Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

HÌNH ẢNH VÀ VIDEO CLIP VỀ CUỘC HỘI NGỘ

CHÙM ẢNH CỦA LÊ TUẤN ANH VÀ NGUYỄN HÙNG SƠN
 





TS Nguyễn Văn Khải (Ông già Ô - zôn)




Anh Nguyễn Chí Đức đang kể lại câu chuyện hôm 17.07. Như vậy, có hàng trăm người làm chứng cho anh


Nữ Giáo sư Nguyễn Thị Thanh (từ Canada) về. Bà đến từ sớm để đọc thơ và hát những bài ca ái quốc



Giáo sư Ngô Đức Thọ (bìa trái) trong niềm vui gặp gỡ


Hình như đây là hai anh bên an ninh đến dự cafe chiều Chủ nhật



Đồng chí Phi Khanh được mọi người quây lấy và ép ông ra dấu hiệu vê vê hai ngón tay: "Phi Khanh đâu?"





Em Cải từ Sài Gòn ra và dự cafe chủ nhật. Câu đầu tiên em hỏi tôi: Bác Gốc Sậy có ra kịp không?









Nguyễn Xuân Diện luôn đối diện với người phụ nữ này trong suốt buổi tường thuật


Kim Tiến gò lưng viết Lưu bút vào sổ của Nghệ sĩ Tạ Trí Hải. Đây là quyển thứ 15 của ông.

Vào lúc 20h30 hôm nay, qua KTS Trần Thanh Vân, một doanh nghiệp đã ngỏ lời đón em Tiến vào làm việc






















VIDEO CLIP CUỘC HỘI NGỘ CHIỀU CHỦ NHẬT CUỐI THÁNG 7
(Video do Chí Tuyến thực hiện)

TRỰC TIẾP: HỘI NGỘ CAFE HÀ NỘI - SÀI GÒN

Theo lời hẹn, chiều nay, mọi người gặp gỡ tại Cafe 36B Điện Biên Phủ. Quán Cafe này ở sát cổng Bộ Ngoại giao, gần lăng Bác (không phải cafe CỘT CỜ).

Nguyễn Quang Thạch đến từ sớm. Sau đó là Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Tiến Nam...



Nguyễn Xuân Diện và Nguyễn Chí Đức
  

15h45: Đã thấy TS Nguyễn Quang A, Lê Dũng, ...và một số luật sư cũng đã có mặt.
Trời đang mưa rất to, mặc dù không có gió lớn. Khách cafe từ ngoài vườn chạy hết vào trong nhà, khiến cafe đông đúc lạ thường.

KTS Trần Thanh Vân, Giáo sư Ngô Đức Thọ... đang trên đường tới cafe.
15h55: Nhà thơ Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo và bạn gái đã đến. Trời vẫn mưa to. 

16h00: Nhà giáo Phạm Toàn đã có mặt. Sau đó, KTS Trần Thanh Vân đã có mặt, xách theo 1 túi hoa quả và bánh kẹo. Và kìa, Đoan Trang nữa...



 KTS Trần Thanh Vân (áo tím mộng mơ) mang đến rất nhiều bánh ngon


16h17: Giáo sư Phạm Duy Hiển đã có mặt. Ông vui mừng về sự có mặt đông đảo anh chị em...
Từ Sài Gòn, Giáo sư Tương Lai cho biết, anh em nhân sĩ trí thức Sài Gòn cũng đang tụ tập cafe ...
Chúng ta cùng chờ bản tường thuật từ Sài Gòn sau ít phút nữa...
Sài Gòn ơi, gửi nắng cho em! Cho Hà Nội chiều nay sụt sùi mưa gió....
Giáo sư Ngô Đức Thọ, các anh chị em Minh Hằng, Bích Phượng, Nguyễn Văn Phương đã đội mưa gió đến cafe chiều cuối tuần..TS Mai Thanh Sơn cũng đã có mặt...
Và kìa "hoa hậu" Trịnh Kim Tiến đã đến. Cô đang nép bên KTS Trần Thanh Vân.
Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Xuân Diện, Lê Dũng vừa trả lời Pv Quốc Phương của BBC .

Nữ Giáo sư Tiến sĩ Sinh hóa học Nguyễn Thị Thanh (từ Canada về) nói với mọi người: Mọi người ơi! Mọi người có biết vũ khí hạng nặng của chúng ta đang nắm hiện nay là gì không? Là gì? Là ĐOÀN KẾT.

Nghệ sĩ violin Tạ Trí Hải đang chơi các bản nhạc ái quốc trong phòng lớn. Bên ngoài, em Trịnh Kim Tiến đang trả lời BBC.
Trong sân có các bác: Phi Khanh, TS Nguyễn Văn Khải (Ông già Ô zôn), GS Nguyễn Đông Yên và phu nhân, Chị Dương Thị Xuân (vừa đến)...

Chị Phạm Quỳnh Hương cũng đã có mặt từ lâu, để trải nghiệm mới dưới góc nhìn của nhà xã hội học về cuộc hội ngộ hôm nay.

17h15: Nữ giáo sư Nguyễn Thị Thanh đang hát vang trong vườn quán.
Nguyễn Tiến Nam đang trả lời Pv của BBC.

17h20: TIẾNG HÁT ĐÃ VỠ TOANG HỘI TRƯỜNG> CAO TRÀO CỦA HỘI NGỘ.
Bây giờ là bài DẬY MÀ ĐI. Tiếng hát vang ầm ầm, đều và cộng cảm của niếm phấn khích.
Sau đó, bây giờ là NỐI VÒNG TAY LỚN. Hóa ra người Hà Nội cũng thuộc các bài hát này.

và tiếng hô lớn vang lên:

Hoàng Sa - Việt Nam
Trường Sa - Việt Nam
Bảo vệ Biển đảo Việt Nam - bảo vệ
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh - ĐÁNH...

Mọi người đang say mê hát các bài ca ái quốc! Không khí cực kỳ phấn khích!   
Anh Nguyễn Quang A mang đến 1 cái kính cận (nữ, trẻ) mà anh nhặt được trong lúc lộn xộn ngày 17.07.2011. Ai là chủ nhân, xin xác nhận bằng comments ở bên dười đây, để Nguyễn Xuân Diện trao lại.  

TẠI SÀI GÒN:
TTuong. lai tuong thuat tu TpHcm .  Cung tai quan càe Trubg Nguyen, tuy khong douc mien phi, co mat. chu Hao,,  Nguyen Xuan xanh, LeCongGiau,, Nguyen Duy, Ngo Tien Nhon, Nguyen Van Trong',  Cao Lap, Nguyen Ba Thuan, Tuong Lai.  Da nghe tuong thuat tu Ha nOi. Xin gui loi chao than thiet den cac anh chi co mat tai càe sang tao trung nguyen o DBP.  Xa nhau hang ngan cay so, chung ta van gap nhau trong y tuong va hanh dong chong xam luoc, bao to quoc than yeu cua chung ta. Sau le tuong niem cac chien si hy sinh o Hoang Sa nam.  1974 , Truong Sa nam 1988 va cuoc chien tranh bien gioi 1979' len an toi ac cua Trung Quoc,  chung toi van thuong xuyen trao doi voi nhau ve tinh hinh. Sat canh ben nhau, chung ta nhat dinh thang loi. May het pin!Anh nguyen Ngoc dang trên duòng den day .... vui qua!
Sent from my iPad
Bổ sung: Cafe Sài Gòn cũng bắt đầu từ 16h, với sự có mặt của các anh Chu Hảo, Nguyễn Trung Dân, Nguyên Ngọc...

18h00, Hà Nội: Mọi người đã hát hết các bài. Ngoài trời vẫn mưa. Bây giờ, cafe đang túm tụm từng nhóm nhỏ.

TRỜI MƯA CỰC TO!
Bây giờ cô Kim Tiến đang gặp Lê Anh Tuấn (tác giả bộ ảnh Gác thù nhà, đáp lời sông núi). Như một người anh trai, Anh Tuấn đang khuyên cô gái trẻ hãy tránh xa những tấm lưới có thể đang được giăng ra với cô.

Vẫn mưa rất to. Chị Trần Thanh Vân cứ đứng lên định về thì lại phải ngồi xuống, không về được.
Hôm nay, mọi người đã cùng quyết định tiếp tục biểu tình tại Khu vực Hồ Gươm vào Chủ nhật tới (07.08.2011).

Đã 18h40: Hà Nội hơi ngớt mưa, nhưng trong cafe vẫn đầy nhóc những người yêu nước. 

HẾT 

Nguyễn Xuân Diện -Blog tường thuật trực tiếp từ cafe Hội Quán sáng tạo, 
36B Điện Biên Phủ, HN.
(Phần ảnh sẽ được bổ sung sau 2 giờ nữa)

LẠI MỘT BÀI BÁO LẠ


LẠI MỘT BÀI BÁO LẠ
Nguyễn Duy Xuân

Trên TuanVietNam.net (VietNamNet) vừa xuất hiện bài đăng trên tờ China Daily, không rõ của ai mà chỉ ghi chú tác giả là nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu về Biên giới Lịch sử và Địa lý Trung Quốc, thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc.

Việc đăng tải bài viết của báo nước ngoài là chuyện bình thường. Nhưng cái không bình thường ở đây là người ta đăng nguyên (dù là bản dịch) bài viết của Trung Quốc đang cố tình biện minh cho cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc về biển Đông, về các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và về đường lưỡi bò mà họ tưởng tượng ra với những chứng cứ gọi là “lịch sử” mà tác giả bài báo đưa ra. Một bài viết hoàn toàn không đếm xỉa gì đến công pháp quốc tế và phủ nhận chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

Thay vì phải tỏ chính kiến của mình để giúp độc giả nhận rõ chân tướng của sự ngụy tạo những bằng chứng lịch sử thì TuanVietNam.net lại giúp họ khẳng định cái chủ quyền tưởng tượng ấy bằng dòng chữ in đậm gây chú ý cho dù đã sửa cái tít Trung Quốc ngụy biện đường lưỡi bò:Đường chín đoạn, hình chữ U trên bản đồ Trung Quốc bao gồm những đặc điểm chính ở Biển Đông, với cả quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Người Trung Quốc đầu tiên tới những vùng biển thuộc những đảo này từ cách đây 2.000 năm, họ phát hiện và đặt tên các đảo và sử dụng thẩm quyền phù hợp với chúng.”

Dù Ban biên tập đã rào đón bằng một đoạn gọi là LTS (Lời tòa soạn):  “Bất chấp sự chỉ trích mạnh mẽ của quốc tế về sự mơ hồ, vô căn cứ và yêu sách tham lam trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc (còn gọi là đường lưỡi bò, đường chữ U, đường chín đoạn), bao trùm lên 3/4 diện tích Biển Đông, giới lãnh đạo và truyền thông nước này vẫn tìm mọi cách tuyên truyền cho công chúng trong nước này cũng như quốc tế về đường lưỡi bò. Mới đây, tờ China Daily bản Tiếng Anh lại đăng bài viết với những nguỵ biện về tính hợp pháp của đường lưỡi bò. Chúng tôi giới thiệu tới độc giả như một tư liệu tham khảo. Công việc phản biện, xin dành cho các nhà khoa học.”  Cái câu thòng vào cuối đoạn văn: “Chúng tôi giới thiệu tới độc giả như một tư liệu tham khảo. Công việc phản biện, xin dành cho các nhà khoa học” thật vô trách nhiệm và chẳng khác gì là một sự thừa nhận những chứng cứ ngụy tạo trên của người Trung Quốc. Bởi lẽ TuanVietNam.net không phải là báo chuyên ngành chỉ dành cho các nhà khoa học. Độc giả của nó bao gồm hàng triệu người Việt Nam khác, họ đâu có đủ điều kiện nghiên cứu để mà phản biện như tòa soạn nghĩ. Và cái mà TuanVietNam.net gọi là “tư liệu tham khảo” sẽ tác động như thế nào với số đông độc giả ấy ? Cái kiểu làm báo như thế này đã bị dư luận lên tiếng phê phán trong thời gian gần đây nhưng dường như người ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp để rồi vô tình (hay hữu ý, có trời mà biết được) làm phát ngôn viên cho kẻ khác.

Sau đây là nguyên văn bài đăng trên TuanVietNam.net sáng nay, 31-7-2011:


“Trung Quốc ngụy biện đường lưỡi bò
Tác giả: China Daily
Bài đã được xuất bản.: 4 giờ trước


Đường chín đoạn, hình chữ U trên bản đồ Trung Quốc bao gồm những đặc điểm chính ở Biển Đông, với cả quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Người Trung Quốc đầu tiên tới những vùng biển thuộc những đảo này từ cách đây 2.000 năm, họ phát hiện và đặt tên các đảo và sử dụng thẩm quyền phù hợp với chúng. 


LTS: Bất chấp sự chỉ trích mạnh mẽ của quốc tế về sự mơ hồ, vô căn cứ và yêu sách tham lam trong tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc (còn gọi là đường lưỡi bò, đường chữ U, đường chín đoạn), bao trùm lên 3/4 diện tích Biển Đông, giới lãnh đạo và truyền thông nước này vẫn tìm mọi cách tuyên truyền cho công chúng trong nước này cũng như quốc tế về đường lưỡi bò. Mới đây, tờ China Daily bản Tiếng Anh lại đăng bài viết với những nguỵ biện về tính hợp pháp của đường lưỡi bò. Chúng tôi giới thiệu tới độc giả như một tư liệu tham khảo. Công việc phản biện, xin dành cho các nhà khoa học.

Những bằng chứng lịch sử cho thấy, người Trung Quốc đã phát hiện ra các đảo ở Biển Đông từ thời Tần (221-206 TCN) và thời Hán (206 TCN - 220 SCN). Các hoạt động đi lại và đánh bắt cá giới hạn ở những vùng nước của Đông Sa và Tây Sa bởi các vua thời nhà Đường (618-907 SCN), khi Trung Quốc bắt đầu điều động lực lượng hải quân để kiểm soát và thực thi thẩm quyền với khu vực.

Vào thời nhà Tống (960-1279) và Nguyên (1271-1368), người Trung Quốc mở rộng các hoạt động của họ tới vùng nước thuộc các quần đảo Trung Sa và Nam Sa. Những hoạt động bao trùm tất cả các đảo diễn ra trong thời nhà Minh (1368-1644) và Thanh (1644-1911), do đó đã thiết lập biên giới hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông.

Trung Quốc đã tăng cường các nỗ lực để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông kể từ đầu thế kỷ 20. Chính phủ Quốc dân đảng đã xem xét và thông qua tên tiếng Trung Quốc và tiếng Anh cho toàn bộ các đảo, vỉa đá Trung Quốc ở Biển Đông trong tháng 12/1934 và lần đầu tiên tập hợp chúng lại thành bốn quần đảo.

Một bản đồ xuất bản vào tháng 4/1935 cho thấy chi tiết các đảo của Trung Quốc ở Biển Đông, đánh dấu mũi cực nam của Biển Đông là Zengmuansha ở vĩ độ Bắc 4.

Một bản đồ khác xuất bản tháng 2/1948 cho thấy, sự phân chia hành chính của Cộng hòa Trung Hoa. Bản đồ còn hiển thị đường 11 đoạn bao quanh bốn quần đảo với điểm cực nam ở Zengmuansha. Đây là bản đồ đầu tiên đánh dấu biên giới hàng hải hình chữ U của Trung Quốc ở Biển Đông.

Các bản đồ ra đời sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vẫn giữ lại đường 11 đoạn, và cho tới năm 1953, thì hai đoạn đánh dấu Vịnh Bắc Bộ bị xóa. Sau đó, tất cả bản đồ Trung Quốc đều đi theo đường chín đoạn, hình chữ U.
Đường chữ U là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài thiết lập chủ quyền của Trung Quốc với các đảo ở Biển Đông và vùng nước lân cận. Tháng 10/1947, các tài liệu mà bộ nội vụ trình bày với chính phủ Quốc dân đảng cho thấy tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với các đảo và vùng nước bên trong đường chữ U.

Ngược lại, Việt Nam, Malaysia và Philippines hầu như không biết bất kỳ điều gì về các đảo ở Biển Đông trước triều nhà Thanh (1644-1911), cũng như không có bằng chứng chứng tỏ các hoạt động của tổ tiên họ ở Biển Đông, dù chỉ là để lại một cái tên với bất kỳ hòn đảo nào.

Biên giới hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông là kết quả của tiến trình lịch sử, và đây là quốc gia duy nhất để phát triển khu vực liên tục trong suốt quá trình lịch sử. Bởi thế, người Trung Quốc có quyền chính yếu với các đảo ở Biển Đông.

Theo chuyên gia luật người Trung Quốc Triệu Hải Lý, Trung Quốc sở hữu danh nghĩa lịch sử với các đảo, bãi đá ngầm, bãi cạn trong phạm vi đường chín đoạn, mặc dù điều đó không có nghĩa là toàn bộ vùng biển trong đường này thuộc về vùng nội thủy của Trung Quốc.
Dù Công ước LHQ về Luật Biển 1982 (UNCLOS) không đề cập cụ thể về danh nghĩa lịch sử, thì điều 15 của công ước nói: "Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác".

Người Trung Quốc đã đánh bắt và đi lại ở Biển Đông hơn 2.000 năm, và Trung Quốc đã thiết lập danh nghĩa lịch sử laai dài trước khi UNCLOS có hiệu lực. Danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc với các đảo ở Biển Đông phù hợp với UNCLOS và luật pháp quốc tế, do đó cần được tôn trọng.
Khi Trung Quốc lần đầu tiên công bố đường chữ U ở Biển Đông, cộng đồng quốc tế đã không phản đối nó cũng như không phản đối các nước láng giềng chống lại nó. Thay vào đó, đường chín đoạn là một phần của những bản đồ mà họ xuất bản, phản ánh sự chấp thuận của họ về chủ quyền của Trung Quốc với các đảo ở Biển Đông.
Tuy nhiên, vài năm gần đây, một số quốc gia Đông Nam Á đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của đường chín đoạn, nhưng yêu cầu của họ không hợp lý.

Sau khi UNCLOS được thông qua, công ước này thực sự quan trọng để giải thích một cách thích hợp và khoa học về đường chữ U. Nhưng đường chữ U đã hình thành từ lâu trước khi UNCLOS có hiệu lực, và việc sử dụng công ước để quyết định liệu đường chín đoạn được thiết lập từ lâu là hợp lý hay phủ nhận sự hợp pháp của nó thực tế là đã phản đối lịch sử.
Tất cả các nước ký UNCLOS nên hiểu rằng, công ước chỉ là một trong các luật pháp về biển của quốc tế (vốn không chỉ có một) và vì thế nên ngừng nghi ngờ về tính hợp pháp về đường chín đoạn của Trung Quốc.

* Tác giả là nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu về Biên giới Lịch sử và Địa lý Trung Quốc, thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc.
Thụy Phương (Theo China Daily)”
31-7-2011
Nguyễn Duy Xuân

Nguyễn Xuân Diện:
TuanVietNam đăng bài này chắc là để các nhà sử học, các nhà khoa học Việt Nam lên tiếng đập tan luận điệu của Khựa đây! Các bác comments cũng bình tĩnh để phân tích tình hình cho thật thấu đáo, mục đích là đoàn kết để chỉ có 1 kẻ thù chung là Tàu Khựa!

QUỐC TOẢN: LẼ RA MÌNH KHÔNG PHẢI NGHĨ

  













Lẽ ra mình không phải nghĩ
Quốc Toản

Khi một ai đó đứng trước những suy tư, trăn trở, lo lắng băn khoăn một điều gì. Ngoài ý chí của bản thân, người ta vẫn mong có một sự chở che, nâng đỡ từ cõi tâm linh. Ví như, mong cho con cháu học hành, thi cử đỗ đạt, các ông bố bà mẹ thường đi lễ chùa. Ở nhà thì thắp nén hương khấn vái tổ tiên. Làm nhà, cưới xin, một chuyến đi xa vv...nén hương thơm với lời khẩn cầu các cụ tiên tổ và thần linh phù hộ độ trì... sẽ làm cho chúng ta yên tâm hơn, lòng thảnh thơi và tự tin vững bước...

Với tôi lúc này không có suy nghĩ đó.

Lẽ ra tôi không phải nghĩ.

Lẽ ra tôi không phải bận tâm vì những gì đã xảy ra trong thời gian qua.

Lẽ ra tôi “mũ ni che tai” chắc sẽ bình an, đỡ ngại, đỡ sợ. Người ta vẫn bảo “Đã có nhà nước lo” thì mình lo làm gì.

Vậy mà tôi lại nghĩ đến một CON NGƯỜI – Giá như ông còn sống, chắc chắn ông sẽ lên tiếng. Tiếng nói mạnh mẽ và truyền lửa của ông, sẽ làm ấm lòng những người yêu Tổ quốc. Ông là Sáu Dân – Võ Văn Kiệt. Một nhân cách lớn. Một người tận hiến cuộc đời mình vì dân, vì nước.

Biết bao bài viết ca ngợi ông. Tôi xin lược thuật những tình cảm dành cho ông Sáu Dân của các tác giả Hoàng Lại Giang, Nguyễn Trung, Việt Phương, Nguyên Ngọc, Vũ Quốc Tuấn... từng là thư ký, trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt để chúng ta hiểu sâu sắc hơn về “Dấu ấn Võ Văn Kiệt”.

Thời điểm này hàng trăm người xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn biển Đông. Nhiều người trong số họ bị chính quyền “mời làm việc” chỉ vì yêu nước khi “chưa được phép”. Quốc hội đang họp. Suy thoái, lạm phát gia tăng vv... và còn nhiều chuyện làm ta không thể yên lòng...

Vì vậy,chúng ta càng nhớ đến ông, nghĩ về ông để có thêm sức mạnh và niềm tin.

Sinh thời ông Sáu Dân từng nói:

“Một đất nước mà luật pháp còn lỏng lẻo, còn quá nhiều bất cập, thì những quyền uy tối thượng vẫn được coi là chân lý. Đấy là bi kịch của xã hội ta”. "Xưa nay người ta vẫn nói về sức tàn huỷ ghê gớm, hầu như tất yếu của quyền lực. Ông Võ Văn Kiệt – Ông Sáu Dân là một trong số ít người đã không để mình rơi vào sự đánh mất tai hại khi được đặt vào những đỉnh cao quyền lực. Ở Ông có một sức đề kháng cực mạnh chống lại sự tàn huỷ ấy"

Chuyện về một người tù làm ông Sáu Dân trăn trở: “Vụ án mỗi lần nhắc tới, anh (Võ Văn Kiệt) vẫn còn mang dư vị buồn. Đó là vụ án Vũ Ngọc Hải - Bộ trưởng Bộ điện lực. Trước đó anh có trực tiếp hỏi chánh án Phạm Hưng về trường hợp Vũ Ngọc Hải.

Phạm Hưng trả lời: trường hợp anh Hải chắc là không có vấn đề gì…. Buổi sáng phiên toà diễn ra rất êm thấm. Anh nghĩ Phạm Hưng thật thà. Nhưng buổi chiều ngược lại…. Vũ Ngọc Hải nhận ba năm tù giam.

Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ tất cả. Nhưng ông im lặng và chịu đựng cho đến khi đường dây hoàn thành….Lặng lẽ ông nhờ anh em chuẩn bị mọi thứ như huy hiệu, sâm banh, ly … để vào thẳng trại giam gắn huy hiệu ngành điện đầu tiên cho Vũ Ngọc Hải.

Hơn 10 giờ đêm hôm 10 tháng 5 năm 2001 ấy, anh trầm ngâm với cốc nước trà nóng trên tay, tôi nghĩ anh đang có điều gì muốn chia sẻ. Nhưng rồi anh không nói được.

Tôi hiểu anh đang nghĩ về những đồng đội chung một chiến hào những năm ác liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Tôi hiểu anh đang nghĩ về những chiến hữu chung vai gánh vác sứ mệnh lịch sử trong hoà bình xây dựng. Họ gặp họa. Còn anh với tư cách một nguyên thủ quốc gia, một Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng lại bất lực.

Chưa bao giờ tôi thấy nét buồn, nỗi ưu tư trên gương mặt anh như cái đêm ấy… ở Cần Thơ.

Từ đấy, anh im lặng – anh im lặng cho đến ngày anh rời khỏi thế giới mà anh hằng ưu tư này về nơi vĩnh hằng”

Với Nhân sĩ trí thức, Ông Võ Văn Kiệt là người luôn tôn trọng và lắng nghe:

“Điều nổi bật trong Ông Võ Văn Kiệt là Ông thực sự tôn trọng trí thức, không chỉ trong suy nghĩ, trên lời nói mà trong thực tế đã mạnh dạn sử dụng, phát huy tài năng, trí tuệ của trí thức trong các tổ chức tư vấn độc lập cho lãnh đạo để đưa trí thức vào cuộc, gắn bó trực tiếp với lãnh đạo và cuộc sống.”

Về quyền tự do dân chủ, ông Sáu Dân nhiều lần nhấn mạnh: "Bài học lớn nhất, thấm thía nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Ông là phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện tự do, dân chủ. Đó là cội nguồn của mọi thành công; là con đường thu phục nhân tâm về một mối cho công cuộc chấn hưng đất nước"

Ông Sáu Dân nói về lòng yêu nước: “Theo Ông, mỗi người có cách hành động và thể hiện lòng yêu nước khác nhau, tùy theo hoàn cảnh và chỗ đứng của mỗi người trong xã hội. Ông cho rằng Tổ quốc không phải của riêng người cộng sản, cũng không phải của riêng tôn phái nào, mà là cội nguồn cảm thông và gắn bó chặt chẽ đại đoàn kết dân tộc.

Không thể và không nên đòi hỏi toàn xã hội đều có hành động yêu nước giống nhau. Mỗi người, trong mỗi hoàn cảnh, nếu khơi dậy đúng đắn mạch nguồn dân tộc sẽ có những hành động yêu nước khác nhau; mọi người hợp lực cùng đảm đương trách nhiệm với tương lai tươi sáng của đất nước.”

Ông Võ văn Kiệt nặng lòng và suy tư nhiều về Đảng. “Không biết bao nhiêu lần ông mời các lính cũ của mình, lúc trong Nam, lúc ngoài Bắc, chỉ để nêu một câu hỏi: Phải đổi mới Đảng như thế nào?

Trong tâm khảm Võ Văn Kiệt, trước sau chỉ một ý nguyện: Đảng phải là đảng của dân tộc – Là Đảng Việt Nam! Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói lên từ trái tim mình trước quốc dân đồng bào và thế giới. Nói lên như thế là nói lên tất cả!

Trong các phát biểu chính thức trong Đảng, các bài viết, nhiều lần ông khẳng định: Đi vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoà bình, Đảng phải đổi mới chính mình một cách triệt để: Làm tốt vai trò lãnh đạo, nhất là phải thực hiện tốt hơn nữa phương châm: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

Với tư duy như vậy, ông đấu tranh không mệt mỏi chống lại bệnh “đảng hóa”, bệnh “cơ cấu” và tư tưởng “nhiệm kỳ”. Ông luôn luôn nhấn mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cần người tài đức chứ không cần “cơ cấu” theo lối sắp đặt; đất nước là trường tồn và không có “nhiệm kỳ”, muốn cách mạng thực sự là sự nghiệp của quần chúng thì Đảng phải thực sự  làm được nhiệm vụ lãnh đạo, chứ không phải là “đảng hóa”…

Ông coi thực hiện dân chủ trong Đảng là việc đầu tiên phải làm và cũng là điều bức xúc nhất, từ đó sẽ có thể thực hiện được dân chủ trong cả hệ thống chính trị và Việt Nam sẽ có một sức vươn lên mới… 

Vài ngày trước khi qua đời, họp mặt với lính cũ, câu chuyện của ông vẫn chỉ xoay quanh câu hỏi: Đổi mới Đảng như thế nào? Ông giục giã: Nói đi, cần gặp ai tôi cũng sẵn sàng. Đi đâu tôi cũng đi! Không thể bỏ cuộc được!

Trong bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có chỗ Người dặn: Kháng chiến thành công xong việc phải làm trước tiên là phải lo chỉnh đốn lại Đảng. 39 năm rồi... Có lẽ Võ Văn Kiệt là người nặng lòng nhất với lời trối trăn này của Chủ tịch Hồ Chí Minh...”

Mỗi lần những người yêu nước xuống đường biểu tình chống Trung Quốc. Có khẩu hiệu được giơ cao: “Hoàng Sa - Trường Sa - Việt Nam”. Nhiều người cầm tờ giấy ghi tên các liệt sĩ trong trân hải chiến ở Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988. Lại thấy tiếng nói ấm lòng từ Thủ tướng Võ văn Kiệt:

“Thấu hiểu nỗi đau của dân tộc mình là nạn nhân của các cuộc chiến tranh xâm lược khốc liệt kéo dài nhiều thế hệ, chịu đựng không biết bao nhiêu sự can thiệp chia cắt từ bên ngoài, Võ Văn Kiệt là người của đoàn kết, của hòa hợp và hòa giải dân tộc. Ở nước ta, có gia đình họ tộc nào không bị chiến tranh chia lìa, ly tán? Có gia đình nào không có người ngã xuống, cho cả phía bên này và phía bên kia?

Không phải chỉ ở Viêt Nam, tìm kiếm trong các quốc gia trên thế giới, cũng khó mà thấy được một con người, một nhân cách, một chính khách có được tiếng nói mà người nghe hôm qua còn cầm súng đứng bên kia chiến tuyến hôm nay cũng phải mở lòng lắng nghe? Con người đó, chính khách đó không ai khác là Võ Văn Kiệt, với một suy tư mộc mạc: Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải là của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả…

Đơn giản, ông hiểu nỗi đau của dân tộc bằng nỗi đau của gia đình mình, của chính bản thân mình.

Làm thế nào để Tổ quốc yêu dấu của chúng ta có được nhân tâm thu về một mối? Tổ quốc Việt Nam ta sẽ phát triển ra sao, sẽ có vị thế nào và sẽ đi về đâu trong thế giới này nếu Tổ quốc là của nhân tâm thu về một mối như thế?”


Ông Võ Văn Kiệt. Nụ cười. Nỗi suy tư trăn trở. Dấu ấn Võ Văn Kiệt luôn hiện hữu trong mỗi chúng ta. Nhất là thời điểm nhiều biến động như  hôm nay. Làm sao có thể kể hết tấm lòng của ông đối với nhân dân. “Tiếng nói của Ông, như ta vẫn nhớ, sâu sắc, quyết liệt, mà trầm tĩnh, thấu lý, thấu tình. Không chỉ tiếng nói, mà cả cách nói - cái cách để đưa được tiếng nói ấy đến những nơi cần thiết, vừa triệt để, vừa khéo léo, đến nơi quyền lực cao nhất, đến với nhân dân, với trái tim từng con người.

Khi cần thì tiếng nói ấy cực kỳ mạnh mẽ, mạo hiểm cũng không nề, nhưng có lúc thật nhẹ, thật nhẫn, thật vừa phải, cho từng người nghe, và hợp với tình thế từng nơi, từng lúc. Biết đi tới đến cùng khi nhất thiết phải đi tới, mà cũng biết dừng lại, để chờ... Chờ cho sự vật chín muồi hơn, dẫu sự chờ đợi có thể rất lâu, nhiều khi đau đớn. Sự chờ đợi rất uyên thâm thường chỉ gặp thấy ở những bậc hiền triết…

Mãi cho đến gần đây, một số cách nhìn, cách nghĩ, cách xử trí của Ông với những vấn đề tinh tế của lịch sử và của xã hội vẫn bị một số người công kích. Nhưng như vậy nghĩa là Ông và những tư tưởng mạnh mẽ của ông vẫn sống.

Sức chiến đấu của những tư tưởng ấy không hề giảm, trái lại vẫn tham gia sống động vào vận động tư tưởng của xã hội, tiếp tục vạch đường cho xã hội đi tới – dù ngay thuở sinh thời Ông vẫn biết cuộc đi tới ấy không hề dễ dàng.” (Nguyên Ngọc)

Nói lên điều này chẳng có gì dính dáng đến tôn sùng cá nhân, mà là thừa nhận tính công bằng của sự thật mà đất nước ta đang rất cần để cổ vũ cho mọi tiến bộ và tuyên chiến không khoan nhượng với mọi tha hóa.

Không phải ngẫu nhiên trên thế giới nhiều bạn bè, chính khách, học giả và báo chí tôn vinh ông là một kiến trúc sư của đổi mới ở Việt Nam, là người trong hàng ngũ đi tiên phong tìm đường đưa Việt Nam ra khỏi đói nghèo để phát triển.

Dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi ghi nhớ công lao người con ưu tú Võ Văn Kiệt.

Tôi tin, ông Sáu Dân vẫn đang đồng hành cùng dân tộc.

Ông Võ Văn Kiệt sống mãi trong trái tim những người Việt Nam yêu nước.

Lẽ ra mình không phải nghĩ.

Vậy mà tôi đã nghĩ và nhớ đến ông - Dấu ấn Võ văn Kiệt!

Xin hầu chuyện những người xuống đường vì tình yêu Tổ quốc nhân dịp mọi người nghỉ ngơi theo như thông báo:

Để mọi người (trong đó có các lực lượng an ninh) cùng được nghỉ ngơi, thư giãn, Chủ nhật tuần này (31.07.2011), các nhân sĩ trí thức không tham gia biểu tình (trừ trường hợp Trung Quốc tiếp tục gây hấn). 

Nhưng, anh chị em xa nhau một tuần chắc có nhiều nhung nhớ, nên cũng mong gặp mặt nhau trong ngày cuối tuần:

Thời gian: 16h00 - 18h00, ngày Chủ nhật (31.07.2011)
Địa điểm: Cafe 36b Điện Biên Phủ, Hà Nội.

0h5. ngày 31-7-2011
Q.T

NHẬT KÝ BIỂU TÌNH: TRỞ LẠI ĐỜI THƯỜNG



Nhật ký biểu tình kỳ 4: 
TRỞ LẠI ĐỜI THƯỜNG
Đào Tiến Thi

Đây sẽ là bài cuối cùng trong chùm bài Nhật ký biểu tình của tôi[1] trên blog Nguyễn Xuân Diện, kể về những sự kiện sôi động cũng như những chuyện lặt vặt và tâm trạng buồn vui lẫn lộn của tôi trong tháng 7 vừa qua mà nguyên khởi chỉ vì những hành động gây hấn hung bạo và đê tiện của giới cầm quyền hiếu chiến ở Trung Quốc hiện nay.
Ở xứ mình bây giờ, tôi thấy không phải là các sự kiện lớn của dân tộc (kể cả sự kiện bi hoặc hùng) chi phối đời sống mỗi cá nhân (như thời kháng chiến trước đây), mà chính là cái đời sống thường nhật cơm áo gạo tiền, bệnh tật, sự an toàn, con cái học hành,… mới là đáng quan tâm. Số người biểu tình chống Trung Quốc gây hấn, số nhân sỹ đưa đơn kiến nghị, kể cả số người tham gia ký vào những việc có liên quan đến quốc gia hưng vong là quá ít ỏi so với số dân 86 triệu người. Số người không tham gia gì nhưng thường xuyên cập nhật tình hình, thở cùng một nhịp với những người trên có thể gấp vài chục lần nhưng vẫn là một con số quá ít ỏi, may ra chỉ vài phần trăm mà thôi. Nói thể để thấy rằng những người tham gia vào việc “dở hơi” kia khi sống giữa cộng đồng của mình sẽ không dễ gì được mọi người nhìn bằng con mắt bình thường.  
Tôi cũng chỉ là một người tham gia những việc trên ở mức rất hạn chế (7 cuộc biểu tình chỉ đi có 2, khi đi cũng rất hiền lành, chẳng hô hét mạnh, chẳng đi lên hàng đầu để nhiều ống kính ghi lại, thế mà trở về đời thường cũng gặp đủ thứ chuyện phiền.
Ngay sau khi tham gia cuộc biểu tình đầu tiên ngày 3-7, tôi “khai báo” với trưởng ban, người sếp trực tiếp của mình, cô ấy đã dặn tôi nên giữ “bí mật” chuyện này, ai biết có hỏi thì cũng chỉ nên xác nhận là “có”, không bàn gì thêm để tránh mọi sự bình luận. Tôi làm đúng như thế. Nhưng thực ra điều trưởng ban của tôi lo lắng là thừa. Nhiều người biết nhưng chỉ đôi người hỏi tôi thôi, và chỉ hỏi đúng một câu rồi tự họ chuyển nhanh sang chuyện khác, có muốn “thanh minh” gì thêm cũng không được.
Cho đến cuộc biểu tình ngày 17-7, sau khi tôi bị bắt và sau khi tôi công bố “Nhật ký biểu tình” bài 1 ngày 24-7, bài 2 ngày 26-7 trên blog Nguyễn Xuân Diện, nghĩa là tôi đã “công khai hóa” hoàn toàn, thì sự e dè đối với tôi trở nên rõ rệt. Có một anh bạn trước kia gặp tôi bao giờ cũng đứng lại trao đổi dăm bảy phút về tình hình đất nước, chia sẻ nhau những tâm sự, bây giờ gặp tôi bỗng bảo lâu nay không quan tâm nữa. Tôi hỏi vì sao, anh bảo “để không phải bức xúc, có hại cho sức khỏe”. Tôi không chắc anh không còn quan tâm mà chỉ vì ngại trao đổi với một người đang “có vấn đề”.
Lại có cô bạn mà tôi đang có một công việc liên quan, vừa triển khai cách đó mấy hôm, khi thấy cô đang đi cùng chiều, tôi có ý đi chậm lại để hỏi thăm tình hình việc đó đến đâu, thì cô chỉ chào tôi lấy lệ rồi đi vượt lên rất nhanh. Tôi mới hiểu “À ra thế”.
Chiều hôm 25-7, khi tôi còn cách độ 10m để vào phòng làm việc với an ninh thì gặp một cô bạn, một cô bạn vốn rất hồn nhiên vui tính, cô hỏi: “Hôm qua anh có đi…”,  bỗng cô thấy mình nhỡ miệng, vội ngừng lại, sợ hãi đảo mắt nhìn xung quanh một lượt rồi nói nhỏ: “Anh có đi… đi Bờ Hồ không?”. Tôi không nhịn được cười, bảo: “Thì em cứ nói to: “Anh có đi biểu tình không. Nói to lên và gọi đúng tên của nó: đi biểu tình. Sợ cái gì!”.
Ở phòng làm việc với an ninh ra, tôi thấy thoải mái, nhẹ nhõm hẳn, nhưng tôi cảm thấy không khí quanh tôi nặng nề hơn. Nhớ đến cô bạn lúc nãy, tôi vội đến phòng cô, định thông báo cho cô biết, rằng an ninh đã thừa nhận với tôi “ký kiến nghị không sai, biểu tình không có tội” để cô yên tâm. Cô không có ở phòng. Nhưng lạ là các bạn khác cũng không ai “đưa đẩy” với tôi câu nào cả. Tôi chắc cả phòng này đã biết tôi vừa bị an ninh “làm việc”. Nó trái hẳn mọi lần, khi tôi đến, bạn nào cũng vui vẻ, thi nhau hỏi chuyện, trêu chọc tôi nữa.
(Xin nói thêm là tất cả các bạn tôi nhắc đến ở trên đều là những người mà tôi rất quý mến và họ cũng quý mến tôi. Tuy nhiên trong bối này, đến cả một số bạn thân của tôi ở ngoài cơ quan, vẫn thường xuyên liên hệ điện thoại, thế mà từ khi tôi bị bắt, tôi thấy họ cũng e dè kể từ cái tin nhắn. Chắc họ nghĩ điện thoại của tôi đã bị kiểm soát. Vậy thì những người gần gũi tôi họ e dè có gì lạ đâu)
Tôi quay về phòng mình, trưởng ban của tôi mặt vẫn còn tái. Chắc là trong thời gian tôi làm việc với an ninh, cô căng thẳng lắm. Tội nghiệp cho trưởng ban của tôi. Tôi đã bao lần mục kích cô ấy mắt đỏ hoe khi xem những tin ngư dân mình bị Trung Quốc bắt bớ, đánh đập và khi xem những hình ảnh về người biểu tình chống Trung Quốc bị lực lượng an ninh chìm bắt như bắt con vật. Tuy nhiên, mỗi khi thấy tôi định đi biểu tình hay sau khi đi biểu tình, cô đều nói “Thôi anh ạ”. Một câu “Thôi anh ạ” nhưng trong đó chứa biết bao thứ rất con người. Cô là sếp của tôi nhưng tôi thấy thương cô như thương người em gái. Thấy tôi được trở về nhưng chưa biết là lành hay dữ, cô không dám hỏi ngay, vì trong phòng còn nhiều người, sợ tôi nói buột tất cả mọi điều. Cô phải “chặn” tôi trước: “Anh chờ em nhé. Đang bận quá”. Vừa lúc ấy, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết bước vào. Ông cất tiếng hỏi thân mật thay cho câu chào: “Có gì vui không các bạn?”. Tôi nói ngay: “Có chuyện vui thầy ạ. Em vừa làm việc với an ninh xong, về chuyện ký kiến nghị và đi biểu tình ấy mà”. Giáo sư nói: “Sáng nay cô Bình nhà mình (PGS. Hoàng Hòa Bình) cũng có một anh an ninh đến vì chuyện cô ấy ký kiến nghị. Không có vấn đề gì cả. Hai chị em họ lại còn nói chuyện rất vui vẻ nữa. Còn Thi thế nào?”. Tôi nói: “Cũng rất vui thầy ạ. Họ rất là có văn hóa…”. Như sợ tôi kể tiếp, trưởng ban của tôi vội quay sang Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết hỏi chuyện làm sách và cố gắng kéo câu chuyện đó cho đến hết giờ.
Hai hôm sau, tôi bị bí thư chi bộ gọi làm việc. Tôi đề nghị làm việc tại cơ quan nhưng ông ấy kéo tôi ra phố, đến hẳn một nơi lý tưởng cho cuộc “làm việc” tay đôi: một “cafe room” yên tĩnh, vắng vẻ, có máy lạnh. Vẻ mặt ông ấy nghiêm nghị, lạnh lùng suốt từ lúc cùng nhau khởi hành cho đến lúc ngồi vào bàn, dù tôi cố gắng tạo không khí vui vẻ đến đâu cũng không lay chuyển được. Ông ấy tra xét tôi từ chân tơ kẽ tóc về việc tôi ký kiến nghị và đi biểu tình (tra xét như lấy khẩu cung chứ không phải nghe tâm tư, động cơ hành động). Nó khác hẳn các anh an ninh hôm làm việc với tôi, họ không hề làm việc đó. Họ chỉ hỏi tôi đúng một câu: “Có phải chú ký vào kiến nghị đó không”, hỏi để loại trừ ai đó mượn danh, thế thôi. Tất cả thời gian chỉ là trò chuyện, mà chủ yếu là họ lắng nghe tôi nói. Tuy nhiên những tra xét đó cũng chưa là gì, và tôi vẫn hết sức cố gắng trả lời ông ta. Nhưng cho đến khi ông ấy xúc phạm tôi, thì tôi buộc phải đứng lên từ chối cuộc làm việc. Đến đây tôi phải xin lỗi tất cả độc giả của blog Nguyễn Xuân Diện, tôi xin không kể lại chi tiết những điều đó, sợ sau này khi ông ấy hiểu ra vấn đề, ông ấy, và cả tôi nữa, sẽ không khỏi bẽ bàng. Đồng nghiệp với nhau trong một cơ quan mà, ông ấy lại hơn hẳn tuổi tôi nữa. Về sau tôi thấy tôi đứng lên sớm là may cho ông ấy. Để ông ấy nói nhiều câu sai, tôi không chịu nổi mà đưa lên công luận thì còn ra gì. Nhớ có lần báo chí đưa tin cái ông bí thư chi bộ nào đó bảo Hoàng Sa là bãi chim ỉa, chuyện trở thành bia miệng không bao giờ gột được.
Hai hôm tiếp thì giám đốc gọi. Giám đốc của tôi, như tôi đã kể trong bài trước, là một người nho nhã, giàu lòng nhân, cho nên tuy không có nhiều thông tin về tình hình hiện nay của đất nước, anh cũng không áp đặt tôi một điều gì. Anh cũng không coi chuyện an ninh gọi nghĩa là tôi có sai phạm. Anh chỉ khuyên ngắn gọn: “Em làm gì thì cũng nên cẩn thận. Và có lẽ theo anh không nên viết blog, dính vào chuyện quan điểm phiền lắm”. Tôi bảo: “Em cũng không có mấy thời gian để viết blog đâu. Vừa rồi Trung Quốc nó ngạo mạn, láo xược quá độ, buộc phải đi biểu tình, mà đi biểu tình thì nhiều cảm xúc quá, em kể lại, thế thôi”. Tôi bật ngay hai bài Nhật ký biểu tình cho anh xem. Đến đoạn kể bị bắt về Mỹ Đình, anh dừng lại bảo: “Khổ thân, thôi yếu thì ở nhà”.
Tối đó về tôi phải tiếp công an khu vực. Bác công an này thỉnh thoảng đi “thăm nắm tình hình” vẫn tạt vào nhà tôi chơi. Vốn là người chất phác, hiền lành, cho nên bác bắt đầu câu như câu hỏi thăm thân mật, chứ không phải làm việc:
- Hôm rồi đi biểu tình à?
- Vâng, sao anh biết?
- Trên họ đưa danh sách về.
- Ở đây có ai nữa đi không anh?
- Không, một mình ông thôi. Thế nhưng từ nay cứ chủ nhật là mình phải ra chỗ ấy (46 Hoàng Diệu).
- À, hay là hôm rồi anh chỉ điểm cho họ bắt em đấy?
Anh cười: “Không. Sau hôm ông bị bắt họ mới đưa tên về mà”.
Anh lại hỏi: “Cơ quan đi có có đông không?”. Tôi bảo: “Cơ quan em có nhiều bộ phận, nhiều địa điểm, không biết hết nhau, nhưng em đoán chỉ có mình em đi thôi”. Tôi chờ đợi để anh hỏi, nhưng ngồi chán, anh cũng chả hỏi gì thêm, chỉ bảo:
- Thôi, từ nay đừng đi nữa.
Lúc này, máu tôi bốc lên. Tôi bảo sao anh lại khuyên em thế, anh có biết bà con ngư dân ta bây giờ khốn khổ như thế nào trên Biển Đông mỗi khi ra khơi làm ăn không. Tôi kể một lô sự kiện chính từ 2009 đến nay, nhất là mấy tháng gần đây. Càng kể tôi càng xúc động, cho đến lúc cổ nghẹn lại, nước mắt trào ra… Anh ngồi yên, cũng có chiều xúc động lắm. Anh không nói gì thêm và chuyển sang chuyện khác.
Trước khi ra về, anh lấy số di động của tôi, bảo: “Nếu hôm nào đi biểu tình thì báo cho tôi nhé”. Tôi bật cười: “Để bác đón lõng tóm em à? Em chả dại”. Anh cũng chả nói gì thêm.
Và sáng nay, khi tôi đang viết những dòng này thì bác công an khu vực ấy lại đến cùng với ông bí thư chi bộ hưu trí, nơi vợ tôi sinh hoạt. Anh nhường tất cả lời cho ông bí thư. Ông bí thư thao thao một chặp về đường lối, chủ trương để cuối cùng bảo từ nay tôi không được đi biểu tình nữa. Tôi bảo bác cho em xem cái nghị quyết hay chỉ thị về việc ấy thì ông bảo không có văn bản đâu, vấn đề này nó tế nhị, chỉ truyền đạt miệng thôi. Tôi bảo không thể thế được, Đảng mình làm gì cũng có nghị quyết, thể hiện sự lãnh đạo tập thể. Cái việc cấm ấy là sai hiến pháp, chắc do cá nhân nào đó nghĩ ra thôi, đâu phải chủ trương của Đảng. Vừa hôm nọ hai cán bộ an ninh trên Bộ Công an làm việc với em không nói thế. Em sợ lệnh “miệng” kiểu này đến lúc sai họ chối phắt thì ai chịu trách nhiệm. Ông ấy cứ nhất quyết đây là chủ trương từ bên trên một cách rất tự tin. Cuối cùng tôi bảo: “Thôi, cứ tạm cứ cho là thế, nhưng bác ạ, mỗi người, ngoài mệnh lệnh của khối óc còn có mệnh lệnh của trái tim. Làm sao đành lòng mặc kệ ngư dân mình để Trung Quốc muốn cướp bóc thế nào cũng được. Tình yêu thương giống nòi để ở đâu”. Tôi lại lôi một lô chuyện bắt bớ ngư dân mình của Trung Quốc (chuyện này với tôi nói cả ngày chả hết), nhưng xem ra ông bí thư chả động lòng chút nào, lúc nào cũng chỉ chực cắt ngang lời tôi để giải thích chủ trương. Ông ta vẫn nhất nhất là không được đi biểu tình nữa, nếu không sẽ là người chống lại chủ trương của Đảng.
Tôi bảo: “Bác chả nắm được tình hình, chán quá”. Ông chặn ngay tôi lại:
- Tôi nguyên là lính hải quân đây. Tôi lạ gì Biển Đông. Tôi còn nắm chắc luật biển quốc tế nữa.
Tôi bảo: “Bác nắm chắc luật biển thì rõ Trung Quốc nó vi phạm thế nào rồi”.
Ông bảo:
- Chỉ có Vịnh Bắc Bộ là mình với Trung Quốc phân chia xong, các vùng khác vấn đề nó phức tạp lắm. Hai bên tranh chấp, thế giới chưa công nhận cho bên nào.
Tôi kinh quá, nhưng cố bình tĩnh bảo:
- Bác ơi, bác lầm rồi. Tất cả các vụ bắt bớ ngư dân của mình mấy năm vừa rồi đều xảy ra trên vùng biển của mình, ngư trường quen thuộc mấy trăm năm nay của ông cha  mình. Hai vụ cắt cáp tàu thăm dò dầu khí vừa rồi cũng nằm hoàn toàn trong vùng biển của mình. Theo quy định của UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã xác định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Vụ tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Vụ cắt cáp tàu Viking 2 ngày 9-6, em không nhớ là cách bờ mình bao nhiêu hải lý, nhưng vẫn nhớ phát ngôn viên Phương Nga đã khẳng định là nằm trên thềm lục địa trong giới hạn 200 hải lý, hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Bà Nga còn nhấn mạnh việc này không thể chấp nhận được. Bác giải thích thế vừa sai luật biển quốc tế, vừa trái hẳn tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam mới đây, nguy hiểm quá bác ơi.
Ông ta không sờn lòng chút nào:
- Hai trăm hải lý ấy mới là theo luật biển, là mình đệ trình lên Liên Hợp Quốc năm 2010. Trung Quốc nó cũng đệ trình, cho nên tạo ra những vùng biển chồng lấn. Muốn chắc chắn là của mình hay không, phải chờ đến 2020 LHQ mới “phê duyệt”!.
- Ối chết. Đấy chính là gian lận của Trung Quốc đấy. Nó cố tình tạo ra vùng không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp. Bộ Ngoại giao mình cùng rất nhiều học giả đã vạch mặt điều này. Hai vụ cắt cáp vừa rồi hoàn toàn không ở vùng biển có tranh chấp, chồng lấn chồng liếc gì hết. Thế nên nhà nước mình mới lên án mạnh mẽ như thế. Bác xem lại đi, không lại đi tuyên truyền sai đường lối là chết đấy.
Bác công an khu vực có vẻ hoang mang, không tin về luật biển của bí thư chi bộ, vội đứng lên với lý do trưa rồi, xin phép kết thúc, để gia đình còn dùng cơm. Bác công an cũng chỉ kết lại chung chung, chủ trương trên như thế như thế, chúng tôi mong như thế như thế, không có ý chí quyết tâm cấm tôi biểu tình như bí thư chi bộ.
Chao ôi, những ngày tới sẽ còn gì nữa đây. Nhưng ít nhất là mỗi thứ bảy tôi sẽ phải tiếp một lần người nhà nước đến “thăm”.
30-7-2011



[1] Bài 1: Đi giữa đồng bào; bài 2: Sống trong đồng chí; bài 3: Làm việc với an ninh

Chùm ảnh kèm theo bài viết:

Đào Tiến Thi trong cuộc biểu tình ngày 3 tháng 7 năm 2011

Đào Tiến Thi "lên xe bus"


 Trong sân đồn Mỹ Đình



Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

GIẤY MỜI LÊ DŨNG

Anh Lê Dũng vừa báo cho biết, anh vừa nhận được Giấy Mời của cơ quan điều tra Công an Hà Nội.

Giấy mời ghi rõ vào lúc 09h30, anh có mặt tại số 07 Thiền Quang  làm việc về việc ký thư gửi ông Nguyễn Đức Nhanh - GĐ Công an Hà Nội.

Tuy nhiên, Giấy mời ...đã ghi sai cả ngày. 


Chúng ta cùng chờ tin từ anh Lê Dũng!