử lí công việc hành chính, văn phòng nhanh hơn rất nhiều. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ máy móc mà là ở chỗ cái đầu con người, nhất là người đứng đầu. Tức là chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ra sao ? Có ý kiến nhận xét (chưa được kiểm chứng) là phần đông quan chức của ta là “quan chức trục lợi”. Tức là họ làm việc không phải vì nhiệm vụ, trách nhiệm với nhân dân mà là vì lợi ích riêng của họ. Vì thế tham nhũng trở thành quốc nạn. Đó cũng là hệ lụy của tình trạng mua quan bán chức, phe nhóm bè cánh, “con cháu các cụ cả”.

Báo Tuổi trẻ ngày 21/7/2011 đưa tin một vị thứ trưởng bộ Tài nguyên môi trường, đã phê bình nhiều đơn vị, đặc biệt là lãnh đạo đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong bộ không thực hiện nghiêm chinh kỷ cương công việc, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm, thiếu quan tâm đến công việc của ngành.

Tôi cho rằng đó là tình trạng chung ở nhiều bộ ngành chứ không chi riêng bộ Tài nguyên môi trường. Vì thế mới có chuyện thiếu kiểm tra, giám sát, hiện tượng đùn đẩy nhiệm vụ và trách nhiệm. Nhiều sai phạm không được uốn nắn, răn đe từ sớm, đến khi vỡ lở thì đã thất thoát của công quỹ nhiều ngàn tỷ đồng (như ở ngân hàng NN và PTNT, ở Công ty cho thuê tài chính ….). Nhiều hiện tượng rất cần sự can thiệp của nhà nước nhưng không thấy ai ra tay, chỉ đến khi báo chí báo động thì mới nhúc nhắc mà cũng chẳng giải quyết ra ngô ra khoai (ví dụ chuyện lao động người Trung Quốc không có giấy phép ở khắp nơi). Nhiều chủ trương, chính sách ban hành không kịp thời hoặc phi thực tế, bị phê phán. Đặc biệt là sự vi phạm pháp luật phổ biến và nghiêm trọng của chính những người trong ngành pháp luật.

Hậu quả là gì ?

Là một nền kinh tế được báo cáo là tăng trưởng nhưng nếu đem cân đối với lạm phát thì các chuyên gia nói rằng thực chất là tăng trưởng âm. Nó thể hiện ở các con số thua lỗ, nợ nần kéo dài, nhập siêu lớn, bội chi ngân sách, giá cả tăng cao, ….

Vụ Vinashin với khoản thất thoát 4-5 tỉ USD chi là trường hợp “một đồng chí bị lộ” mà thôi.

Đồng tiền thuế của người dân đóng góp còn phải nuôi nhiều loại cơ quan ban bệ mà dư luận cho rằng nếu giải tán các cơ quan ấy đi thì chẳng những không phương hại gì mà lại còn lợi ích hơn cho xã hội.

Lại có chuyện nhiều khi lãnh đạo đưa ra những cách ứng xử ở tầm thấp gây bất bình cho nhân dân nghĩ rằng những bộ óc của quốc gia quá lười suy nghĩ.

Vượt qua thách thức thứ hai này tức là chính phủ phải vượt qua chính mình.

3-Thách thức thứ ba là sự chi phối của các nhóm lợi ích vào hoạt động của chính phủ.

Các nhóm lợi ích ở đây bao gồm những người thân cận với lãnh đạo, các tập đoàn kinh tế (cả nhà nước và tư nhân). Về thách thức này, tôi xin trích dẫn dưới đây nhận định của TS Lê Đăng Doanh, nhà nghiên cứu kinh tế hàng đầu của nước ta, trong bài trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 22/7/2011, để bạn đọc tham khảo:

“Đó là các đại gia tư nhân, các nhóm lợi ích có thể ảnh hưởng đến các chính sách và những quyết định.  Ví dụ người ta nói quyết định mở rộng Hà Nội không do thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội khởi xướng, mà do một nhóm đại gia nào đấy đã có tính toán về việc mở rộng đất đai, gia đất sẽ lên và đã khởi xướng dẫn đến những quyết định như vậy”.

“Người ta cũng nói là quyết định đầu tư ở chỗ này, chỗ kia, ở sau lưng đó, đều có các đại gia tác động vào đấy. Tức là chính phủ áp dụng những cơ chế chính sách để phù hợp và đáp ứng lợi ích của một nhóm rất nhỏ chứ không tính đến lợi ích của đa số người dân”.

Sự câu kết nói trên cũng là nguyên nhân và cơ hôi cho những ca tham nhũng lớn, làm mục ruỗng đất nước, làm cho chính phủ đi chệch những mục tiêu tốt đẹp

4-Thách thức thứ tư là sự xuống cấp về văn hóa – giáo dục, y tế xã hội và sự gia tăng tội phạm.

Khi đọc các trí thức lớn đồng thời là những nhà yêu nước như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Ngọc Hiến, … tôi thấy các học giả quan tâm lo lắng rất nhiều về nền văn hóa dân tộc, không chi là văn chương, lịch sử, ngôn ngữ, phong tục, minh triết mà còn là vấn đề đạo đức xã hội và tương lai nòi giống.

Nhiều nhận xét nói rằng hệ thống giáo dục hiện nay là phi giáo dục, làm lệch lạc nhân cách, không đào tạo được cả nghề nghiệp cho thanh niên nói gì đến đào tạo nhân tài.

Ngành y tế tuy đó đây vẫn còn có người nhân đức nhưng số người thờ ơ với bệnh nhân, chi tìm cách moi tiền của bệnh nhân là số đông. Nếu bạn nhiều tiền thì dù chi nhức đầu sổ mũi cũng cho chụp cắt lớp, cộng hưởng từ. Nếu bạn nghèo khó thì khỏi phải nói số phận thế nào.

Về văn hóa có nguy cơ là người Việt quên hết quá khứ của dân tộc. Nền văn hóa cha ông bền bỉ âm thầm tạo dựng mấy nghìn năm có nguy cơ biến mất. Vấn đề này trừu tượng lắm, không biết ông bộ trưởng Văn hóa có nghĩ đến không?

Năm 1924, trong một bài viết về Nguyễn Ái Quốc, một nhà báo nước ngoài đã cho rằng Nguyễn Ái Quốc báo hiệu cho một nền văn hóa của tương lai.

Như thế mà hậu duệ của người lại có thể vô văn hóa ư ?

Nên nhớ rằng một quốc gia chi có thể được thế giới tôn trọng khi quốc gia đó có một nền văn hóa đáng nể.

5-Thách thức thứ năm là vấn đề quan hệ với Trung Quốc:

Đây là vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải, vấn đề thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc về nhiều phương diện.

Tôi vui mừng thấy chính phủ khóa XII đã mua được một số máy bay, tàu ngầm và các khí tài hiện đại hóa quân đội. Dã tâm tham lam của Trung Quốc trên biển Đông buộc chúng ta phải tăng cường vũ trang để bảo vệ Tổ quốc. Tôi cũng biết rằng tinh thần của chiến sĩ ta rất cao.

Chính phủ mới cần đấu tranh kiên quyết hơn trên mặt trận ngoại giao với Trung Quốc về vấn đề biển Đông.

Chỗ dựa của chính phủ là:

-         Lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của nhân dân
-         Sức mạnh kinh tế và quốc phòng
-         Các luật pháp quốc tế
-         Sự liên kết với các nước trong khu vực và thế giới

Điều đầu tiên cũng là điều cuối cùng là phải luôn luôn cảnh giác với mọi âm mưu và hành động của Trung Quốc. Trong khi tuyên bố hòa bình hữu nghị thì ở chỗ này chỗ kia họ vẫn rêu rao cần dạy tiếp cho Việt Nam bài học.

Tôi xin nhắn gửi đến ông bộ trưởng Ngoại giao một điều là dù chiến lược ngoại giao như thế nào cũng không được phép làm mất thể diện dân tộc.

Kết luận

Tình hình đất nước đang đặt lên vai ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các vị trong chính phủ khóa XIII một trách nhiệm nặng nề. Các vị đã không ngại vất vả tự nguyện gánh vác và đã gửi lời hứa đến quốc dân đồng bào.

Chúng tôi biết rằng các vị cũng xương thịt con người, cũng chỉ bấy nhiêu nơ-ron thần kinh như chúng tôi thôi, cho nên để hoàn thành trọng trách thì các vị phải lao tâm khổ tứ nhiều lắm, chứ chẳng sung sướng gì.

Nhân dân mong các vị đặt Tổ quốc lên trên gia đình, đặt cái chung lên trên cái riêng, đặt cái danh lên trên cái lợi.

Nhân dân có quyền đòi hỏi các vị như thế vì ở vào cương vị cao nhất của đất nước thì dứt khoát phải là những người có nhân cách như thế.

Thật ra nhân dân còn mong muốn nhiều hơn.

Vì chủ đề của bài viết là các thách thức cho nên tác giả chi nói đến những bất cập. Phải thanh minh như thế để bạn đọc khỏi quy kết tác giả nhìn đời bằng con mắt đen tối. Ở U70 mà vẫn múa bút là còn yêu cuộc đời này lắm đó. Mong được bạn đọc trao đổi thêm.


*Bài viết do tác giả Bùi Công Tự gửi trực tiếp NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

RFA: LUẬT SƯ TRẦN ĐÌNH TRIỂN BỊ TẤN CÔNG

RFA 
Luật sư Trần Đình Triển bị tấn công
Khánh An, phóng viên RFA
2011-08-08
LS. Trần Đình Triển và nhân viên vừa bị một nhóm người tự xưng là thương binh tấn công tại Văn phòng Luật Sư Vì Dân vào ngày 8/8/2011.

LS. Trần Đình Triển cho biết đây là lần thứ hai ông bị nhóm người trên tấn công và đe dọa, đòi ông phải bỏ qua vụ án chống tham nhũng đối với bà Đặng Thị Bích Hòa là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc cổ phần chuyển phát nhanh Bưu điện, mà ông đang làm luật sư tư vấn miễn phí. Đồng thời, những người tấn công còn gọi ông là “phản động” vì đã đứng ra làm luật sư bảo vệ cho TS luật Cù Huy Hà Vũ.

Thuê côn đồ hành hung?

Khánh An có cuộc phỏng vấn LS. Trần Đình Triển xung quanh vụ việc trên và được ông cho biết:

Sự việc là Công ty cổ phần phát triển nhanh có bà Đặng Thị Bích Hòa là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc cổ phần chuyển phát nhanh Bưu điện Hà Nội. Công ty này có vốn của nhà nước chiếm 70%, theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì là doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình bà độc đoán chuyên quyền, bà sử dụng những hóa đơn giả, những khoản chi giả rút ra vài tỷ đồng để tiêu.

Thậm chí, bà ấy lập ra những đại lý ảo để làm dịch vụ và tiền thì bỏ túi. Bà lợi dụng chức vụ để tổ chức những đoàn đi nước ngoài, chi tiêu một cách khủng khiếp tiền của nhà nước. Rồi những phương tiện, công cụ, kỹ thuật thì không nhập tiên tiến ở các nước mà móc ngoặc để nhập những đồ giả dối của Trung Quốc về, chênh lệch ra để ăn chia.

Những khoản tiền như vậy làm thất thoát của nhà nước vô cùng lớn. Nhưng bà này có mối quan hệ rất rộng, thậm chí nói hơi xúc phạm đến phụ nữ một chút, là bà có một chút nhan sắc và có lẽ là cũng quan hệ đi lên bằng chút nhan sắc ấy.

Lấy ví dụ như ông Trần Văn Tuấn, cách đây mấy hôm ông mới mất chức bộ trưởng thôi. Trước đây ông ấy là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, làm công tác tổ chức của chính phủ, thì con của ông Tuấn học ở nước ngoài, điện thoại của con ông Tuấn là một tháng 38 triệu đồng, lấy tiền từ công ty đó thanh toán hộ.

Tất cả những việc làm đó, ban đầu có khoảng 80 người lao động trong công ty đã làm đơn gửi đi các nơi để tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đó. Ngay lập tức, bà thảo ra mẫu đơn và yêu cầu những người tố cáo đó tự lên rút đơn, còn nếu không rút đơn thì bà đuổi ra khỏi cơ quan. Trong đó có 12 người cương quyết giữ quan điểm, làm đơn khiếu kiện lên các cấp. Ngay lập tức, bà ra quyết định sa thải 12 người này, trong đó có 1 phó tổng giám đốc và một trưởng phòng.

Trước sự kêu than của người lao động họ đến văn phòng luật sư thì tôi chấp nhận làm miễn phí cho họ toàn bộ. Những chứng từ, tài liệu, hóa đơn giả đó đã được gửi đi cách đây 6 tháng. Cũng được biết là bên Bộ Công An cũng đã triển khai xác minh và cũng đã có bằng chứng rồi nhưng không hiểu sao 6 tháng nay vẫn chưa khởi tố vụ án.

Bắt đầu từ 5/4, một đoàn thương binh khoảng 20 người đến trấn áp văn phòng luật sư (Vì Dân), trấn áp tôi và đề nghị bỏ sự việc đó ra. Nhưng lần đó tôi có giải thích thì các anh nghe và có một anh lớn tuổi gọi tôi ra bảo với tôi: “Triển ơi, anh biết chú thẳng thắn và rất trung thực, vì nước vì dân. Anh thấy rằng chú cũng đã giúp rất nhiều gia đình liệt sỹ và thương binh miễn phí. Bọn anh nghèo, họ thuê một người 2 triệu thì bọn anh đến đây thôi chứ bọn anh không làm gì chú”. Vì họ nói như vậy nên tôi không có một ý kiến gì với các cơ quan nhà nước cả.

Sáng nay, họ kéo đến thì tôi đang bận viết một văn bản ở nhà, tôi chưa sang văn phòng. Khi tôi sang thì thấy cũng lại số người đó ở chật cả văn phòng, họ khống chế nhân viên văn phòng không được đi ra và không được gọi điện, thậm chí cầm điện thoại họ còn giằng và đập xuống. Khi tôi vào thì họ vây quanh, họ dùng 2 gậy thục vào bụng. Một người cầm bút kiểu như vật sắt nhọn đòi đâm mù hai mắt tôi. Lúc đó có một số thân chủ họ can thiệp, tôi cũng nói rất khẳng khái về chuyện đó và cũng nhờ hàng xóm và một số người khách họ gọi điện cho công an phường và cảnh sát 113. Sau đó, thấy công an đến thì họ thông báo cho nhau, bởi vì họ có cả những người theo dõi từ phía ngoài ngõ nữa, cho nên họ kéo đi một cách lặng lẽ.

Vì sao?

Khánh An: Vâng, thưa luật sư, trong vụ việc vừa rồi, nhóm người đến đe dọa và tấn công luật sư và các nhân viên thì họ có nói rõ ràng là do vụ của bà Hòa hay còn có liên quan đến những vụ việc khác mà luật sư giữ trọng trách bào chữa không?

LS. Trần Đình Triển: Bây giờ cũng có một sự có lẽ là ngẫu nhiên hay là sự tính toán của bà Đặng Thị Bích Hòa thì tôi không biết, bởi vì lần trước là mùng 2/4 (4/4) xử vụ án của anh Cù Huy Hà Vũ thì mùng 5 họ đến. Lần này, xử vụ án anh Cù Huy Hà Vũ từ mùng 2 thì hôm nay là mùng 8 họ đến. Tôi thì tôi không tin, không có quan điểm lẫn lộn giữa hai việc.

Nhưng trong đó có một người cũng rất to cao, không biết họ có là thương binh hay không, thì họ nói với tôi một câu là: “Mày bảo vệ ông Cù Huy Hà Vũ, mày là thằng phản động, cho nên bọn tao đến đây có thể giết chết mày mà không ai thương!”. Tôi thì tôi không tin vào lời của họ. Có thể hai vụ việc là độc lập nhưng họ mượn hơi, mượn lời họ nói thì tôi cũng không nghi vấn việc đó. Nhưng đây là một sự việc mà đối với những người hoạt động luật sư để góp phần bảo vệ công lý như chúng tôi hiện nay là sinh mạng của chúng tôi đang bị treo đầu sợi dây, rất nguy hiểm.

Khánh An: Đã rất nhiều vụ việc gần đây xảy ra liên quan đến những nhóm có những hành động côn đồ, bây giờ chính ông lại bị một sự việc như vậy tại văn phòng, thì ông đánh giá thế nào về tình trạng côn đồ hiện nay xuất hiện và ra tay một cách trắng trợn, công khai như thế?

LS. Trần Đình Triển: Thời gian gần đây tôi thấy những hoạt động mang tính chất côn đồ, hung hãn đó diễn ra rất nhiều, không những họ trả thù lẫn nhau mà thậm chí họ còn dùng việc đó đối với ngay những người thi hành công vụ, đối với những luật sư như chúng tôi hay những nhà báo… Đây là sự việc hết sức đau lòng.

Tôi cho rằng để hạn chế việc đó thì trước hết là phải nâng cao dân trí. Tôi đã từng kiến nghị là phải làm thế nào nâng cao đạo đức giữa con người với con người. Bên cạnh đó, công tác bảo vệ pháp luật của chúng ta phải triển khai nhanh chóng, kịp thời và phải xử lý nghiêm minh để làm bài học, răn đe kẻ khác. Tôi thấy rằng cả hai công việc đó lâu nay chúng ta chưa làm một cách đồng bộ và hiệu quả chưa cao.  

Nguy hiểm tính mạng

Khánh An: Luật sư được biết đến như là một luật sự luôn ra tay bênh vực cho rất nhiều những trường hợp oan khuất, oan sai và những người thấp cổ bé miệng để chống lại những người có thế lực. Như vậy sau sự kiện ông bị côn đồ đe dọa, có thể nguy hiểm đến tính mạng như thế này thì ông có chút e ngại nào đối với những vụ án đang đảm trách không?

LS. Trần Đình Triển: Thực sự, nếu e ngại thì cũng có. Trước hết, đối với văn phòng luật sư thì tôi cũng nói với tất cả mọi người là những nhân viên làm việc cho tôi là tôi không trả lương, không có lương, mà chủ yếu là những thân chủ mà tôi giúp miễn phí hay giúp họ những việc oan khuất, họ thấy thương tôi và họ đến họ làm việc không công cho văn phòng.

Còn các luật sư khác cộng tác thì các luật sư cứ đến làm việc, nhận việc và luật sư đi làm. Tôi không trích lại bất cứ phí nào của luật sư cả. Đó là cách làm việc của tôi. Bây giờ để mà làm công tác bảo vệ, thuê người bảo vệ thì văn phòng không có lương để trả. Những lúc tôi đi công tác hay cá nhân tôi cũng có những điều rủi ro có thể xảy ra, cái đó cũng không ai biết được.

Còn đối với lương tâm và trách nhiệm của tôi thì ở đây mình đóng góp những tri thức mà nhà nước và nhân dân, cũng như cha mẹ cho mình ăn học, thì mình có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ pháp chế, bảo vệ nhân dân, thì tôi không sợ bất cứ một việc gì cả. Cho dù có xảy ra như thế, xảy ra nữa thì công việc tôi tôi vẫn cứ làm. Tôi vẫn có trách nhiệm để bảo vệ sự trong sáng của pháp luật, bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước.

Khánh An: Vâng, cám ơn LS. Trần Đình Triển đã dành thời gian cho đài.

Theo RFA.


Nguồn: Anh Ba Sàm.

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

BBC ĐƯA TIN: LUẬT SƯ TRẦN ĐÌNH TRIỂN BỊ TẤN CÔNG

Ls Trần Đình Triển nói ông 'bị tấn công'
Cập nhật: 09:14 GMT - thứ ba, 9 tháng 8, 2011
LS Trần Đình Triển 
LS Triển đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án thu hút chú ý của dư luận 

Trưởng văn phòng Luật Vì dân Trần Đình Triển nói ông bị một nhóm người bao vây và đe dọa vì bảo vệ người tố cáo tham nhũng. 

Ông Triển, người tham gia nhiều vụ án gây chú ý của dư luận, nói lần này ông tư vấn cho các nguyên đơn tố giác bà Đặng Thị Bích Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Quản trị và đồng thời là Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Chuyển phát nhanh Bưu điện đã "tham nhũng hàng tỷ đồng".

Ông nói kết quả là ông đã bị một nhóm người tự nhận là thương binh tấn công hai lần, lần mới nhất xảy ra hôm thứ Hai 08/08.

LS Trần Đình Triển nói với BBC từ Hà Nội: Câu chuyện này liên quan bà Đặng Thị Bích Hòa, bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Chuyển phát nhanh Bưu điện.

Văn phòng Luật sư Vì dân có đầy đủ bằng chứng (về việc tham nhũng hàng tỷ đồng trong công ty này) trên cơ sở trên đơn khiếu tố khiếu nại của 80 người lao động trước đó và sau này là 12 người khác.

Họ cương quyết bảo vệ quan điểm của họ, và VP Luật sư Vì dân đã có văn bản đến các cấp có thẩm quyền và cũng đã làm việc với các cơ quan có thẩm quyền về những tài liệu này.

BBC: Việc mà ông gọi là bị tấn công đã xảy ra như thế nào, thưa ông?

LS Trần Đình Triển: Hai lần họ đã đến VPLS Vì dân. Hôm 5/4/2011, họ kéo khoảng 20 người mà họ nói là thương binh, đi xe ba bánh, đứng đầy văn phòng và họ định áp đặp VPLS với một điều kiện là phải cam kết rút ngay ra khỏi vụ việc chống tham nhũng của bà Đặng Thị Bích Hòa.

Tôi cương quyết không bao giờ làm như vậy với phân tích là: "Các anh đã hy sinh cho đất nước này, tôi là thế hệ sau thì không nỡ gì các anh phải đến đây áp đặt tôi phải làm việc như vậy cả".
Không ngờ, ngày hôm qua, họ cũng kéo đến đây và không những số lượng như hôm trước mà còn nhiều hơn.

Thậm chí có những người tôi khẳng định không thể là thương binh được mà phải gọi là xã hội đen. Họ rải từ văn phòng tôi ra đến đầu đường, khi tôi sang thì họ đã vây đầy văn phòng tôi.

Tôi vừa mới ngồi xuống rót nước mời họ để nói chuyện tử tế thì ngay lập tức họ sử dụng hai người dùng hai gậy đâm thẳng vào bụng tôi và một người dùng vật nhọn mà tôi nghi có thể là cây bút hoặc có thể là vật nhọn gì đó, dí vào mặt tôi và dọa đâm thủng hai mắt của tôi.

Họ đưa ra một yêu sách, thậm chí họ định cầm bút viết lên tường là: nghiêm cấm VPLS Vì dân không được đụng đến bà Đặng Thị Bích Hòa và họ ép tôi phải viết như thế.

Tôi bảo là không bao giờ.

Tôi đang vì đảng, vì nước vì dân, kể cả hy sinh tôi chấp nhận, còn không bao giờ tôi làm cái việc mà để đang chống tham nhũng mà tôi phải quỳ gối van xin và tôi phải rút lui chuyện đó cả.

Dân ở đây cũng như một số khách hàng thấy tình cảnh như thế đã gọi cho 113 và công an phường Trung Tự, thì anh em 113 và công an phường Trung Tự rất nhanh chóng triển khai lực lượng để đến và cuối cùng họ đã rút lui.

BBC: Vậy luật sư sẽ làm thế nào để đề phòng nguy cơ trong tương lai vì có thể nó sẽ lại xảy ra lần nữa ạ?

LS Trần Đình Triển: Tôi là một công dân, tôi đã sống vì Đảng, vì nước, vì dân, tôi đang làm theo lý tưởng của Đảng, thì tôi không sợ bất cứ một điều gì, nhưng trước hết, về trách nhiệm, nhà nước phải bảo vệ công dân.

Nhà nước và Đảng phải có trách nhiệm bảo vệ tôi.

Thứ hai, tôi cũng mong muốn đồng bào nhân dân bên cạnh tôi, ủng hộ tôi làm những việc gì tôi vì dân tộc, vì đất nước, vì nhân dân. Do đó, tôi chiến đấu đến cùng vì lý tưởng, vì dân tộc Việt Nam, vì đất nước Việt Nam.
Nguồn: BBC Việt ngữ.

 

NHỮNG CUỘC BIỂU TÌNH YÊU NƯỚC - Thơ

Những cuộc biểu tình yêu nước
Trần Xuân An

đầu quân vì Hoàng Sa,
              nay tóc đã trắng phơ
vào lính bởi Trường Sa,
              giờ đã mang kính tuổi
chờ lệnh tiến công,
              chờ đến rã rượi
Tàu chiếm đảo nghênh ngang,
              ta chỉ biết ngó trời!


đã ba mươi bảy năm,
              hai mươi ba năm rồi
đến lúc trên Biển Đông,
              Tàu thè ra lưỡi quỷ
sĩ dân nổi dậy biểu tình,
              như thời Pháp Mỹ
lệnh tái chiếm đâu?
              chỉ đàn áp sĩ dân?


bất ngờ họp báo,
              buông lời khéo cho nhẹ tội và trấn an?
đâu đó đồ chừng phép thử của ai kia?
              chẳng rõ
trang báo thì mờ,
              hiện thực rất tỏ
lính đọc vào “bạn dân”,
              đọc vào những đảo máu xương ta
              vẫn ngang ngược giặc Tàu!


lẽ nào ta buồn, lại bảo chẳng buồn đâu
ba mươi bảy năm, hai mươi ba năm,
              và còn bao lâu nữa?
nào phải “ta chống ta,
              vì phải chống Tàu”
              – nhớ thời vua quan máu ứa –
“Tiến quân ca”, “Dậy mà đi”
              hát suốt chuỗi tuần hành!

12: - 14:10, ngày 08-8 HB11
Trần Xuân An

PHẢN ĐỐI! PHẢN ĐỐI! PHẢN ĐỐI!

 Người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Nguyễn Phương Nga. Ảnh: TTXVN

Việt Nam phản đối TQ khảo sát tại khu vực Trường Sa, Hoàng Sa 

SGTT.VN - Ngày 8.8, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước sự việc tàu thăm dò "Tan Bao Hao” tiến hành đo đạc, khảo sát khoa học từ vùng biển phía Tây quần đảo Hoàng Sa đến phía Bắc quần đảo Trường Sa , người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga nói Việt Nam phản đối các hoạt động của Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền.

Trước đó, Tân Hoa Xã (Trung Quốc) đưa tin từ ngày 13.6 đến ngày 30.7.2011, Cục thăm dò địa chất Trung Quốc hợp tác với phía Pháp đã sử dụng tàu thăm dò “Tan Bao Hao” tiến hành đo đạc, khảo sát khoa học từ vùng biển phía Tây quần đảo Hoàng Sa (bản tin của Tân Hoa xã gọi là “Tây Sa”) đến phía Bắc quần đảo Trường Sa (bản tin của Tân Hoa Xã gọi là “Nam Sa”).

“Về các hoạt động của tàu “Tan Bao Hao”, đại diện bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp phía Trung Quốc nêu rõ quan điểm của Việt Nam, phản đối các hoạt động của phía Trung Quốc vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay và không để tái diễn các hoạt động tương tự", người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga nói. 


ĐẠO DIỄN ĐỖ MINH TUẤN: NHỚ TIẾC ANH MAI XUÂN HẢI

NHỚ TIẾC ANH MAI XUÂN HẢI
 Đỗ Minh Tuấn

Được tin anh Mai Xuân Hải qua đời, tôi thấy buồn và tiếc vì trong nhiều năm qua, do cuộc sống và công việc cuốn đi theo những ngả xa xôi khác, tôi đã không mấy khi gặp lại anh. 

Tôi thân với anh Hải từ khi ở Viện Triết, thỉnh thoảng đến nhà anh đàm đạo chuyện đời và chuyện triết học. Anh có nhiều điều chia sẻ với cách nghĩ của tôi. Khi cuốn "Phúc thẩm án Juda" của tôi  bị đánh tơi bời ở Viện Triết, bị cơ quan kỷ luật, tôi có đưa cho anh đọc, lúc ấy chỉ là bản chép tay, chưa có vi tính. Anh hào hứng đọc một mạch suốt đêm, đánh giá cao và động viên tôi đừng vì áp lực kỷ luật của cơ quan mà bỏ cái tư duy này, "nếu Tuấn ở Pháp thì có khi cánh trẻ nó sẽ tôn là thần tượng như Jean Paul Sartre ấy chứ". Đó là cuối thập kỷ 70. Trong bối cảnh cả cơ quan họp nhiều lần để phân tích phê phán cuốn sách của tôi, nhiều người chân tình khuyên hãy thay đổi tư duy, nghĩ những gì thực tế,  dễ hiểu, gần với  đời sống xã hội, “vì đây là Việt Nam”, thì anh Hải lại khuyên tôi một lời khuyên từ những mối quan tâm và tầm nhìn triết học. Lời động viên mạnh mẽ và quyết liệt bất chấp áp lực của cuộc sống hiện thực trong lúc gian nan nhất của đoạn đời lúc ấy đã tiếp thêm năng lượng, làm tôi tự tin tiếp tục cách suy nghĩ lật ngược vấn đề từ tầm nhìn văn hóa và triết học, theo logic triết học, bất chấp cách hiểu thực dụng, cách quy kết chính trị theo kiểu “Ám chỉ gì? Chúa là ai? Juda là ai trong xã hội này?”

Mai Xuân Hải có dáng dấp và khí chất của một vị thiền sư chân tu. Dù sau này ít gặp anh, tôi vấn giữ nguyên ấn tượng về một con người mảnh khảnh, luôn xách cái túi vải đựng sách vở và tài liệu, mắt u uẩn nhưng sáng rực như có ánh sáng từ thế giới văn hóa luôn tỏa rạng.Và không thể quên nụ cười anh, nụ cười cởi mở chân thành có pha chút khổ đau truyền kiếp theo tinh thần Phật giáo. Nụ cười ấy nở trên môi của một con người bình dị mang trí huệ sáng láng của thiền sư bay là là trên cõi đời khổ hạnh này với một niềm độ lượng pha lẫn chút bần thần cam chịu. Ánh mắt ấy và nụ cười ấy là cánh cửa mở ra một cách khiêm nhường cho những gì anh tri kỷ và tin cậy, nhưng tiếc rằng, đã từ lâu cuộc sống xô bồ với bao nhiêu lo toan và sóng gió của đời thường và sự nghiệp đã cuốn tôi xa anh, xa những kiếp người cao quý thầm lặng như anh.

Anh Hải ơi! Không biết trước khi xa cõi tạm này anh còn giữ nguyên nụ cười và ánh mắt kỳ lạ ấy không? Anh là  một con người đôn hậu, sâu sắc và bình dị, cả cuộc đời cặm cụi âm thầm khai thác tài nguyên văn hóa để làm đẹp cho đời và làm hành trang cho con cháu. Anh sẽ sống mãi trong ký ức của tôi và của những người hơn một lần được tỏa rạng trong ánh sáng văn hóa dịu lành kín đáo của riêng anh mà không hề biết mình đã có lúc bước vào cõi tịch nhiên tịch lặng của một người ngộ đạo.

Xin được thành kính chia buồn cùng gia đình anh Mai Xuân Hải. 

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

GS NGUYỄN MINH THUYẾT: TƯỞNG NHỚ BẠN HIỀN MAI XUÂN HẢI

TƯỞNG NHỚ BẠN HIỀN MAI XUÂN HẢI

Nguyễn Minh Thuyết

Thế là thêm một người bạn nữa ra đi. Giờ phút đau buồn này, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi chỉ thấy hiện lên những hình ảnh đẹp nhất về anh - người bạn hiền Mai Xuân Hải.

Không có hình ảnh ốm đau. Không bình thở ô xy. Không bơm cháo bơm sữa. Chỉ có một Mai Xuân Hải tươi tắn, trẻ trung, dịu hiền, đôn hậu.

Anh hơn tôi 4 tuổi, lên Việt Bắc trước tôi 3 năm. Bạn bè cùng Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Việt Bắc trước đây thường gọi anh là Mai Hải để phân biệt với một anh Hải khác cùng tổ Trung văn (sau trở thành bộ môn Hán Nôm) là Thanh Hải. Năm 1976, tôi về Hà Nội học tiếng Nga chuẩn bị đi nghiên cứu sinh, còn anh chuyển về Hà Nội “hợp lý hoá gia đình”. Thân mẫu anh chỉ có mình anh. Phúc đức, những năm cuối đời Cụ được sống an bình bên con trai, con dâu và các cháu nội. Những năm ấy, ai đã đeo ba lô lên công tác Việt Bắc mà xin về quê được là may mắn lắm. Mai Hải là một trong những người may mắn như vậy. Không những thế, còn được về ngay Viện Nghiên cứu Hán Nôm, một trung tâm nghiên cứu sang trọng.

Tính ra, tôi sinh hoạt cùng chi đoàn, ở cùng khoa với Mai Hải 7 năm, từ những ngày sơ tán ở Đức Lương, rồi tới Hái Hoa, Động Đạt, cuối cùng trở lại Mỏ Bạch, chỗ Trường có trụ sở nguy nga, bề thế bây giờ. Ngay từ những ngày đầu, tôi đã mến tính anh, một chàng trai Hà Thành tài hoa và nho nhã. Nói về sự nho nhã, có một kỷ niệm về những chàng trai Hà Nội chúng tôi trên “chiến khu” ngày ấy mà bây giờ nhớ lại tôi vẫn ngạc nhiên và buồn cười. Số là có lần, một anh trong chi uỷ – một người anh đôn hậu mà tôi rất mến – thành thật bảo tôi: “Cậu làm việc thì được, sống thì chan hoà. Anh em chi bộ không chê gì. Nhưng có người băn khoăn là cậu lịch sự quá, không biết có chân thật không.” Nhưng so với Mai Hải thì cái “lịch sự” của tôi ăn thua gì. Ở anh có cái lịch thiệp của một người xuất thân từ gia đình nề nếp, lại có cái lịch lãm của một trí thức và cái cốt cách nho nhã của một “ông đồ”. Anh cũng mấy lần được chi bộ nâng lên đặt xuống, nhưng hình như chưa kịp bén duyên.

Mai Hải có một sự ham học kỳ lạ. Anh tốt nghiệp Trung văn, tức là tiếng Hán hiện đại. Vốn Hán cổ và Nôm tự học là chính. Thế mà sau này anh trở thành một chuyên gia giỏi của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tác giả nhiều sách dịch và bài nghiên cứu. Ngoài Hán Nôm, anh còn ham đọc sách Phật, sách Lão và học thêm ngoại ngữ. Ngay những năm bom đạn đùng đoàng, anh hăm hở rủ tôi và mấy bạn cùng lứa tìm thầy học tiếng Anh, tiếng Pháp. Thầy tiếng Anh đầu tiên của chúng tôi là cụ Vy Quốc Bảo, thân phụ hoạ sĩ Vy Quốc Hiệp ở Đà Lạt. Còn thầy tiếng Pháp đầu tiên là thân phụ một sinh viên khoá 4 của Khoa. Bác là cán bộ kỹ thuật của Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, và cũng mở lớp dạy chúng tôi ở Nhà máy giấy luôn. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mấy bài học đầu tiên ấy với lòng biết ơn về sự khai mở của các thầy và sự khích lệ của người bạn đồng hương Mai Hải.

Nhưng kỷ niệm thú vị nhất của tôi về Mai Hải không phải là chuyện “phấn đấu”, học hành mà là một cái Tết trên núi rừng Đức Lương (Thái Nguyên). Hồi ấy không hiểu sao sát Tết, anh em về hết rồi mà mấy đứa trẻ trẻ như chúng tôi vẫn còn ở lại. Tôi đang ngồi làm việc thì Mai Hải sang, bảo: “Mày có biết thịt lợn không? Tao nuôi con lợn, bây giờ phải thịt mang về ăn Tết, mà bọn nó về hết rồi.” Qua mấy năm rèn luyện nơi sơ tấn, tôi cũng có biết cái món này nên nhận lời giúp anh. Hai anh em khiêng con lợn ra giữa đồng làm lông, rồi mổ. Chợt anh hỏi: “Mày có hay bị say xe không?”. Tôi đáp: “Có. Hay say, khổ lắm.” Anh nói tiếp: “Tao nghe nói uống tiết đọng trong lồng ngực con lợn mới mổ thì hết say xe. Mày dám uống không?” “Uống chứ.” Thế là hai cái bát sắt B52 to đùng được lấy ra, mỗi anh múc một múc rồi … uống. Chẳng hiểu có phải nhờ thế không mà sau Tết ấy, tôi đi xe khách liên miên không bị say xe.

Chuyện chia ngọt sẻ bùi với Mai Hải đã 40 năm rồi. Bây giờ anh đã thoát lên tiên. Còn tôi cũng đã xế chiều. Nhắc lại chỉ để nhớ tới anh, một người bạn được tất cả anh em chúng tôi quý mến.

Cầu chúc linh hồn người bạn hiền của tôi được siêu thoát cõi vĩnh hằng.

Thành kính phân ưu cùng chị Giang và các cháu.

VĨNH BIỆT NHÀ NGHIÊN CỨU HÁN NÔM MAI XUÂN HẢI

 Tin buồn:
Chúng tôi đau buồn báo tin: Nhà nghiên cứu MAI XUÂN HẢI
Sinh ngày 29 tháng 01 năm 1944; cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm từ năm 1976 đến năm 2004;
đã từ trần vào hồi 14h45 ngày 07 tháng 08 năm 2011 tại Hà Nội.
.
Lễ viếng từ 07h ngày 8 tháng 8 đến 07h ngày 9 tháng 8 năm 2011 
tại nhà riêng: Số 60 ngõ 5 đường Trường Chinh, Hà Nội,
 .
Lễ truy điệu vào hồi 08h ngày 9 tháng 8 năm 2011 tại nhà riêng.
An táng tại Đài hóa thân hoàn vũ Hà Nội cùng ngày.
 .
Xin gửi đến bà quả phụ Mai Xuân Hải và các con cháu lời chia buồn sâu sắc.
Nguyện cầu chư Phật tiếp dẫn anh linh NNC Mai Xuân Hải về miền tịnh thổ!
_____________________________-
Nguyễn Xuân Diện:
Mai Xuân Hải là một trong những nhà nghiên cứu xuất sắc của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ông là một trong những chuyên gia hàng đầu về tác gia  - hoàng đế Lê Thánh Tông. Ông là người lĩnh hội được đầy đủ và trọn vẹn tinh thần của hoàng đế, thi sĩ Lê Thánh Tông qua từng câu chữ trong nguyên tác thơ văn. Mai Xuân Hải cũng là người am hiểu sâu sắc về Phật học, từng tham gia nhiều cuốn từ điển về Phật học và Tam giáo. 
Cuộc đời của ông, xuất thân từ lúc còn là giảng viên của  Đại học Sư phạm Việt Bắc (từ 1967 đến 1975) cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trước sau vẫn là một thư sinh suốt đời tìm kiếm những giá trị nhân văn cao đẹp mà người xưa đã từng gửi gắm trên mỗi trang thư tịch cổ. Với phong cách và hành xử nhẹ nhàng, dí dỏm, tinh tế, ông luôn được đồng nghiệp nể trọng mến phục. 
Vĩnh biệt ông, Nguyễn Xuân Diện - Blog xin trân trọng giới thiệu một bài viết của ông, về Hoàng đế - thi sĩ Lê Thánh Tông, dưới đây:
BÀI VĂN KHUYÊN CHĂM HỌC CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG
MAI XUÂN HẢI

Lê Thánh Tông là vị vua thứ 4 triều Lê. Ông là con thứ 4 của vua Thái Tông, sinh ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442)(2), lên ngôi vua từ năm Canh Thìn (1460), cho tới khi mất là ngày 29 tháng giêng năm ĐinhTị (1497), lấy niên hiệu là Quang Thuận (1460-1469), và Hồng Đức (1470-1497), ở ngôi 38 năm, hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất được tôn phong miếu hiệu là Thánh Tông Thuần Hoàng Đế. Trong thời gian 38 năm trị vì, ông đã thực hiện nhiều cải cách, nhiều biện pháp đổi mới ở tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế cho tới văn hóa, giáo dục, trong vòng ba thập kỷ đã đưa nước ta trở thành một nước hùng mạnh vào bậc nhất trong khu vực thời bấy giờ. Nhiều chính sách, chế độ, luật lệ... của thời đại ông đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đến các đời sau. Ông còn sáng tác nhiều thơ Hán, là một tác giả văn học lớn nhất trong lịch sử văn học nước ta giai đoạn nửa sau thế kỷ XV.

Tài năng và sự nghiệp của ông, cùng những đóng góp của ông cho đất nước được mọi người đánh giá cao. Nhà sử học đương thời Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Nhà vua thực là bậc vua anh hùng tài lược; dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn được”(3).

Nhà bác học Phan Huy Chú thế kỷ thứ XIX cũng nhận xét: “Tư chất và tính khí vua rất cao sáng, ham học không biết mỏi, tay không rời sách. Kinh, sử, chư tử, lịch số, toán chương đều tinh thông, văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi. Về trị nước thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, khôi phục và mở mang bờ cõi, văn vũ tài lược hơn cả các đời. Người ta cho rằng chính trị đời Hồng Đức là rất thịnh”(4)

Sứ giả Trung Quốc thời bấy giờ cũng gọi ông với thái độ kính trọng là “An Nam chân chúa”(5) .
Bác Hồ cũng ca ngợi ông rằng:


Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành(6) 
 
Tài năng và sự đóng góp có hiệu quả cho đất nước của vua Lê Thánh Tông có phần là nhờ ông rất cần cù chịu khó học tập trong suốt cả cuộc đời của mình, cả khi đã lên ngôi vua. Ông viết về mình như sau:

Trống dời canh còn đọc sách,

Chuông xế bóng chửa thôi chầu(7) 
 
Có thể nói rằng, ông là người có kiến thức, có học vấn uyên bác nhất thời bấy giờ. Phải chăng đó là một trong những nhân tố để ông đưa đất nước đi theo con đường đổi mới, đạt đến sự thịnh trị tột đỉnh trong thời kỳ phong kiến. Ông không chỉ là một tấm gương sáng chói về học tập, mà còn khuyên mọi người nên chăm học nữa. Lâu nay có người đã đề cập đến bài Chiếu khuyến học, Dụ khuyến học của ông. Nhưng cho đến nay chúng ta chỉ được nghe nói, chứ chưa từng được đọc nội dung bài văn khuyến học đó.

Gần đây, tìm tòi trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, may mắn chúng tôi tìm được hai văn bản Hán Nôm có chép bài văn khuyến học đó. Đó là:

1. Giai văn tập ký: ký hiệu A.2397, sách chép tay, khổ 28x16cm, 28 tờ, không có tựa bạt, mục lục, không ghi tên tác giả. Như tên sách đã nói, sách này là tập hợp ghi chép những bài văn hay (giai văn), cả thảy gồm 33 bài, phần lớn của các tác giả đời Nguyễn như: Hoàng Cao Khải, Phan Đình Phùng, Bùi Hướng Thành, Nguyễn Trọng Hợp, Dương Lâm, Đỗ Đình Liên(8) , Ngô Thế Vinh v.v... và bài thứ 30 (tờ 20a-22a) có nhan đề là Thánh Tông Thuần Hoàng Đế khuyến học văn, dịch nghĩa là: Bài văn khuyên chăm học của vua Thánh Tông Thuần Hoàng Đế.

2. Chư đề hợp tuyển: ký hiệu VHv.552, sách chép tay, viết thảo, khổ 25x13cm, 58 tờ, do Vinh Phong Phạm Nam Sơn chép ngày 16 tháng 8 năm Thành Thái thứ 8 (1896). Tên sách cho ta biết đây là một loại sách hợp tuyển văn học. Sách tập hợp 56 bài văn cả Hán và Nôm thời Lê và Nguyễn về các thể tài như: Văn bia trùng tu đền Hưng Đạo Vương của quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải; Bài văn khuyến hiếu của Văn Xương Đế Quân; Bài văn con rể tế bố vợ, vợ tế chồng, chồng tế vợ; Bài Quy khứ lai từ (Nôm); Bài văn tế cô hồn; Trần tình biểu; Bài phú Hàn Tín của Đặng Trần Thường; Bài phú Từ nông quy sĩ (Nôm) v.v... và bài thứ 55 (tờ 55a-56a) có nhan đề là Thánh Tông Thuần Hoàng Đế khuyến tiểu sinh văn, dịch nghĩa là: Bài văn khuyên học trò chăm học của vua Thánh Tông Thuần Hoàng Đế.

Cả hai văn bản đều có một số chữ, câu khác nhau. Trước khi dịch, chúng tôi có đối chiếu, khảo dị, để 2 bản bổ sung cho nhau những chỗ bất túc, tiến tới một bản hoàn thiện hơn. Khi khảo dị, chúng tôi gọi tắt bản Giai văn tập ký là GVTK, và bản Chư đề hợp tuyển là CĐHT.

Xét thấy bài văn khuyến học này là một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về con người Lê Thánh Tông và tư tưởng giáo dục của ông, nay chúng tôi xin phiên âm, dịch nghĩa, chú thích và công bố, cống hiến cho độc giả của Tạp chí Hán Nôm , nhân dịp kỷ niệm 550 năm ngày sinh của ông.

Phiên âm:
Thánh Tông Thuần Hoàng Đế Khuyến học văn(1)
 
Cái văn(2):
Quân tử thành đức chi danh, quý hồ hữu thể hữu dụng;
Nho giả vị kỷ chi học, yếu tại thành thủy thành chung.
Cẩu đán tịch chi(3) bất cần;
Tắc công phu chi(4) hữu gián.
Hạ Vũ đại thánh, tứ tứ do tích thốn âm;
Tăng Tử đại hiền, miễn miễn thượng gia tam tỉnh.
Hán Đồng Tử hạ duy nhi lệ sĩ(5)
Đường Xương Lê kế quĩ dĩ thành công.
Bỉ hà nhân, ngã diệc hà nhân, vi chi nhược thị;
Cổ thử lý, kim đồng thử lý, chí giả cánh thành(6).
Nhữ đẳng:
Sinh hồ thiên địa chi gian,
Đồng đắc âm dương chi khí.
Vật các phó vật(7), tuy vân hoặc thuần hoặc bác chi thù,
Nhân chi vi nhân, diệc hữu hi thánh hi hiền chi chí.
Tiên cẩn kì(8) sái tảo, ứng đối, tiến thoái chi tiết;
Thứ(9) cập phù lễ nhạc, xạ ngự, thư số chi văn.
Tọa như thi, lập như trai(10), học nhi thời tập;
Chính kỳ tâm, thành kỳ ý, đức cầu(11) nhật tân.
Hàm vịnh hồ, kì sở dĩ tri;
Mãnh miễn(12) hồ, kì sở vị chí.
Kinh giả, tải đạo chi khí, tất dụng lực dĩ(13) giảng cầu;
Sử giả(14), kí sự chi thư, tất dụng(15) tâm nhi suy cứu.
Dĩ khảo thánh hiền chi thành pháp;
Dĩ cầu(16) sự lí nhi đương nhiên.
Nhã ngôn mạc thiết ư Thi Thư, Thi Thư cần nãi hữu(17);
Hành đạo mạc tiên ư Lễ Nhạc, Lễ Nhạc bất khả vô.
Trầm tiềm hồ Bát quái, Cửu trù;
Xuất nhập hồ Bách gia chư tử.
Đại hiền vi sư, thứ hiền vi hữu, thân sư thủ hữu hữu phương;
Xuất sự kì trưởng, nhập sự kì huynh, kính trưởng ái huynh tân đạo.
Bất tuần tư dục nhi vi lý(19),
Đãn đương chủ thiện vi sư.
Khí tập sở di, đương giới phù kiêu chi nhất tự,
Đạo lý tối đại, giai thủ chư(20) thân chi lưỡng bàng.
Hữu chân thực tiễn lí chi công;
Vô liệp đẳng can dự chi thất(21).
Năng định(22) năng tĩnh, năng lự năng đắc, sở tạo giả thâm;
Như thiết như tha, như trác như ma, ích cầu kì chí.
Kí hữu đắc chi ư kỉ,
Hựu đương(23) suy dĩ cập nhân.
Tài dưỡng bất tài, trúng dưỡng bất trúng, tư chi giả chúng;
Thành bất độc thành, lập bất độc lập, đức tất hữu lân.
Nhân chi thục, nghĩa chi tinh;
Công chi sùng, nghiệp chi quảng.
Do thị nhi cùng kinh chí dụng(24)
Do thị nhi học cổ nhập quan.
Thủ Hán thất chi tử thanh, đãi đồng thập giới;
Trạc Tống triều chi khoa đệ(25), hữu nhược bạt tì(26).
Nhân tranh khán kim bảng(27) đề danh;
Thời cộng(28) đổ thanh vân đắc lộ.
Bộ ngọc đới kim chi khách, tiếp chủng liên(29) kiên;
Chấp tiên phụ nỗ chi đồ, hô tiên ủng hậu.
Đăng(30) hỏa chi sơ tâm bất phụ;
Công danh chi tố chí hoạch thường.
Dĩ văn chương nhi phủ phất hoàng du;
Dĩ đạo đức nhi sênh dung dã(31) hóa.
Tí dân tôn chủ, lợi trạch cập ư(32) đương thời;
Dương danh hiển thân, sự nghiệp thùy ư hậu thế.
Thị giai cần dĩ vi thượng(33);
Cố năng lộc tại kì trung.
Thảng hoặc:
Bất học bất tư;
Tự thí tự bạo(34).
Muội mục ư điển mô chi huấn, mậu mậu(35) hà tri;
Mê tâm ư phong nguyệt chi trường, yêm yêm võng giác.
Song khích chi quang âm(36) mị duyệt(37);
Thành nam chi đăng hỏa bất cần(38).
Nghiệp hoang vu hi(39), kê khuyển chi tâm dị(40) phóng;
Học tựu vị kỉ(41), hồng hộc chi chí dĩ di.
Tể Dư chi mộc bất khả điêu,
Từ Tử chi thủy mạc tri bản.
Sơn vi cửu nhẫn, nhất quĩ do(42) khuy;
Tỉnh vị cập tuyền, bán đồ nhi phế.
Ngoã phiến(43) chi tài mạc dụng;
Tì ô chi dịch cam vi.
Trì khu huy hạ chi binh, hung sinh cơ sắt;
Bôn tẩu mã tiền chi tốt, bối xuất trùng thư.
Ngũ phù xích tịch chi đồ lao;
Tì tất nô nhan chi khả quý(44).
Lỗ mãng nhi canh, lỗ mãng nhi hoạch, quyết cữu y thùy?
Khốn khổ kì thân(45), khốn khổ kì tâm(46), phệ tê hà cập !
Khởi thời tác thê noa chi lụy;
Ngưỡng diệc cô phụ mẫu chi ân.
Hồi khán ý cẩm chi vinh,
Không bão(47) hậu nhan chi sỉ.
Phù! nhân chi tiếu dữ bất tiếu, ư thị phán yên;
Tại học chi cần dữ bất cần, vi hà như nhĩ.
Ngô ngôn cập thử;
Nhữ đẳng kí chi !

Khảo dị:

1. Bản CĐHT: Thánh Tông Thuần Hoàng Đế khuyến tiểu sinh văn.
2. Bản CĐHT: Viết
3. 4. Bản CĐHT: Không có chữ “chi”
5. Bản CĐHT: Phát phẫn
6. Bản GVTK: Không có câu này
7. Bản CĐHT: phú
8. Bản CĐHT: hồ
9. Bản CĐHT: hậu
10. Bản CĐHT: Tề
11. Bản GVTK: Yếu tại
12. Bản CĐHT: Miễn cưỡng
13. Bản CĐHT: Nhi
14. Bản CĐHT: Nãi
15. Bản CĐHT: Tận
16. Bản CĐHT: Thức
17. Bản CĐHT: Sở cố hữu
18. Bản GVTK: Không có hai chữ “ái huynh”
19. Bản GVTK: Bất khả tuần vật lí
20. Bản GVTK: Kì
21. Bản CĐHT: Hoạn
22. Bản CĐHT: An
23. Bản CĐHT: Vưu khả
24. Bản GVTK: Không có câu này
25. Bản CĐHT: Khoa mục
26. Bản CĐHT: Trích tì
27. Bản CĐHT: Hoàng bảng
28. Bản CĐHT: Khoái
29. Bản CĐHT: Biên
30. Bản CĐHT: Hương
31. Bản CĐHT: Thường
32. Bản CĐHT: Vu
33. Bản GVTK: Thượng
34. Bản CĐHT: Tự bạo tự khí
35. Bản CĐHT: Minh minh
36. Bản CĐHT: Quang minh
37. Bản CĐHT: Lũ
38. Bản CĐHT: Bất thân
39. Bản CĐHT: Đường
40. Bản CĐHT: Dĩ
41. Bản CĐHT: Dịch học vị chí
42. Bản CĐHT: Thượng
43. Bản CĐHT: ủng thũng
44. Bản CĐHT: Khả sỉ
45. Bản CĐHT: Kì chí
46. Bản CĐHT: Kì thân
47. Bản GVTK: Bả

Dịch nghĩa:

Bài văn khuyên chăm học 
của vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế
Từng nghe:

Người quân tử được gọi là “Thành Đức”, quý ở chỗ có đủ cả “thể” cả “dụng”(9);
Bậc Nho giả cầu “cái học vị kỉ”(10), thì cần phải có thủy có chung.

Nếu sớm tối không cần cù,
Thì công phu bị gián đoạn.

Kìa:

Bậc đại thánh như vua Hạ Vũ(11), còn tiếc nuối từng tấc quang âm;
Bậc đại hiền như ngài Tăng Sâm(12), vẫn mỗi ngày xét mình ba lượt.

Đổng Tử đời Hán(13), buông rèm mà khích lệ kẻ sĩ;
Xương Lê đời Đường(14), kiên trì mà đi tới thành công.

Kẻ kia là người, ta cũng là người, mà họ làm được như thế;
Xưa vẫn lý ấy, nay vẫn lý ấy, cốt có chí thì làm nên.

Các người:

Sinh ra ở trong vòng trời đất,
Cùng bẩm thụ khí âm dương.

Mỗi một sự vật, tuy trời phú có thuần tạp khác nhau;
Nhưng đã là người, ai cũng có chí noi theo bậc hiền bậc thánh.

Trước hết, phải tẩy rửa cho trong sạch, ứng đối, tiến lui cho phải phép;
Thứ đến, học các môn lễ nhạc, xạ ngự, thư số khác nhau(15).

Ngồi ngay ngắn, đứng trang nghiêm, học rồi thường xuyên luyện tập(16),
Tâm ngay chính, ý chân thành(17), đạo đức ngày càng thêm mới.

Đào sâu kỹ những điều đã học;
Hăng say tìm những điều chưa thông.

Thể loại “kinh” là thứ chở đạo, phải dốc sức mà giảng cầu;
Thể loại “sử” là sách ghi việc, phải dụng tâm mà suy cứu.

Từ đó, khảo cứu phép tắc của thánh hiền;
Từ đó, nắm vững quy luật của sự lý.

Lời đẹp chẳng gì bằng Kinh Thi, Kinh Thư(18) Thi, Thư cần phải có;
Hành đạo chẳng gì hơn Kinh Lễ, Kinh Nhạc(19), Lễ, Nhạc chẳng thể không.

Lặn ngụp nơi Bát quái, Cửu trù(20);
Ra vào chốn Bách gia chư tử(21).

Tìm bậc đại hiền làm thầy, tìm bậc thứ hiền kết bạn, gần gũi thầy bạn đúng phương châm;
Ra thờ bậc trưởng, vào thờ bậc anh, kính trưởng mến anh hết đạo.

Chớ chạy theo dòng tư dục mà làm trái sự lý;
Những nên coi việc thiện làm thầy.

Khí chất do thói quen mà đổi thay; Hãy răn giới một chữ kiêu mạn;
Đạo lý cao nhất, cốt ở chỗ giữ gìn quan hệ xung quanh.

Rèn công phu thực tiễn chân thành;
Chớ mắc lỗi săn lùng danh tiếng.

Có định có tĩnh, có lự có đắc(22), thành quả mới cao;
Như thiết như tha như trác như ma(23), cầu tiến bộ mãi.

Bản thân đã có sở đắc;
Lại mong mở rộng cho người.

Người tài dạy người bất tài, người đúng dạy người chưa đúng.
Giúp đỡ thêm đông đảo;

Thành tựu chẳng riêng mình, lập thân chẳng mình ta,
Đức vọng thêm bạn hữu.

Nhân càng thục, nghĩa càng tinh;
Công càng cao, nghiệp càng lớn.

Từ đó mà ra sức áp dụng điều sở học;
Từ đó mà noi theo cổ nhân học làm quan(24).

Giành chức quan cao nhà Hán xưa, khác nào cúi nhặt hạt cải(25);
Giật lấy khoa bảng nhà Tống nọ, chỉ như nhổ đứt sợi râu.

Người tranh xem bảng hổ đề tên;
Đời ngưỡng vọng đường mây nhẹ bước(26).

Cùng khách đai vàng bội ngọc, tiếp gót liền vai;
Một đoàn đeo nỏ cầm roi, tiền hô hậu ủng.

Tấm lòng đăng hỏa ngày xưa thật chẳng phụ;
Nguyện ước công danh thuở nọ được đền bồi.

Nhờ văn chương mà địa vị rõ ràng;
Nhờ đạo đức mà tục dân giáo hoá.

Giúp dân giúp chủ, lợi ích thấm khắp đương thời;
Bản thân cha mẹ vẻ vang, sự nghiệp lưu truyền hậu thế.

Tất thảy đều nhờ cần cù là trên hết,
Vậy nên bổng lộc sẵn ở trong(27).

Thế mà chẳng học, chẳng suy;
Chính là tự mình vứt bỏ.

Tối tăm lời dạy ở mô điển(28), ú ớ chẳng hay;
Ham mê say đắm chốn gió trăng, mịt mờ chẳng tỉnh.

Bóng quang âm nơi khe cửa thấm thoát chẳng tỏ;
Ngọn đèn nơi thành nam le lói chẳng chăm.

Ham mê các trò vui, cái tâm kê khuyển(29) dễ buông thả;
Học mới được mấy tý, cái chí hồng hộc(30) đã thay rồi.

Như Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng(31),
Như Từ Tử, dòng nước chẳng biết mạch(32).

Núi cao chín nhẫn, thiếu một sọt đất chẳng thành(33);
Giếng chẳng có mạch nguồn, giữa đường đành vứt bỏ.

Cái tài cỏn con chẳng dùng được;
Công việc hèn mọn phải cam làm.

Rong ruổi làm quân dưới cờ, ngực sinh rận rệp;
Bôn tẩu làm lính trước ngựa, lưng đầy bọ giòi.

Vất vả thân đầy tớ dốt ngu;
Khúm núm hèn mọn thật xấu hổ.

Cẩu thả cày cấy, cẩu thả thu hoạch, lỗi ấy vì đâu?
Khốn khổ cái thân, khốn khổ cái tâm, hối hận sao kịp !

Há chỉ làm lụy tới thê tử;
Mà còn phụ ơn cả mẹ cha.

Ngoảnh nhìn người áo gấm vẻ vang;
Thật đáng xấu hổ và sỉ nhục !

Kìa:

Làm người tốt và không tốt, phân biệt chỉ chỗ đó mà thôi;
Học chăm hay không chăm, còn gì khác như thế nữa!

Ta có vài lời như vậy;
Các ngươi hãy nhớ lấy!
 
M.X.H

CHÚ THÍCH
(1) Công bố nhân dịp kỷ niệm 550 năm ngày sinh của vua Lê Thánh Tông (1442-1992).
(2) Theo Lê hoàng ngọc phả, ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm A.678.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, Hà Nội, 1972, T.3, tr.173.
(4) Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, T.1, tr.201.
(5) Theo Lê kỷ tục biên, ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm VHv.1303, tờ 26b.
(6) Hồ Chí Minh: Lịch sử nước ta.
(7) Thơ Nôm - Tự thuật.
(8) Đúng ra là Đỗ Huy Liêu, người xã La Ngạn, huyện Đại An, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
(9) Thể dụng: vốn là thuật ngữ của Tống Nho. ở đây “thể” có nghĩa là thể chất, có thực học, thực tài; “dụng” là tác dụng, là sự phát huy tác dụng của cái thể chất, cái thực học đó.
(10) Vị kỷ: vì mình. “Vị kỷ chi học”, là cái học cốt cầu tiến bộ ở nơi bản thân mình, có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn thứ 14: “Cổ chi học giả vị kỷ, kim chi học giả vị nhân” (người học ngày xưa cầu sở đắc ở nơi bản thân mình, người học ngày nay cầu để người khác biết mình).
(11) Hạ Vũ: tức vua Đại Vũ nhà Hạ, còn gọi là Hậu Vũ, là một ông vua hiền nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, khai sáng ra nhà Hạ. Cha là Cổn trị thủy không có công, bị giết. Ông nối sự nghiệp, 8 năm ở ngoài, 3 lần đi qua cửa mà không vào, tranh thủ thời gian để hoàn thành sự nghiệp trị thủy.
(12) Tăng sâm: một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử, nổi tiếng về giữ đạo hiếu. Ông là tác giả các sách Hiếu kinh, Đại học v.v... Tống Nho cho rằng chỉ có một mình ông là chân truyền được đạo thống của Khổng Tử. Câu “Mỗi ngày xét mình ba lượt” (Ngô nhật tam tỉnh ngô thân) có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
(13) Đổng Tử: Tức Đổng Trọng Thư, là một nhà triết học nổi tiếng thời Hán, giữ chức Bác sĩ thời Hán Cảnh Đế. Ông buông rèm dạy học, ba năm liền mắt không nhìn ra ngoài vườn, được mọi người suy tôn là thầy. Tác phẩm có Xuân thu phồn lộ v.v...
(14) Xương - Lê: tức Hàn Dũ, là nhà triết học, nhà văn nổi tiếng thời Đường. Ông thuở nhỏ mồ côi cha, nhờ khắc khổ kiên trì học tập mà thành đạt, đỗ Tiến sĩ đời vua Đường Đức Tông. Ông là người bác thông kinh sử, bách gia, văn chương có phong cách riêng, là một trong “Đường, Tống bát đại gia” (8 nhà văn lớn đời Đường, Tống).
(15) Lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số: tức “lục nghệ” (6 nghề) trong sách Chu Lễ . Đó là: Lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe ngựa), thư (viết chữ), và số (tính toán).
(16) Học rồi thường xuyên luyện tập: lấy ý câu nói của Khổng Tử: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà được thường xuyên luyện tập, thì không vui hay sao?) trong sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
(17) Tâm chính, ý thành: giữ cho tâm được ngay chính, cho ý được chân thành. Đó là những phương pháp tu dưỡng thân tâm, có xuất xứ từ sách Đại học.
(18) (19) Thi, Thư, Lễ, Nhạc: tên bốn kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, trong Ngũ kinh (thêm Kinh Dịch) của đạo Nho.
(20) Bát quái, Cửu trù: “Bát quái” là 8 quẻ, gồm: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài trong Kinh Dịch . “Cửu trù” tức chín trù, gồm: 1. Ngũ hành, 2. Kính dụng ngũ sự, 3. Nông dụng bát chính, 4. Hiệp dụng ngũ kỷ, 5. Kiến dụng hoàng cực, 6. Ngải dụng tam đức, 7. Minh dụng kê nghi, 8. Niệm dụng thứ trưng, 9. Hưởng dụng ngũ phúc, uy dụng lục cực, có xuất xứ từ thiên Hồng phạm, Kinh Thư. Bát quái, Cửu trù ở đây chỉ Kinh Dịch, Kinh Thư.
(21) Bách gia chư tử: thuật ngữ chỉ 10 môn phái triết học tiêu biểu thời cổ đại Trung Quốc, gồm: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia, Tung hoành gia, Tạp gia (Lã Thị Xuân Thu, Hoài Nam Tử ...), Nông gia, Tiểu thuyết gia.
(22) Có định có tĩnh, có lự có đắc: chỉ sự tập trung tư tưởng cao độ (định tĩnh), đào sâu suy nghĩ (lự) thì học tập mới có kết quả (đắc), có xuất xứ từ sách Đại học.
(23) Như thiết như tha, như trác như ma: như cắt như cứa, như mài như giũa. Chỉ người học có nhu cầu bức xúc, thôi thúc học tập (như thiết như tha) và hàng ngày cần cù chăm chỉ (như trác như ma), có xuất xứ từ sách Đại học và sách Luận ngữ, thiên Học nhi thứ nhất.
(24) Câu này lấy ý từ câu “học muốn hay thì ra làm quan” (học nhi ưu tắc sĩ), có xuất xứ từ sách Luận ngữ, chương Tử Trương thứ 19. Người xưa cho rằng, làm quan là cách tốt nhất để có cơ hội thi thố, ứng dụng những điều sở học của mình, góp phần đóng góp cho xã hội. Bên cạnh đó giúp mình được hưởng bổng lộc, vinh hoa, là thành quả chính đáng gặt hái được nhờ học tập mà có.
(25) Giành chức quan cao: dịch thoát chữ “thanh tử” tức là hai màu xanh, tía, mầu áo của bậc khanh, đại phu đời Hán, Cúi nhặt hạt cải: Hạ Hầu Thắng khi dạy học thường bảo học trò rằng: “Kẻ sĩ chỉ lo việc không sáng tỏ kinh thuật. Một khi kinh thuật sáng tỏ rồi, thì việc giành lấy chức quan cao, chỉ dễ như cúi nhặt hạt cải vậy” (Hán Thư, Hạ Hầu Thắng truyện).
(26) Đường mây nhẹ bước: dịch câu “thanh vân đắc lộ”, chỉ những người may mắn, học giỏi đỗ đạt, có địa vị cao trên con đường hoạn lộ.
(27) Bổng lộc sẵn ở trong: lấy ý từ câu nói của Khổng Tử “Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ”, trong sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công thứ 15.
(28) Lời dạy ở mô điển: “mô điển” là những thể văn răn giới về chính sự ở các đời Hạ, Thương, Chu chép trong Kinh Thư.
(29) Cái tâm kê khuyển: chỉ những ham muốn vật dục trong con người, nếu không biết chế ngự thì rất dễ bị buông thả, sa ngã.
(30) Chí hồng hộc: hồng hộc là hai loài chim bay cao, bay xa, chí hồng hộc là chỉ những người có chí, có hoài bão, có lý tưởng lớn lao.
(31) Tể Dư, gỗ mục chẳng thể dùng: Tể Dư là học trò của Khổng Tử, có tài nói năng, theo học khoa ngôn ngữ, nhưng kém ý chí, hay ngủ ngày, nên bị Khổng Tử chê là khác nào cây gỗ mục, không thể dùng để đẽo gọt, chạm trổ được. Chuyện này, có xuất xứ từ sách Luận ngữ, thiên Công Dã Tràng thứ 5.
(32) Từ Tử: chưa rõ.
(33) Câu này ý khuyên người học phải tự cường, cố gắng không biết ngừng nghỉ, tích thiểu thành đa, nếu giữa đường dừng lại, thì công phu trước vứt hết, như quả núi cao, thiếu một sọt đất cũng chẳng thành, có xuất xứ là sách Luận ngữ thiên Tử Hãn thứ 9: “Thí như vi sơn, vị thành nhất quĩ, chỉ, ngô chỉ dã” (Ví như đắp một ngọn núi, còn thiếu một sọt đất nên chưa thành, dừng lại, là ta tự dừng vậy)./.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2 / 1992