Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

TIẾN SĨ VŨ CAO PHAN TRẢ LỜI PV RFA VỀ LIÊN MINH QUÂN SỰ

Tiến sĩ Vũ Cao Phan. Ảnh: Internet.

Liên minh quân sự nên chăng?

Trước tình trạng Việt Nam bị Trung Quốc ức hiếp trong vấn đề chủ quyền lãnh hải trên biển Đông, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có thể liên minh với các nước phương Tây để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Sách lược đó liệu có hiệu quả hay không?

Trong một kỳ phỏng vấn với đài Á Châu Tự Do, TS Vũ Cao Phan đương kim chủ tịch Hội hữu nghị Việt Trung đã kể lại cùng quý vị câu chuyện ông trả lời phỏng vấn của đài truyền hình Phượng Hoàng. Kỳ này ông sẽ cho chúng ta biết nhận định về vấn đề liên minh với các nứơc phương Tây để bảo vệ lãnh thổ khỏi áp lực ngày một mạnh hơn của Trung Quốc có những mặt được mất như thế nào. Bài phỏng vấn cũng do Mặc Lâm thực hiện. 

Lòng yêu nước của đồng bào xa xứ 

Mặc Lâm: Thưa ông có rất nhiều ý kiến của người Việt cả trong lẫn ngoài nước đều mong rằng Việt Nam nên liên minh với một hay nhiều nước Tây phương kể cả Hoa Kỳ để làm đối trọng chống lại sức ép của Trung Quốc. Theo ông đây có phải là một giải pháp tốt nhất cho Việt nam hay không? 

TS Vũ Cao Phan: Về điều này thì tôi xin mở rộng ra một chút, có vẻ như ý kiến của những đồng bào ở nước ngoài nghiêng về khả năng này. Tôi chia sẻ như thế này, những người yêu nước nhất là những người hiện nay ở xa quê hương. Chính đồng bào ở nước ngoài là những người yêu nước nhất. Tôi đã từng ở nước ngoài năm bảy năm cho nên tôi hiểu lắm. Hồi nhỏ đi học tôi rất nhớ là trong sách vở có một bài văn của một nhà văn Nga nổi tiếng Ilia Erenburg, mà bây giờ thì không thấy học sinh học nữa, có nói về lòng yêu nước. Ông giải thích lòng yêu nước là gì: Lòng yêu nước là lòng yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông.
Họ không thấy được điều khó khăn ở trong nước bên một quốc gia lớn nhất thế giới
TS Vũ Cao Phan
Và bây giờ chúng ta cũng thấy trong một bài thơ, bài ca nối tiếng "quê hương là con diều biếc, là chùm khế ngọt", thế thì những người Việt Nam xa quê, đặc biệt là những người có tuổi, luôn luôn da diết nhớ về những kỷ niệm đó, cho nên lỏng yêu nước của họ bùng cháy hơn người trong nước. Chính vì thế cho nên những ý tưởng của họ, ý nghĩ của họ đôi khi nó cực đoan hơn. Họ cho rằng Việt Nam phải liên kêt quân sự với ai đó, hay là như anh nói "lập hàng rào quân sự để chống lại nước khổng lồ Phương Bắc". Họ đề ra những giải pháp ấy là có phần cực đoan. Họ không thấy được điều khó khăn ở trong nước bên một quốc gia lớn nhất thế giới, một quốc gia có rất nhiều áp lực.

Tôi có thể chia sẻ với đồng bào ở nước ngoài cái sự chậm trễ, cái quan điểm để thế hệ sau giải quyết, những chậm trễ như thế là không được. Nhưng giải quyết một cách vội vàng và với những biện pháp như vừa rồi, chúng ta cứ tưởng có thể có một liên minh vững bền nhưng người ta không thấy rằng làm như thế sẽ khiến Việt Nam ở một thế bất lợi hơn, khó khăn nhiều hơn. Cho nên tôi nghĩ là không nên có một liên minh quân sự với một nước khác.

Hòn Ông, nơi hải quân Việt Nam tập trận bắn đạn thật- RFA file
Hòn Ông, nơi hải quân Việt Nam tập trận bắn đạn thật- RFA file 
 

Liên minh? Chẳng lợi gì

Cái việc tuyên bố của chính phủ Việt Nam, từ khi tuyên bố như thế, là tôi đồng ý. Từ lâu rồi Việt Nam muốn làm bạn bè với toàn thế giới, cái đó là rõ ràng và tôi hoàn toàn ủng hộ. Làm bạn bè, thậm chí chúng ta có những bạn bè tốt để chúng ta có thể cân bằng được. Chúng ta không phải làm đối trọng nhưng chúng ta cân bằng lại được những sức ép mà chúng ta chịu đựng, cái đó là cần. Một quốc gia như Mỹ chẳng hạn, dù nói gì thì nói, Mỹ hiện nay là một quốc gia mạnh, là một quốc gia đang lãnh đạo thế giới, Mỹ có trách nhiệm với thế giới. Trong rất nhiều hành động của Mỹ mà tôi thấy được là Mỹ có trách nhiệm. Việc chúng ta có quan hệ với Mỹ rất tốt, thậm chí là một quan hệ chiến lược, tôi hoàn toàn ủng hộ. Nhưng một liên minh quân sự thì Việt Nam không đặt ra, và người Mỹ họ cũng không nghĩ đến, đó là điều chắc chắn. Có thể nói rằng cả về kinh nghiệm lịch sử lẫn tư duy logic đều cho thấy là Việt Nam phải tự lực cánh sinh là chính.

Không bao giờ lợi ích Mỹ - Trung nó thấp hơn lợi ích Mỹ - Việt cả. ... Lợi ích của Pháp-Trung với lợi ích của Pháp-Việt, thì họ bao giờ cũng trọng cái lợi ích lớn hơn.
TS Vũ Cao Phan
Kinh nghiệm lịch sử ta có thể nói như thế nào? Năm 1978 Việt Nam và Liên Xô ký một hiệp ước phòng thủ lẫn nhau, nhưng khi chiến tranh biên giới 1979 xảy ra thì Liên Xô có làm gì không, chúng ta đều biết là họ không làm gì, mà lúc đó Việt Nam và Liên Xô cùng ý thức hệ nhé, được gọi là những nước anh em nữa.

Huống hồ ví dụ Việt Nam liên kết với các nước Phương Tây, với Pháp, với Mỹ, hay với Nhật chẳng hạn, tư duy logic cho ta thấy là làm như thế không được. Bởi vì sao? Không bao giờ lợi ích Mỹ - Trung nó thấp hơn lợi ích Mỹ - Việt cả. Người Mỹ không quan niệm như thế. Lợi ích của Pháp - Trung với lợi ích của Pháp - Việt nó khác nhau, họ bao giờ cũng trọng cái lợi ích Pháp - Trung lớn hơn. Rõ ràng như thế rồi. 

Vấn đề thông tin và tập quán dân chủ. 

Mặc Lâm : Theo ông thì Việt Nam có thể nhân rộng ra những hoạt động truyền thông như ông vừa thực hiện để cho nhân dân Trung Quốc biết rõ hoàn cảnh của Việt Nam hay không? Và với tình trạng mà người nước ngoài cho là chính phủ Việt Nam đang co cụm hiện nay nó sẽ làm cho cách nhìn của thế giới đối với vấn đề Biển Đông sẽ sai lệch đi hay không?

TS Vũ Cao Phan : Câu hỏi của anh rất hay. Câu hỏi của anh chia sẻ suy nghĩ của tôi. Nhân đây tôi có thể kể một chuyện? Gần đây tôi mới có dịp xem được băng hình cuộc phỏng vấn của Đài Phượng Hoàng, bởi vì như tôi đã nói trước đây là ở không gian quá xa tôi nghe không rõ nhưng mà xem lại băng hình thì tôi có thấy một nữ học giả của Trung Quốc. Bà này tôi quen, đã từng gặp nhau, và học giả này ở ngay Quảng Tây. Bà ấy phát biểu rất là oai, rất là to tiếng.

Cái thứ nhất là bà ấy phản bác ý kiến của tôi về chuyện ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc thế nọ thế kia thì bà ấy nói là Việt Nam đối với ngư dân Trung Quốc còn tệ hơn thế, thậm chí bỏ đói chết. Tôi có thể nói rằng tôi không biết có chuyện ngư dân Trung Quốc chết hay không, cũng có thể có, và họ chết vì lý do gì đó, bệnh tật chẳng hạn nhưng trong lòng tôi tôi có thể bảo đảm rằng "không bao giờ có chuyện Việt Nam bỏ đói chết!", nếu có thì Trung Quốc đã có công hàm phản đối rồi. Bà ấy nói như thế là không đúng.

Hai nữa bà này nói là hai mươi năm nay Việt Nam luôn nuôi âm mưu đánh chiếm các đảo của Trung Quốc, và toàn nói về chiến tranh chống Phương Bắc thôi, toàn nói lại các cuộc chiến tranh với Phương Bắc cả nghìn năm mà không nói gì đến cuộc chiến tranh với người Mỹ. Điều đó chứng tỏ rằng Việt Nam chỉ nghĩ đến chiến tranh với Trung Quốc. Và cái chủ trương của Việt Nam mà bà gọi là "viễn giao, cận công", là giao thiệp với các nước phương xa, chủ trương đánh nước ở gần. Tất cả những việc này hoàn toàn không đúng. Không đúng sự thật một tí nào. Ngay một học giả Trung Quốc ở một tỉnh liền kề với Việt Nam còn nghĩ như thế thì … Trung Quốc có câu thành ngữ  “giá họa vu nhân”, tức là "gán họa cho người khác", "gán tai ương cho người khác", thật đúng là trường hợp này !

Qua những lần như thế tôi thấy rằng nhân dân Trung Quốc không tiếp cận được sự thật. Ngay cuộc trả lời phỏng vấn của tôi như thế, tôi nghĩ là với một đài truyền hình tương đối trung lập, không phải của chính phủ như thế, mà cũng còn bị cắt khúc thì làm sao mà người Trung Quốc có thể hiểu được. Cho nên điều rất cần là Việt Nam phải có một sự tuyên truyền như thế nào đó để cho nhân dân Trung Quốc thấy được sự thật.
Làm sao để chính nghĩa của chúng ta mọi người đều hiểu, các bạn Trung Quốc hiểu, nhân dân thế giới hiểu.
TS Vũ Cao Phan
Một trong những khiếm khuyết rất lớn của những người có trách nhiệm ở trong nước là không làm được cái việc tuyên truyền cho thế giới, cho nhân dân Trung Quốc thấy được chính nghĩa của chúng ta. Ta chỉ cần đưa ra những cái gì là sự thật thôi, ta không phải thổi phồng thêm một cái gì cả, rồi dần dần người ta sẽ hiểu.

Vừa rồi cuộc trả lời phỏng vấn của tôi với Đài Phượng Hoàng, tôi có cả bản trả lời bằng tiếng Hán và gửi sang bên Hồng Kông. Tôi có đề nghị là nên đưa cái này vào mạng. Họ bảo họ sẽ xem xét. Cho đến bây giờ những lời nói của tôi cũng còn không đưa được đến nơi đến chốn huống hồ là làm sao hy vọng được cả những cái này đước đưa thêm vào!

Cũng may là khi tôi trả lời cuộc phỏng vấn thì những người có trách nhiệm lập tức người ta có chỉ đạo những cổng thông tin, những kênh thông tin có tiếng Hán đưa kênh tiếng Hán vào, kênh tiếng Hán của cổng thông tin của chính phủ Việt Nam, kênh tiếng Hán của Thông tấn xã Việt Nam, và thậm chí cả kênh tiếng Hán của tờ báo điện tử của Đảng CSVN cũng rất là hào hứng đưa vào.

Tôi thấy như thế là được. Nhưng nói tóm lại nhìn một cách sâu xa là chúng ta thiếu sự tuyên truyền, thiếu cách làm cho thế giới, làm cho nhân dân Trung Quốc hiểu được bản chất của cuộc tranh chấp Việt - Trung này là gì, chính nghĩa của chúng ta ở đâu. Thế cho nên tôi rất chia sẻ với ý kiến của anh là chúng ta phải làm, nếu chúng ta chưa làm thì bắt đầu làm, mới làm một ít thì phải làm nhiều, làm sao để cái chính nghĩa của chúng ta mọi người đều hiểu, các bạn Trung Quốc hiểu, nhân dân thế giới hiểu. Đấy là ở đây tôi chưa muốn nói, việc im hơi, lặng tiếng chính là một cách không ngồi thẳng !       
   
Tàu chiến HQ-375 của Việt Nam- Ảnh báo QĐND
Tàu chiến HQ-375 của Việt Nam- Ảnh báo QĐND

Mặc Lâm: Theo ông thì những cuộc biểu tình vừa qua tại Hà Nội và Sài Gòn có tác dụng gì đến công cuộc chống lại những việc làm sai trái của Trung Quốc hay không và ông có ủng hộ những cuộc biểu tình như thế trong tương lai?


TS Vũ Cao Phan: Biểu tình là một cách tuyên truyền, như câu chuyện ta vừa nói với nhau. Mặt khác, mọi công dân đều có quyền chọn cách thể hiện phản ứng, biểu thị thái độ của mình trong sự cho phép của luật pháp. Như tôi được biết thì cách ứng xử của những người tham gia cũng như nhà chức trách trong những cuộc biểu tình vừa qua là có thể hiểu được và chấp nhận được. Hơi tiếc là Việt Nam ta chưa quen lắm với tập quán dân chủ này.
.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông!


CHUYỆN PHONG HỌC HÀM: "NHỤC LẮM, EM Ạ !"

Chim bói cá. Hình chỉ để trang trí, không liên quan đến bài viết.
Chuyện phong học hàm: “Nhục lắm, em ạ!” 

BẢN TIN CỦA RFI VỀ VIỆC BẮT GIỮ NGƯỜI BIỂU TÌNH PHẢN ĐỐI TQ

Human Rights Watch chỉ trích chính quyền Việt Nam 
bắt giữ người biểu tình phản đối Trung Quốc 
 
Những người biểu tình gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội ngày Chủ nhật 10/7/11.
Reuters
Đức Tâm
 
Theo hãng tin Đức DPA, hôm nay, 11/07/2011, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phụ trách châu Á của tổ chức Human Rights Watch đã chỉ trích Việt Nam sau vụ công an bắt giữ ít nhất 10 người đã tham gia cuộc biểu tình trước sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, ngày hôm qua.

Theo đại diện Human Rights Watch, thì chính phủ Việt Nam cần phải tôn trọng những công ước quốc tế về các quyền cơ bản của con người mà họ đã ký kết.

Liên tiếp trong sáu Chủ nhật vừa qua, người dân Việt Nam đã biểu tình trước cơ quan đại diện Trung Quốc ở Hà Nội để phản đối những hành động gây hấn của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Tuy nhiên, ngày hôm qua, công an Việt Nam đã mạnh tay trấn áp và bắt giữ ít nhất một chục người, trong đó có cả những nhà báo thuộc các hãng thông tấn nước ngoài. Theo một số nguồn tin thì tất cả những người này đã được trả tự do.

Ông Robertson cho rằng những cuộc biểu tình phản đối là cần thiết trong một giai đoạn nhất định để gây sức ép với Trung Quốc, tuy nhiên, chính quyền đã không cho phép biểu tình nữa khi họ bắt đầu tiến hành thương lượng với phía Trung Quốc.

Ngày 26/06 vừa qua, sau chuyến công du Trung Quốc của Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, đặc phái viên của các lãnh đạo cao cấp Việt Nam, hai nước đã ra một thông cáo báo chí chung, nói đến sự cần thiết phải định hướng công luận.

Trong những ngày sau đó, chính quyền Trung Quốc đã nhắc nhở Việt Nam tôn trọng những cam kết đạt được trong chuyến viếng thăm của Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn. Sự kiện này gây lo ngại trong công luận Việt Nam. Do vậy, đầu tháng Bẩy, một nhóm nhân sĩ và trí thức đã ký kiến nghị yêu cầu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết nội dung những thỏa thuận.

Theo thông tin trên mạng, thì Bộ Ngoại giao Việt Nam đã cử người tìm cách liên lạc để sắp xếp một cuộc gặp với các nhân sĩ, trí thức ký tên vào bản kiến nghị này.

Nguồn: RFI Tiếng Việt

THẬP THỦ LIÊN HOÀN CƯỚC CỦA BÁC HOA HÒE

Trên thềm Nhà Hát Lớn HN, người nghệ sĩ già chơi những bản nhạc ái quốc. Ảnh: GS. Hoàng Xuân Phú
NHÂN ĐỌC BÀI "SỰ KHÁC BIỆT LỚN LAO" CỦA TÁC GIẢ ĐÔNG A
(http://donga01.blogspot.com/2011/07/su-khac-biet-lon-lao_03.html)

Hoa Hòe

Đọc cái bài của Đông A tức khí quá nên HH làm ngay một mạch tới hơn 1 giờ sáng mới được 10 quả tạc đạn này, mong bác cho đăng thành bài vì không có chỗ để comment cho đúng

Mặc dù tác giả chưa viết xong bài và theo thói thường người ta không đi phê bình tranh khi nó còn là phác thảo, nhưng Hoa Hòe tôi nghĩ, ý tưởng căn bản của DA đã định hình trong các đoạn viết, và phần viết thêm nữa (nếu có) chỉ mạng tính liên kết hình thức, nên mạo muội có mấy lời phản ứng mời DA và chư vị ngụ lãm.

1. DA viết: “bởi vì tôi cho rằng dưới mỗi cái tên là một con người, mỗi tên là một người, tên khác thì người khác, nếu không thì chẳng hóa ra là cái tên hay chính con người chỉ là thứ phù phiếm, gọi cho nó có, không có giá trị tồn tại như một thực thể thực sự tồn tại.”

HH bình: Chắc chắn DA đã đọc câu thơ này của Shakespreare
What's in a name? that which we call a rose
By any other name would smell as sweet;

Cho dù ta có gọi hoa hồng bằng cái tên gì đi nữa nó vẫn tỏa hương hoa hồng. Có người ở nước ta sử dụng cả thảy hơn 70 tên. Nếu nói như DA thì người ấy có tới ngần ấy “con người” ư? Một cái tên là một “thực thể thực sự tồn tại” với tư cách một cái tên không phải một nhân cách. Dù là Đỗ Minh Tuấn hay Hoàng Khoa Quyền thì DA cũng phải đối xử như nhau: phản bác những gì Đỗ Minh Tuấn viết mà ông cho là sai và thừa nhận những gì ông cho là đúng trong bài phản bác của DMT. Tôi nghĩ mãi sao DA lại đi câu nệ mấy cái tên, hay bản thân DA bị rối loạn “đa nhân cách” (multiple personalities), bị nó ám ảnh nên nhìn đâu cũng thấy người giống mình.

2. DA viết: “Muốn thấy sự khác biệt lớn lao về cách nhìn biểu tình, không phải giữa tôi và bác Đỗ Minh Tuấn, mà chính sự khác biệt lớn lao giữa chính bác Đỗ Minh Tuấn và những người tham gia biểu tình, tôi xin được lấy chính ví dụ mà trong bài viết bác Đỗ Minh Tuấn nói tới: chàng thanh niên giơ biểu ngữ bất động…Tại sao chàng thanh niên đó ở nhà? Chính chàng trai đó đã giải thích "không làm gia tăng căng thẳng"… Sự khác biệt lớn lao về cách nhìn biểu tình đó nằm ở tri thức và lương tri của con người. Sự khác biệt lớn lao đó là nhân cách con người.

HH bình: Đúng như DA nói có sự khác biệt dễ thấy giữa hành vi của DMT và chàng thanh niên vào ngày chủ nhật thứ ba đó. Và hai hành vi xuất phát từ hai nhận thức khác nhau. Một của người già từng trải, một của người trẻ hồn nhiên. Người trẻ nhận thức “tình hình đã lắng dịu bớt” thì nghỉ biểu tình, người già nghĩ “phải tiếp tục để kẻ thù và bạn bè thấy biểu tình không phải là tụ tập ngẫu nhiên sớm nở tối tàn”. Đó là hai nhận thức khác nhau, nhưng đều hữu lý và không hề đối lập nhau bởi họ có một điểm chung là ý chí tự do. Họ tự do trong suy xét và thực hiện dự phóng của mình. Họ tự do lựa chọn hành vi bởi vì họ hơn ai hết khao khát được biểu thị cái phản ứng tự nhiên của lòng yêu nước theo cách mà họ mong muốn. Tôi không đi biểu tình, nhưng tôi cũng yêu nước và căm ghét bành trướng: tôi chống Tàu bằng cách không mua sản phẩm Tàu và kêu gọi những người quanh tôi làm như thế. DA cũng có thể thực hành yêu nước theo cách của riêng ông: không viết những bài gây tổn thương tới lòng yêu nước của đồng bào. 

3. DA viết: “Biểu tình là một hoạt động chính trị. Đấy không phải là nơi để cộng mỗi thứ một tý: một tý chính trị, một tý nghệ thuật, một tý triết lý, một tý yêu nước, một tý dân tộc... Đó không phải là hòn non bộ, thu gom mỗi thứ một tý để trở thành một thế giới con con thưởng ngoạn trong bóng ô dù.”

HH bình: Đúng, biểu tình là một hoạt động chính trị, nhưng không có cái gì trên đời là chính trị đơn thuần. Biểu tình còn có ý nghĩa văn hóa: người biểu tình không phá phách, không xả rác bừa bãi, đó là văn hóa. Biểu tình là một hoạt động thể lực: người già thấy tự hào về sức khỏe còn theo kịp người trẻ; người trẻ thấy mình cũng dẽo dai, bền bỉ không phải “công tử bột” như ai đó hay gán cho mình. Biểu tình còn là một hành vi tâm lý: nó mang lại cảm giác thoải mái khi sự dồn nén, ức chế được giải tỏa, giải phóng. Làm lãnh đạo mà không nghiên cứu tâm lý đám đông, không tìm cách xả “stress” cho đám đông thì quả là “đoản trí”. Biểu tình là một hoạt động giao tiếp liên nhân (interpersonal communication) trong đó các cá nhân làm quen, kết bạn trong một môi trường và hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, họ gắn bó với nhau bằng một thứ keo đặc biệt: lòng yêu nước được bộc lộ. Nhưng chắc chắn biểu tình không phải là cái món hổ lốn trong đầu DA mà thêm cái này một tí cái kia một tí.
Cho dù người ta hay nói “mọi so sánh đều khập khiểng, hãy xem ông DA so sánh mới nực cười làm sao: cái hòn non bộ là vật tĩnh mà biểu tình là một hoạt động; lấy cái tĩnh và so sánh với cái động thì chỉ có đầu óc “siêu hình” của DA mới kịp nghĩ ra.

Nếu ông DA không hiểu chính trị là nghệ thuật thì ông quả còn non kém về chính trị. Hippocrate gọi y học là nghệ thuật. Napoleon nổi tiếng một phần do nghệ thuật quân sự của ông. Khi chính trị gia thu hút được trái tim, khối óc của triệu người thì họ đang thực hành nghệ thuật chính trị.

4. DA viết: “Hoạt động chính trị - biểu tình - đấy, không phải là một thứ nghệ thuật, để có thể cho rằng thông điệp của nó tùy thuộc vào từng cá nhân tiếp nhận.Thông điệp của hành động biểu tình luôn được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Hãy xem chàng thanh niên giơ biểu ngữ bất động đã xác định thông điệp cho hành động của mình như thế nào.”

HH bình:

DA lại chơi trò đánh tráo khái niệm. Trong câu trên ông nói về “thông điệp được tiếp nhận” (received message), thì trong câu dưới ông nói tới thông điệp được phát đi” (sent message). Trong tín hiệu học (semiotics), ta có hai quá trình mã hoá (encode) và giải mã (decode). Thông điệp được mã hóa và thông điệp được giải mã khác nhau là chuyện bình thường. Nó phụ thuộc vào hiểu biết và nhận thức của người giải mã. Một chàng trai nhìn chằm chằm vào mặt cô gái vì cô ta có vết nhọ nồi trên má, nhưng cô gái thấy thế cứ tưởng là mình đẹp. Suy ra, cho dù biểu tình là một hoạt động chính trị hay nghệ thuật đi nữa thì chắc chắn thông điệp mà người biểu tình gửi gắm cũng sẽ được “nhào nặn” khác nhau bởi các đối tượng và nhóm lợi ích khác nhau. Nhà cầm quyền TQ chắc chắc nhìn nhận biểu tình khác Chính phủ Việt Nam, và người dân nhìn nhận khác chính phủ. Tuy nhiên, có một điều bất di bất dịch: dù là người dân hay chính phủ, dù TQ hay VN, dù kẻ thù hay bạn bè, khi thấy người dân Việt Nam biểu tình như vừa qua tất cả đều hiểu: VN không chấp nhận bị xâm lược. Cùng là người Việt Nam yêu nước nhưng người có tâm lý hướng ngoại thích thú với biểu tình hơn người có tâm lý hướng nội như tôi đây, chẳng hạn. Ông DA có lẽ cũng thích suy lý, phân tích thiệt hơn như tôi. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta lại căm ghét và phản đối biểu tình. Đừng nhìn biểu tình như cuộc nhậu, bởi vì cái men say của lòng ái quốc làm cho người ta sáng suốt, còn cái men rượu khiến người ta mụ mị, yếu hèn cả tinh thần lẫn thể xác. (Quang cảnh này phổ biến trên toàn cõi Việt Nam hiện nay – Nhậu)  

5. DA viết: “Biểu tình khác với nghệ thuật chính ở chỗ thông điệp của nó là xác định nhất quán. Không xác định được thông điệp thì đừng nói tới biểu tình.”

HH bình: Thông điệp nghệ thuật bao giờ cũng cũng đa tầng nghĩa, nhưng điều đó không có nghĩa là một mớ nghĩa hỗn độn. Thông điệp nghệ thuật bao giờ cũng nhất quán, thông qua đó người ta mới phân tích được tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Trước DA tôi chưa hề nghe ai nói nghệ thuật chuyển tải những thông điệp không nhất quán cả. Hy vọng là ông dùng chữ “nhất quán” tiếng Việt cũng như consistent, consistency trong tiếng Anh (Tôi phải nói thế vì thấy ông này hay chơi trò chữ nghĩa để hù dọa người ít chữ như tôi). Thông điệp biểu tình là nhất quán, duy chỉ có điều cách giải mã của ông DA là không nhất quán. Ban đầu ông thấy thế này, sau đó ông (hay biết đâu ai đó xúi ông phải) thấy thế kia. Khổ thân ông! Ông áp đặt cái lô-gic của ông vào cuộc sống thực làm gi? Sao không tư duy ngược lại

6. Không biết trí tuệ đã chạm tới sự khốn cùng hay chưa mà ông lại để lửng với lời hứa hẹn: [ sẽ có 1 đoạn ở đây]

Vì quá bế tắc trong mạch tư duy tối như hũ nút, DA quay qua vay mượn M. Kundera trong “Những Di Chúc Bị Phản Bội, bằng trích dẫn này: “Một hôm một ý nghĩ ghê người chợt đến với tôi: hay là những sự phẫn nộ ấy không phải do một thứ tự do nội tại, một sự dũng cảm, mà là do ý muốn làm vui lòng cái tòa án kia, trong bóng tối, nó đã đang chuẩn bị các phiên xử đại hình của nó?".

HH bình: DA tỏ ra nhiều nọc độc, như bác Diện đã có lần nói khi trích dẫn và in đậm phần này. Cái tòa án trong bóng tối mà ông đưa ra định ám chỉ điều chi? Ông muốn hạ thấp những người biểu tình ư? Ông dám chụp mũ những người biểu tình sao? 

7. DA viết: “Sự phẫn nộ đối với Trung Quốc của những người tham gia biểu tình vì được bật đèn xanh, như họ hồ khởi kháo nhau trước ngày biểu tình, có phải do một thứ tự do nội tại?... Sự phẫn nộ của họ là thuộc về những người bật công tắc đèn. Họ chỉ biểu lộ sự phẫn nộ đấy theo tín hiệu điều khiển xanh hay đỏ.”

HH bình: Đến đây, người ta thấy DA hiện nguyên hình một kẻ vỹ cuồng, coi quần chúng chỉ là một đám đông bát nháo, rơm rác. Sự phẫn nộ của mọi người Việt Nam trước hành động gây hấn của TQ là tự nhiên, tất yếu và có thật: bác bơm xe trước nhà tôi, chị bán phở đầu ngõ chưởi Tàu nhiều và “dữ” hơn tôi. Chị mắng cô em út đi lấy bánh phở về muộn: “Mày đi lấy bánh bị bọn Tàu nó cắt cáp sao bây giờ với về hả?” Sự phẫn nộ đó hiển hiện tận hang cùng ngõ hẽm và không cần ai bật đèn xanh cả. Chỉ có biểu hiện nó đồng thời, công khai, tập thể trên đường phố mới cần được bật đèn xanh. Vì sao? Vì cơ chế dân chủ chưa hoàn thiện, vì những lăng kính hẹp hòi, ích kỷ kiểu DA, vì cái tư duy bao cấp bao nhiêu năm đã ăn sâu vào tiềm thức của hơn một thế hệ, vì cái cơ chế xin cho đã làm hèn đi ngay cả những người thường vỗ ngực tự xưng ta đây là trí thức. Lỗi không phải ở người biểu tình, không phải ở những người khinh khỉnh nhìn biểu tình, không phải ở những người lo sợ đối phó với biểu tình. Lỗi là cái nếp nghĩ cổ lỗ đã ăn sâu thâm căn cố đế vào não trạng của rất nhiều người cả trong nhân dân lẫn trong chính giới. Thay đổi nó cần có thời gian và cần nhiều thực hành, trong đó thực hành sexy lòng yêu nước chỉ là một phần.

8. DA viết: “Theo một ý nghĩa nhất định, họ vừa đáng khinh, vừa đáng tội nghiệp hơn cả những người thay đổi quan điểm nhân danh sự hòa giải với tinh thần thời đại.”

HH bình: Tôi không hiểu DA đứng ở đâu, lấy tư cách gì để khinh khi những người tham gia biểu tình. Những giáo sư đáng kính, những người cựu tù, những văn nghệ sĩ tên tuổi, những thanh niên hăm hở, nhiệt huyết ấy lại là những người đáng khinh ư, đáng tội nghiệp ư? Thế DA kính trọng những ai ở đất nước này? DA có phải là người Việt Nam không? Ông có đáng đi xách dép cho Hồ Cương Quyết không? Đừng để mọi người đánh mất kiên nhẫn với ông! Đã đến lúc nhân dân nói lời phẫn nộ với ông rồi đấy. Ông cứ chờ đó mà xem!

Về “những người thay đổi quan điểm nhân danh sự hòa giải với tinh thần thời đại”, tôi không biết có phải ông định liên hệ với bài báo gần đây trên ĐĐK hay không, nên chưa dám bình.  

9. DA viết: “Ở đây phải thấy rằng trường hợp của họ cũng không giống trường hợp các cuộc biểu tình có tổ chức, khi những người tham gia biểu tình đồng chí hướng với những người tổ chức.”

HH bình: DA lại dùng trò xảo biện ở đây để lừa phỉnh người đọc. Cái khác biệt quan trọng không phải có tổ chức hay không tổ chức mà là tham gia tự nguyện hay bắt buộc, thưa ông DA kính mến. Dù một cuộc BT có đến vạn người tham gia nhưng những người tham gia hoặc để lấy tiền, hoặc vì ép buộc thì quả là khác xa về chất với một cuộc biểu tình tự phát chỉ dăm chục người bị thôi thúc bởi tấm lòng yêu nước thương nòi.

10. Tới đây không còn gì để bình nữa vì ông DA lại bế tắc và thế là ông đành viết:
(Chưa viết xong, tạm mào đầu như vậy, sẽ viết tiếp).

Để kết thúc, tôi khuyên ông đừng chìm trong mê lộ tư duy đó nữa, hãy bước ra cõi sáng sẽ thấy trời rộng thênh thang, không âm mưu, không trí trá, không xảo ngôn, không ngụy biện. Ông cứ vô tư đi, nghĩ gì viết nấy, thì cảm hứng sẽ dạt dào, ý tứ cứ thế mà tuôn ra đầu ngọn bút à quên, bàn phím.

Có mấy lời cùng ông và xin nói rõ với ông tôi vốn người thấp học, chủ yếu là tự học và tự đọc, nếu có chỗ nào về học thuật còn non kém xin ông chỉ giáo cho. Nhưng tôi viết bài này xuất phát từ lòng mình, ít nhiều cũng có phẫn nộ trước thái độ của ông với người biểu tình, mặc dù, như tôi đã nói, tôi vốn là người hướng nội, và có thể tôi không thích biểu tình, (nhưng tôi sẵn sàng ra trận khi Tổ Quốc cần vì một cuộc chiến chính nghĩa), nhưng tôi ủng hộ hành động của họ, còn ông, nếu không thích biểu tình cứ lo việc của ông hãy để người biểu tình lo việc của họ. Còn nếu ông thực sự quan tâm đến đất nước hãy hiến kế cho chính quyền để có phương thức quản lý hữu hiệu biểu tình thay vì mạt sát nó.

*Bài do Hoa Hòe tiên sinh gửi bằng comments. 
Xin đa tạ tiên sinh!

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2011

GẶP LẠI HAI GIÁO SƯ LƯƠNG - TUNG "TÀI NĂNG VÀ ĐẮC DỤNG"


 


Thôi, các bác bình gì thì bình. Tôi không bình nữa!

THƯ CỦA LS TRẦN VŨ HẢI GỬI BỘ NGOẠI GIAO VỀ BẢN KIẾN NGHỊ 2/7/11


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
*****
Hà nội, ngày 11/7/2011
Kính gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam
V/v: Buổi làm việc giữa đại diện Bộ Ngoại giao và những người ký tên Kiến nghị 2/7/2011.

Tôi – công dân Trần Vũ Hải, đang hành nghề luật sư, người chuyển Kiến nghị của 18 công dân Việt Nam yêu cầu Bộ Ngoại giao Việt Nam cung cấp thông tin về quan hệ với Trung Quốc (dưới đây viết tắt là Kiến nghị 2/7/2011) – được biết ngày 8/7/2011 đại diện Bộ Ngoại giao (ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban biên giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao) đã trao đổi với trợ lý của Luật sư Trần Vũ Hải (LS TVH) để xác định thời gian làm việc giữa đại diện Bộ Ngoại giao và 18 vị ký tên vào Kiến nghị trên. Ông Trần Duy Hải (TDH) đã đề nghị LS TVH thông tin cho các vị trên rằng 9 giờ sáng 13/7/2011, đại diện Bộ Ngoại giao (Ủy ban biên giới quốc gia) sẽ tiếp các công dân ký tên vào Kiến nghị tại trụ sở Bộ Ngoại giao (số 1 Tôn Thất Đàm). Trước đó, ông TDH đã liên lạc qua điện thoại với ông Chu Hảo, một vị ký tên Kiến nghị 2/7/2011, để mời 18 vị ký Kiến nghị này gặp đại diện Bộ Ngoại giao vào ngày 8/7/2011, và ngay sau đó, trợ lý của LS TVH đã liên lạc với ông TDH đề nghị Bộ Ngoại giao chuyển giấy mời riêng hoặc giấy mời chung thông qua văn phòng LS TVH để chuyển đến 18 vị trên.

Tôi đã thông tin nội dung trên cho các vị ký tên Kiến nghị 2/7/2011. Hầu hết các vị hoan nghênh tinh thần cầu thị của Bộ Ngoại giao,  cho biết sẵn sàng tham dự buổi làm việc giữa đại diện Bộ Ngoại giao và những người ký tên vào Kiến nghị. Các vị này cho rằng, đây sẽ là buổi làm việc chính thức, nghiêm túc, công khai giữa một Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với công dân, nên Bộ Ngoại giao cần có xác nhận bằng văn bản về buổi làm việc này, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm Buổi Làm việc, tên lãnh đạo Bộ Ngoại giao tham dự Buổi Làm việc, tên những người ký Kiến nghị 2/7/2011 được mời.  Tôi kính đề nghị Bộ Ngoại giao gửi văn bản với những nội dung trên tới Văn Phòng Luật sư Trần Vũ Hải, 81 Chùa Láng, Đống Đa, Hà nội, hoặc theo số fax: 3835.2455 để chúng tôi chuyển đến các vị ký Kiến nghị trên.

Chúc Buổi Làm việc giữa đại diện Bộ Ngoại giao và những người ký tên Kiến nghị 2/7/2011 sẽ diễn ra.

Nơi nhận:                                                                                                                                Trân Trọng
-Như trên.
-Các vị ký tên vào Kiến nghị 2/7/2011                                                                                Ký Tên
  Trần Vũ Hải


LỜI KỂ CỦA NHÀ BÁO PHI KHANH VỀ VIỆC BỊ TẠM GIỮ TẠI CƠ QUAN CÔNG AN

TÔI BỊ CÔNG AN TẠM GIỮ VÌ CHỤP ẢNH NHỮNG NGƯỜI BIỂU THỊ LÒNG YÊU NƯỚC
Phi Khanh

Nhà báo Phi Khanh

Sáng 10/7/2011 khi đi đến chơi nhà bạn ở 28 phố Điện Biên Phủ , quận Ba Đình, TP Hà Nội, tôi gặp một số người tự phát tụ tập biểu thị tinh thần yêu nước, bảo vệ biển đảo Việt Nam. Lúc ấy có hai xe bus đi đến, nhiều công an mặc sắc phục và những người mặc thường phục lao vào bắt giữ họ. Tôi vội lấy máy ảnh chụp nhanh vài kiểu. Một chiến sĩ công an thấy vậy túm ngay lấy tôi, đẩy lên xe bus. Tôi hỏi lớn: Tại sao lại giữ tôi? Người công an đẩy tôi lên xe đáp: Không cần biết, cứ lên đi! Thế là tôi cùng những người khác bị đưa đến trụ sở Công an Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội. Tại đây, các anh công an gọi từng người ra ghi biên bản. Tiếp xúc với tôi là một công an mặc thường phục. Tôi nói: Chúng ta làm quen với nhau đi, anh tên gì? Trả lời: Trần Quốc Hà, thiếu tá công an huyện Từ Liêm. Anh Hà lấy tờ giấy A4 bắt đầu hỏi: Bác tên gì, địa chỉ ở đâu? Tôi xuất trình chứng minh thư, thẻ nhà báo. Anh Hà ghi chép và hỏi: Vì sao bác đi biểu tình? Nghe câu hỏi suýt nữa thì tôi ngã ngửa. Rõ ràng anh này không nói chơi, nhưng tại sao anh lại dùng chữ “biểu tình” y như bọn phản động quốc tế thế nhỉ? Đường lối bảo vệ biển đảo của Nhà nước ta là rất rõ ràng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao ta đã từng tuyên bố là chỉ có một số ngưòi dân tụ tập tự phát để biểu thị tinh thần yêu nước chứ không có chuyện “biểu tình”. Rồi tôi hoang mang, chẳng lẽ bọn phản động quốc tế đã vào tận cơ quan Công an Hà Nội? Tất nhiên hỏi thì phải trả lời. Tôi nói ngắn gọn: Tôi không đi biểu tình, tôi đến chơi nhà bạn thấy có tụ tập thì chụp ảnh,đó là hành động tác nghiệp bình thường của nhà báo, thế thôi! Anh Hà hỏi tiếp: Bác có dùng ảnh để đăng báo không? Trả lời: Tôi chụp ảnh và phải báo cáo với Ban biên tập, còn đăng hay không là quyền của Ban biên tập chứ không phải quyền của tôi. Hỏi: Bác có nói thêm gì hay không? Trả lời: Anh ghi rõ vào, công an khi tiếp xúc với dân cần phải lễ phép. Theo Điều 5, Tiết 1 của Điều lệnh công an thì khi gặp dân phải đứng nghiêm, giơ tay chào, nói năng phải thưa gửi. Tôi thấy công an hôm nay rất thiếu văn minh và giữ tôi là vi phạm Luật báo chí, theo Nghị định 02/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì phải bị xử phạt hành chính. Anh Hà ghi xong đưa tôi đọc lại, câu chữ bị anh “bẻ cong” như thế này: “Tôi nhận thấy đã vi phạm Luật báo chí, phải bị xử phạt theo Nghị định 02…”. Tôi trả anh ta tờ giấy và bảo: Ghi như thế này không được, anh phải sửa lại là “tôi thấy công an đã vi phạm Luật báo chí…”, nếu không tôi không kí. Mất năm mười phút để tranh luận về câu chữ, tôi dứt khoát: Anh không sửa thì tôi không kí! Cần phải nói rõ là tôi hợp tác với công an, trình bầy đầy đủ nhưng công an không hợp tác với tôi, bằng chứng là không sửa theo lời tôi nói. Đến đây thì các anh công an bảo: Bác không kí thì chúng tôi cũng không cần! Tốt thôi, vậy là biên bản không có chữ kí của tôi.

Trong số những người bị tạm giữ có một anh nhà báo của đài truyền hình NTK và một chị của báo Asahi (Nhật bản). Tôi tự nghĩ nếu công an hỏi tôi thế nào thì chắc cũng hỏi hai nhà báo này y như vậy. Tức là sẽ hỏi: Vì sao các anh chị đi biểu tình, hoặc vì sao các anh chị đến nơi biểu tình? Mà như thế thì gay, bởi báo chí chính thức của Nhà nước nói rằng đưa tin biểu tình là vu cáo, hoàn toàn không phải là sự thật, chỉ có một số người tụ tập tự phát biểu thị tinh thần yêu nước. Nay anh công an hỏi thế thì quá là “lạy ông tôi ở bụi này” còn gì? Lạy ông Giời phù hộ cho các anh công an thông minh sáng suốt, đừng đặt câu hỏi ngớ ngẩn như thế với những phóng viên báo chi nước ngoài.

Các anh công an ghi biên bản với từng người, một lát sau anh công an tên Thanh (tôi hỏi họ gì nhưng anh không nói) bảo tôi: Bác có thể về được rồi! Tôi vê vê ngón tay làm động tác đếm tiền và hỏi: Đâu nhỉ? Anh Thanh ngạc nhiên: Bác hỏi gì cơ? Đến lượt tôi ngạc nhiên y như anh: Năm chục đi xe ôm chứ còn gì nữa! Anh Thanh bảo: Làm gì có! Hỏi lại: Vậy tôi về bằng gì? Các anh công an xúm vào chứng minh rằng không ai đưa tiền cho tôi, rằng tôi về đi. Tôi đáp: Tôi không đi đâu hết, các anh đưa tôi đến đây thì phải có trách nhiệm đưa tôi về, nếu không thì gọi cái xe bus đã chở tôi đến đây trả tôi về chỗ sáng nay. Tôi gọi điện cho Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh nhưng không thấy Trung tướng nhấc máy. Cuối cùng các anh công an Mỹ Đình đưa cho tôi 50 nghìn đồng để đi xe ôm về. Ngay lúc đó tôi gọi một anh xe ôm đến và bảo: Nhờ anh chở tôi về sân Cột cờ cạnh Lăng Bác, gửi anh cả 50 nghìn đồng này, thừa thiếu không tính nhé! Anh xe ôm cầm tiền cười ngặt nghẽo: Hay thật !

      
       Những công dân bị đưa lên xe bus về cơ quan Công an Mỹ Đình

   Nguồn:  http://honglam.vnweblogs.com/
   Nguồn: Trần Nhương.com

Chùm ảnh bạn đọc gửi đến:
Hình ảnh được cho là người Trung Quốc có mặt 
trong các cuộc biểu tình tại Hà Nội











Người đàn ông này đã có mặt trong cuộc biểu tình ngày 26.6.Ảnh chụp ngày 26.6.2011
 

NGÀY MAI, CƯỠNG CHẾ TẠI KHU ĐẤT VÀNG 22-24 HÀNG BẢI, HÀ NỘI

 
Dự án khu đất “vàng” 22 – 24 Hàng Bài:
Kết luận thanh tra đã thực sự khách quan?

Trần Hải Sơn

Dư luận đang rất quan tâm đến cách giải quyết các khiếu nại liên quan đến quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi khu đất “vàng” 22 – 24 Hàng Bài của các cơ quan chức năng Thành phố Hà Nội. Vụ việc này thu hút sự chú ý của mọi người bởi nó chính là phép thử xem liệu pháp luật có thực sự đi vào cuộc sống và được chính các cơ quan Nhà nước tôn trọng hay không?
Một câu hỏi khác đang chờ được giải đáp đó là cách ứng xử của chính quyền đối với gia đình chính sách? Khi tổ quốc lâm nguy, người dân cả nước nói chung và con em các hộ dân trong số nhà 22 Hàng Bài nói riêng đã không tiếc máu xương chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng đất nước, có người con ra đi từ số nhà này đã mãi mãi không trở về, cũng có bà mẹ già trong gia đình này vò võ chờ con, hằng đêm khóc thầm và chỉ biết tưởng nhớ tới con qua tấm bằng Tổ Quốc ghi công. Có gì cao cả hơn những đóng góp đó? Có gì thiêng liêng hơn sự hy sinh đó? Khi đã trải qua những mất mát lớn lao như vậy thì vấn đề vật chất đâu có nhiều ý nghĩa, cái mà người dân mong chờ là sự công bằng. Tuy nhiên, điều này dường như là một sự đòi hỏi xa xỉ trong cái nhộn nhạo, ồn ào của nền Kinh tế thị trường. Người ta đôi khi chỉ nhìn vào các giá trị vật chất và để cho các giá trị này dẫn dắt mình, họ đâu biết các giá trị tinh thần và tâm linh của Ngôi nhà đôi khi còn quan trọng và ý nghĩa hơn nhiều bởi đó chính là một phần máu thịt trong tâm hồn mỗi con người và chính các giá trị này đã từng một thời tạo nên cốt cách của người Hà Nội, điều mà nhiều nhà văn hóa đang tìm kiếm, gìn giữ.    
Ánh sáng của công lý tưởng như le lói trong lòng những người dân đang sinh sống tại đây khi Văn phòng Chính phủ có công văn số 1348/VPCP-KNTC đề nghị UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo kiểm tra lại vụ việc và UBND thành phố Hà Nội ra văn bản số 1853/UBND-TNMT với nội dung giao các cơ quan hữu quan của thành phố kiểm tra, rà soát quá trình giải quyết khiếu nại quyết định thu hồi đất. Trong thời gian kiểm tra, UBND quận Hoàn Kiếm tạm dừng việc thực hiện các quyết định 424 và 425 về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất. Nhưng “niềm vui ngắn chẳng tày gang”, cái tia hy vọng nhỏ nhoi đó như vụt tắt khi Thanh tra thành phố ra Báo cáo thanh tra và UBND thành phố ra văn bản không chấp nhận khiếu nại của các hộ gia đình nơi đây. Mặc dù vậy, kết quả này hoàn toàn có thể đoán trước được khi Chủ đầu tư đã nhiều lần “cởi mở” về năng lực của họ trong việc tác động đến quá trình ra Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất. Vậy khả năng thực sự của họ có như họ thể hiện không? Sự thật và công lý liệu có giành được chiến thắng?
Những câu hỏi trên sẽ được lần lượt làm sáng tỏ qua các phân tích sau:
 1. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất của UBND quận Hoàn Kiếm có đúng luật?
Các chuyên gia, luật sư đã đưa ra những đánh giá cụ thể và rõ ràng về vụ việc này trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Đơn cử như quan điểm của GS. TS Đặng Hùng Võ: “Dự án Trung tâm thương mại - Văn phòng và nhà ở tái định cư tại 22-24 Hàng Bài không thuộc dự án loại A nên chủ đầu tư phải thoả thuận giá đền bù với người dân. Việc phải thoả thuận giá đền bù đồng nghĩa với việc không được phép cưỡng chế”.  Ông Võ nhấn mạnh:Theo tôi, không nên so sánh giá đất mà các hộ dân ở đây đưa ra cao hay thấp mà điều quan trọng là thoả thuận có đạt kết quả không? Có đúng các quy định trong Bộ luật Dân sự không?"[1].
Đây là một nhận xét đúng đắn và khách quan. Nghiên cứu các quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề này, cụ thể là các quy định từ Điều 38 đến Điều 45 thuộc  Mục 4 – Thu hồi đất, Chương 2 của Luật Đất đai 2003, chúng ta thấy rằng:
 “Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất”- Khoản 2 Điều 40.
Ngoài ra, Nhà nước chỉ thực hiện việc thu hồi đất trong các trường hợp thuộc Khoản 1 Điều 40 Luật Đất đai:
“1. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 đã đưa ra định nghĩa rõ ràng về việc thu hồi đất cho mục đích phát triển kinh tế. Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 35/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) cũng thể hiện rất chi tiết thế nào là dự án nhóm A. 
Hơn nữa, theo Điều 28 Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chúng ta thấy những trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 1 Điều 40 nêu trên, Nhà nước không áp dụng thủ tục thu hồi đất mà chủ đầu tư và người sử dụng đất thỏa thuận theo hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất…
“Điều 28: Áp dụng thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất đối với dự án đầu tư
1. Trình tự, thủ tục thực hiện đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế:
2. Đối với dự án đầu tư sử dụng đất không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì không phải làm thủ tục thu hồi đất; sau khi được giới thiệu địa điểm, chủ đầu tư và người sử dụng đất thỏa thuận theo hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp thay đổi mục đích sử dụng đất”.

Bên cạnh đó Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 năm 2005 cũng quy định:
“Điều 5. Bảo hộ quyền sở hữu nhà ở
1. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của chủ sở hữu.
2. Nhà ở thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân không bị quốc hữu hoá. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quyết định trưng mua hoặc trưng dụng nhà ở thì Nhà nước bồi thường cho chủ sở hữu nhà ở theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán và tạo điều kiện để họ tạo lập nhà ở khác”.
Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn  rằng, dự án này chịu sự điều chỉnh của Khoản 2 Điều 28 Nghị định 69 năm 2009 và khoản 2 Điều 40 Luật Đất đai 2003, Điều 5 Luật Nhà ở 2005 nên không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế được. Chủ đầu tư phải thỏa thuận với các hộ dân theo hình thức chuyển nhượng, góp vốn, cho thuê… bởi dự án này không thuộc Khoản 1 Điều 40 Luật Đất đai 2003 như trích dẫn ở trên.

2. Báo cáo kết quả thanh tra số 1169/BC-TTTP-P2 ngày 10 tháng 06 năm 2011 có khách quan?

- Việc Thanh tra thành phố cố gắng bảo vệ quyết định số 7774/QĐ-UB ngày 17/11/2004 của UBND thành phố thu hồi đất tại 22- 24 Hàng Bài dựa trên cơ sở Luật Đất đai 1993Nghị định 04/2000/NĐ-CP, Nghị định 66/2001/NĐ-CP  …  để cho rằng, các văn bản pháp lý này quy định không phải thỏa thuận với người đang sử dụng đất khi thu hồi đất, là điều có thể đoán trước được. Tuy nhiên hẳn Thanh tra thành phố không thể vì vậy mà cố tình “bóp méo” luật pháp bởi vào thời điểm ra quyết định, ngày 17/11/2004, thì Luật Đất đai 2003 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004) và văn bản hướng dẫn quan trọng của Luật như Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai đã có hiệu lực và thay thế hai Nghị định nêu trên (Nghị định 181 có hiệu lực từ ngày 16/11/2004 và Khoản 2 Điều 186 quy định Nghị định này thay thế hai Nghị định trên).
Việc viện dẫn công văn số 2162/BTNMT-ĐĐ ngày 02/07/2004 về việc thi hành Luật Đất đai 2003 trong thời gian chưa có các Nghị định hướng dẫn để giải thích cho tính hợp lý của Quyết định 7774/QĐ-UB là ngụy biện bởi nếu áp dụng Luật đất đai cũ cùng các văn bản hướng dẫn của nó thì căn cứ vào Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11 tháng 02 năm 2000 thì toàn bộ trình tự tiến hành thủ tục để UBND Thành phố ra Quyết định giao đất chỉ mất 30 ngày. Như vậy, không thể có chuyện công ty kinh doanh xây dựng nhà (Thuộc Tổng công ty đầu tư phát triển nhà Hà Nội) nộp hồ sơ trước ngày 01/07/2004 bởi đến ngày 17/11/2004 UBND thành phố mới ra Quyết định.
Việc dẫn chiếu Thông tư 01/2005/TT-BTNMT ngày 13/04/2005 để bảo vệ và hợp lý hóa một Quyết định ra trước đó gần 5 tháng là không thuyết phục và mâu thuẫn với chính các quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Vì vậy, không thể dựa vào Luật và Nghị định đã hết hiệu lực để ra quyết định khi mà Luật và Nghị định thay thế đã có hiệu lực pháp lý, điều này cũng đồng nghĩa với việc Quyết định 7774/QĐ-UB không có giá trị pháp lý.
- Thanh tra Thành phố cho rằng việc UBND quận Hoàn Kiếm ban hành Quyết định số 424/QĐ-UBND, Quyết định số 425/QĐ-UBND ngày 02/03/2011 áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành quyết định thu hồi nhà đất tại số nhà 22 phố Hàng Bài là thực hiện theo Khoản 1 Điều 40 - thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế cũng là ngụy biện bởi Khoản 1 Điều 40 và Khoản 2 Điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004,  Điều 28 Nghị định 69/2009/NĐ-CP năm 2009 của Chính phủ quy định rất rõ về trường hợp này như đã phân tích ở đầu bài viết.
Hơn nữa, dù muốn gò ép đến đâu thì dự án xây dựng Trung tâm thương mại của công ty Cổ phần thời đại mới T&T cũng không thể nào thuộc sự điều chỉnh của Điều khoản luật trên. Nghị định số 12/2009/NĐ-CP năm 2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình cũng đưa ra định nghĩa rất rõ về các dự án thuộc nhóm A trong phần Phụ lục. Vì vậy, việc tìm cách đánh tráo khái niệm ở đây càng trở nên nực cười.
Chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên mọi cá nhân và tổ chức cần hành động trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Dư luận không thể tán thành với kết luận trên của Thanh tra thành phố Hà Nội khi cố tình vận dụng sai Luật theo hướng có lợi cho Chủ đầu tư. Trong buổi Đối thoại với các thành phần có liên quan và gia đình ông Hoàng Đình Trung  ngày 22 tháng 06 năm 2011 tại Trụ sở Thanh tra thành phố Hà Nội, ông Lưu Đức Bảo, Trưởng phòng Thanh tra 2 và cũng là người chủ trì buổi Đối thoại đã rất “sốt sắng” đưa ra định nghĩa hoàn toàn “mới” về “thu hồi đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế” nhằm chứng minh dự án của công ty cổ phần T&T tại khu đất “vàng” nêu trên thuộc sự điều chỉnh của Khoản 1 Điều 40 Luật Đất đai 2003 nêu trên khi ông Bảo lập luận: “Đây là trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế  … vì dự án này có đóng thuế”. Hẳn người đọc sẽ vô cùng ngạc nhiên với quan điểm này bởi có doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, thậm chí hộ kinh doanh cá thể nào (thuộc mọi thành phần kinh tế) không phải thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước?  Với định nghĩa này, ông Bảo đã thể hiện sự “dũng cảm” khi giành quyền giải thích pháp luật, một đặc quyền mà Khoản 3 Điều 91 Hiến pháp 1992 chỉ giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Khi được hỏi rằng trường hợp này cần phải áp dụng Luật Đất đai nào, ông Lưu Đức Bảo khẳng định là áp dụng Luật Đất đai 2003. Câu trả lời này là chính xác và cũng phù hợp với mạch ý mà ông và kết luận trong Báo cáo Thanh tra muốn khẳng định khi chứng minh cho dự án của Công ty CP T&T thuộc sự điều chỉnh của Khoản 1 Điều 40 Luật Đất Đai (mặc dù sự chứng minh này không có căn cứ pháp lý vì thực ra dự án này thuộc sự điều chỉnh của Khoản 2 Điều 40 Luật Đất đai 2003 như đã dẫn chứng ở trên). Với sự khẳng định này, ông Bảo đã vô tình loại bỏ tính pháp lý của Quyết định 7774/QĐ-UB ngày 17/11/2004 của UBND thành phố Hà Nội thu hồi đất tại 22 – 24 Hàng Bài vì Quyết định này được ban hành căn cứ theo Luật Đất đai 1993 và Nghị định 04/2000/NĐ-CP, các văn bản này đều đã hết hiệu lực tại thời điểm đó. Đã biết việc áp dụng Luật Đất đai 2003 là đúng, vậy tại sao ông, với vốn kiến thức “uyên thâm” của mình, lại cứ ra sức bảo vệ cho tính “pháp lý” của Quyết định 7774/QĐ-UB ngày 17/11/2004 và thể hiện sự bảo vệ đó một cách mạnh mẽ trong kết luận của Báo cáo Thanh tra số 1169/BC-TTTP-P2 ngày 10 tháng 06 năm 2011?  Đây là câu hỏi mà dư luận đang muốn tìm lời giải đáp.   

3. Có “khuất tất” gì trong việc ban hành Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất?
Thực tế, chủ đầu tư đã chứng minh được “năng lực” đặc biệt của mình trong việc thâu tóm khu đất “vàng” 22 – 24 Hàng Bài thông qua quá trình cổ phần hóa Công ty kinh doanh và xây dựng nhà (Thuộc tổng Công ty đầu tư phát triển nhà Hà Nội – Handico). Độc giả có thể tham khảo bài báo Vụ 1 tỷ đồng/m2: Cưỡng chế lại hoãn, tại sao? trên Diễn đàn kinh tế Việt Nam – VEF số ra ngày thứ bảy 23/04/2011 để thấy rõ việc phù phép biến đất Nhà nước thành đất của các ông chủ tư nhân qua phân tích của tác giả bài báo.  
Vì tự tin vào các “mối quan hệ” của mình nên trong quá trình làm việc, thương lượng với các hộ dân trong số nhà 22 Hàng Bài, đại diện Công ty CP T&T luôn thể hiện thái độ thách thức, thiếu thiện chí. Không ngừng phát huy và thể hiện “năng lực” đặc biệt đó, cũng trong buổi Đối thoại nói trên, Đại diện chủ đầu tư, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị CTCP T&T Trần Hồng Sơn đã bày tỏ quan điểm rất “cởi mở”. Những thông tin mà ông Sơn đưa ra tại cuộc họp khiến người nghe phải giật mình bởi thông qua những lời nói mang tính “hù dọa”, người nghe cảm thấy ông có mối quan hệ rất thân thiết với các quan chức cấp cao khi ông trích dẫn lời nói và quan điểm của các vị này. Mặc dù cũng chỉ là một bên được Thanh tra thành phố mời tham gia buổi Đối thoại nhưng ông đã mạnh miệng chê Hà Nội khi nói: “Chính phủ cho rằng thành phố quá nhu nhược”. Đáng chú ý hơn, ông Sơn còn có lời lẽ xúc phạm những hộ dân nơi đây khi nói: “Anh Khôi[2] cho rằng đòi hỏi của các hộ gia đình là quá lố. Ô hay! Những thông tin này, nếu có, phải được truyền đạt bởi đại diện các cơ quan chính quyền, hà cớ gì mà ông Sơn lại chủ động chiếm lĩnh vị trí phát ngôn viên của các cơ quan đó. Dư luận cũng thấy thật lạ bởi dân có thiện chí thì họ mới tham gia đàm phán khi nhận được đề nghị của chủ đầu tư, đã đàm phán thì mỗi bên phải đưa ra quan điểm của mình để cùng thương lượng, vậy mà lại bị coi là “lố”?
Không biết những gì ông Sơn nói có đáng tin không, hy vọng đó là những điều không có thật bởi những vị quan chức cấp cao, những người được nhân dân tín nhiệm giao trọng trách thì không thể có những nhận xét hồ đồ như vậy. Tuy nhiên, nếu đó là sự thật thì sự ngạo mạn mà ông thể hiện là điều có thể hiểu được và như vậy, việc người dân mang đơn đi khiếu nại để tìm công lý chẳng khác nào “mò kim đáy bể”.    
4. Trông đợi vào ánh sáng công lý.
Qua những phân tích trên, tính “khách quan” của Báo cáo Thanh tra số 1169/BC-TTTP-P2 ngày 10/06/2011 đã được phơi bày, với Báo cáo này thì văn bản số 4749/UBND-TNMT ngày 14/06/2011 của UBND thành phố Hà Nội cũng khó có thể đảm bảo được công bằng cho người khiếu nại.
Muộn còn hơn không, thành phố nên thu hồi ngay văn bản này, đồng thời đình chỉ 2 Quyết định số 424/QĐ-UBND và Quyết định số 425/QĐ-UBND của UBND quận Hoàn Kiếm ngày 02/03/2011 vì các văn bản này không phù với chính Quyết định số 18/2008/QĐ-UBND ngày 29 tháng 9 năm 2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội.  Điều 3 Quyết định 18 nêu rõ:
Những trường hợp sau đây không áp dụng bản quy định này (Thực hiện khoản 2 Điều 40 Luật Đất đai 2003; khoản 3 Điều 1 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP; khoản 2 Điều 41 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và khoản 2 phần I Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính)
1.      Dự án sản xuất kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, nhà đầu tư được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất
Hơn nữa, văn bản 4749/UBND-TNMT của thành phố và hai Quyết định trên của UBND quận Hoàn Kiếm cũng không phù hợp với Quy định về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư… (Ban hành kèm theo Quyết định số 39/2008/QĐ-UBND ngày 22/10/2008 của UBND thành phố Hà Nội). Điều 6 Quy định này nêu rõ:

“Các trường hợp Nhà nước không ban hành quyết định thu hồi đất
1. Nhà nước không thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án không thuộc phạm vi điều chỉnh tại khoản 2 Điều 3 và Điều 4, Điều 5 Quy định này; hoặc trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện dự án có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 4, Điều 5 Quy định này nhưng chủ đầu tư tự nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người đang sử dụng đất”.

Có thể khẳng định dự án này thuộc sự điều chỉnh của Điều 6 Quyết định nêu trên bởi các lập luận như đã phân tích. Ngoài ra, dự án này cũng không hề tồn tại trong Quyết định số 96/2000/QĐ-UB của UBND thành phố về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, tỷ lệ 1/2000.

Thiết nghĩ, một Quyết định hợp lòng dân và dựa trên các quy định của pháp luật thì dù có phức tạp và khó đến đâu thì người dân vẫn chấp hành. Trong chiến tranh lẫn thời bình, rất nhiều gia đình sẵn sàng hiến nhà, hiến đất để Nhà nước thực hiện các mục tiêu công ích, có lợi cho xã hội như làm đường, xây trường học, bệnh viện…. Tuy nhiên, nếu khiên cưỡng mà áp dụng cưỡng chế sai Luật, lòng tin của nhân dân vào nhà nước sẽ bị tổn hại nghiệm trọng. Cái mất không chỉ bó hẹp trong phạm vi một khu phố, một dự án mà nó sẽ lan tỏa nhanh trong xã hội. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ nghĩ sao khi các cơ quan công quyền áp dụng sai luật gây mất công bằng?  Họ có còn mạnh dạn đầu tư vào một môi trường thiếu minh bạch như vậy không?  Đây cũng chính là những băn khoăn mà rất nhiều nhà đầu tư muốn bày tỏ. Lòng tin của người dân, vì vậy, là báu vật mà chính quyền cần gìn giữ.

  Đảng ta luôn quan tâm tới việc xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên phương châm lấy dân làm gốc phải được các “đầy tớ của dân” coi là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Để chủ trương này không chỉ là khẩu hiệu, chính quyền phải luôn khách quan và quan tâm đến nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của người dân. Muốn vậy, mọi công chức phải thấm nhuần tư tưởng thượng tôn pháp luật, các cơ quan Nhà nước chỉ được “làm những gì Luật pháp cho phép”, còn người dân “được làm những gì Luật không cấm”, đó chính là cốt lõi của một Nhà nước pháp quyền và một Xã hội Dân  sự lành mạnh.
 

[1] Ngân Hà, báo Tiền Phong ngày 08/02/2011.
[2] Ông Hoàng Công Khôi, Bí thư Quận ủy Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

*Bài viết do tác giả gửi đến NXD-Blog, thể hiện quan điểm riêng của tác giả!