Hiển thị các bài đăng có nhãn Công hàm PVĐ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Công hàm PVĐ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

BIỂN ĐÔNG: CÔNG HÀM PVĐ DƯỚI ÁNH SÁNG LUẬT QUỐC TẾ


Biển Đông: Công hàm Phạm Văn Đồng 
dưới ánh sáng luật quốc tế 

Pháp luật TPHCM
Thứ Ba, ngày 5/5/2020 - 01:45 

(PL)- Nguyên tắc của luật pháp quốc tế là không được phép suy diễn một cách chủ quan, mà phải tìm ý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạm vi những câu chữ được dùng trong văn kiện.

Tin liên quan
Biển Đông: Hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng
Biển Đông: Philippines gửi 2 công hàm phản đối Trung Quốc
Việt Nam nói về công hàm phản đối Trung Quốc ở biển Đông

Trong kỳ 1 với tựa đề “Hiểu đúng ý nghĩa công hàm Phạm Văn Đồng, PGS-TS Vũ Thanh Ca, nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đã lý giải hoàn cảnh ra đời và nội dung của hai văn kiện: (i) Tuyên bố về lãnh hải từ phía Trung Quốc (TQ); (ii) Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 liên quan Biển Đông.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

CHUYÊN GIA VN BÁC BỎ LUẬN CỨ CỦA TÀU VỀ CÔNG HÀM PVĐ


Chuyên gia Việt Nam bác bỏ luận cứ Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng

Quốc Phương,
BBC News Tiếng Việt, London
25/4/2020

Trung Quốc tới nay vẫn sử dụng thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

Nhắc về Hoàng Sa, Trung Quốc nói công hàm Việt Nam ‘phi pháp, vô hiệu’

Vậy đánh giá mới nhất của các chuyên gia Việt Nam là thế nào?

Đó là ý kiến từ giới nghiên cứu luật pháp và chính trị quốc tế bình luận với BBC News Tiếng Việt trong dịp này.

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Lật chồng báo cũ: HÓA GIẢI CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG 1958?

Hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958? 
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-01-07


Công hàm Phạm Văn Đồng 1958, công nhận hải phận 12 hải lý từ đất liền Trung Quốc kể cả các đảo ngoài khơi, được Bắc Kinh tận dụng cho chiến lược cưỡng đoạt chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa. Việt Nam đã làm gì để hóa giải điều gọi là khúc xương mắc nghẹn này.

Sau 53 năm im lặng không nhắc lại thư ngoại giao năm 1958 của thời kỳ hữu hảo xã hội chủ nghĩa giữa Việt Nam và Trung Quốc, đến tháng 7/2011 Hà Nội bắt đầu sử dụng báo chí để công khai nội dung công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bày tỏ sự tán thành tuyên bố trước đó 10 ngày của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

CÔNG HÀM 1958 VỚI CHỦ QUYỀN HOÀNG SA-TRƯỜNG SA CỦA VN


BÀI BÁO QUAN TRỌNG VỀ CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG
CỦA NHÓM PV BIỂN ĐÔNG BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT (NĂM 2011).

 
Trang thông tin Chính phủ lưu giữ đăng lại:
Thứ sáu 23/05/2014 10:13 


Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

(Chinhphu.vn) - Trung Quốc mới đây lại viện dẫn Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một "bằng chứng" về việc Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song đây là một "vở diễn lại" quá lố của Trung Quốc bởi công luận Việt Nam đã từng phân tích sáng tỏ nội dung Công hàm 1958, khẳng định rằng văn bản này được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Lê Thanh Vân: BÀN VỀ CÔNG ĐIỆN CỦA CỐ TT PHẠM VĂN ĐỒNG


Lê Thanh Vân

BÀN VỀ CÔNG ĐIỆN CỦA CỐ THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG

Cần hết sức tỉnh táo và thận trọng trước luận điệu xuyên tạc bỉ lậu, trầy bựa từ phía Trung Quốc đối với Công điện ngày 14/9/1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thực chất của sự kiện này là:

(1) Đây là công điện - một hình thức văn bản ngoại giao, chứ không phải là một văn bản pháp lý. Công điện ấy có nội dung bày tỏ sự ủng hộ về quan điểm mở rộng hải phận ra 12 hải lý trong bối cảnh Hội nghị quốc tế về luật biển diễn ra ở Genève cùng thời điểm. Lúc đó, Mỹ đề nghị hải phận chỉ có 3 hải lý.

Huy Đức: MIẾNG BẢ CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ VÔ SẢN TRONG TAY TQ


Huy Đức:

MIẾNG BẢ CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ VÔ SẢN
TRONG TAY TRUNG QUỐC


Xung đột Biển Đông được đặt lên bàn nghị sự lúc này là cần thiết. Nhưng, trong mối quan hệ giữa Hà Nội với Bắc Kinh không chỉ có vấn đề Biển Đông. Để xử lý mối quan hệ ấy, không những cần sách lược khôn ngoan mà còn phải được đặt trong tầm nhìn chiến lược.

Một người giúp việc gần như trọn đời với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và từ năm 1949 đến 1969, luôn ở bên cạnh Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh - ông Trần Việt Phương - nói rằng: “Trong lịch sử nghìn năm giữ nước của Việt Nam, chưa có thời đại nào ngây thơ, mất cảnh giác với Trung Quốc như thời đại Hồ Chí Minh”. Sở dĩ có sự “mất cảnh giác” này, theo ông Việt Phương là vì, Hà Nội đã “Có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa”.

GÓC NHÌN VỀ CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG (1958)


Nguyễn Xuân Văn
Góc nhìn về Công hàm Phạm Văn Đồng, 1958

Ngày 17/4/2020, Chính phủ TQ có Công Hàm gửi LHQ, trong đó có đoạn:

“Vào ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Hoa ban hành Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải của Trung Hoa, tuyên bố một lãnh hải rộng mười hai hải lý, và quy định rằng, Quy định này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm quần đảo Hoa Đông, Hoàng Sa, Trung Xa (bãi cạn Scarborough của Philippines- lời người dịch), Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Hoa. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao tới Chu n Lai, Thủ tướng Hội đồng Nhà nước Trung Hoa, tuyên bố long trọng rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 và rằng chính phủ của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tôn trọng quyết định này”. (Nguồn internet - xem phần dưới)

VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO: CÁI BẪY CỦA TRANH LUẬN


Chu Mộng Long

VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO: CÁI BẪY CỦA TRANH LUẬN

Nhiều người chê mà như khen: "Thâm như Tàu!". Nhưng tôi vẫn cho rằng, trí tuệ Việt chưa hẳn thua Tàu. Chỉ bởi trí thức Việt hiện đại ngày càng hoặc mê phục Tàu hoặc chống Tàu một cách võ biền. Còn ngày xưa đã từng có bao nhiêu sứ giả thông minh khẩu chiến trực tiếp với Tàu, buộc vua Tàu phải bái phục và thừa nhận chủ quyền của Việt Nam.

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

TÁC DỤNG PHÁP LÝ THƯ PVĐ QUA LĂNG KÍNH BA PHÁN QUYẾT TÒA ÁN QUỐC TẾ

Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

GS Nguyễn Văn Tuấn
26-07-2014

H2
Gs Phạm Quang Tuấn mới viết bài sau đây về 3 phiên toà quốc tế có ý nghĩa đến công hàm Phạm Văn Đồng. Bài viết có lẽ là một phản bác trực tiếp các luận điểm của vài luật sư VN nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng vô hại (bằng cách viện dẫn vài phiên toà trước đây). Bài viết rất mạch lạc, giải thích đâu ra đó, ai đọc cũng có thể nắm được vấn đề. Bài hơi dài, nhưng kết luận như sau:

“Kết luận:

1. Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.

2. “Ý định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn giấu giếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải thích.

3. Những nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Nguyễn Văn Tuấn: CÔNG THƯ CỦA ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG

Công thư của ông Phạm Văn Đồng

FB Nguyễn Văn Tuấn
14-06-2014

H4
Một trong những di sản đau buồn nhất của các lãnh tụ cộng sản ở VN là cái công thư của ông Phạm Văn Đồng (PVĐ) gửi cho ông Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958. Có người nặng lời nói rằng đó là một công văn “bán nước”, nhưng cũng có người bình tĩnh hơn nói rằng công văn đó chẳng có giá trị pháp lí. Công văn ngắn nhưng có thể nói là tai hại này đã được Tàu cộng dùng làm một trong những chứng cứ để giành chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Công thư này đã làm cho biết bao người Việt Nam phải đau đầu với nó, tìm cách hoá giải nó. 

Trong những người mới đây lên tiếng có Gs Cao Huy Thuần (1), Phong Uyên (2), và Gs Ngô Vĩnh Long (3). Các học giả bác bỏ tính pháp lí của công thư PVĐ và biện minh rằng ông ấy và Chính phủ ông ấy (ở miền Bắc) không có quyền giao nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (HS-TS) cho Tàu cộng, vì lúc đó hai quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà. Nói nôm na: anh không thể bán cái mà anh không có. Nghe qua thì cũng có lí, nhưng thật ra, trong công thư đó ông PVĐ chẳng có đề cập đến HS-TS. Hôm qua, Gs Cao Huy Thuần có góp thêm ý để hoá giải công thư PVĐ. Thú thật, đọc qua lí giải của Gs Thuần tôi thấy khó hiểu, nhưng không có thì giờ diễn tả ý nghĩ của mình. Hôm nay, Gs Phạm Quang Tuấn có một bài viết phản bác lại những giải thích của Gs Cao Huy Thuần (4), mà tôi nghĩ là rất sắc sảo. Trong phần kết luận anh viết rằng cái công thư đó vẫn gây tác hại lớn cho công cuộc đấu tranh gay go với Tàu Cộng:

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Phạm Quang Tuấn: CÓ CẦN PHẢI THÔNG CẢM CHO ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG?

CÓ CẦN PHẢI THÔNG CẢM CHO ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG?

Bauxit Việt Nam
Phạm Quang Tuấn
14-06-2014







Trong yêu cầu bức thiết chống lại mọi âm mưu sâu hiểm của Trung Nam Hải đang từng bước thò hẳn nanh vuốt chiếm biển đảo nước ta, hợp pháp hóa tham vọng “đường lưỡi bò” gớm ghê của chúng, việc xem xét hậu quả của Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 về mặt pháp lý quốc tế đã trở thành một tâm điểm để giới học giả trong ngoài nước sôi nổi tham gia bàn luận. Đến nay, hầu như rất ít người còn khăng khăng bênh vực tính vô hại của Công hàm ấy vì xét bề nào thì đó cũng là một trong những cái bẫy do mình tự bày ra làm vướng chính chân mình (nặng lời như ông Nguyễn Khắc Mai là một công hàm phản quốc, phản động), cần phải chóng vánh gạt sang một bên để Nhà nước Việt Nam dám đường hoàng nối gót Philippines kiện Trung Quốc ra Liên Hiệp Quốc. 


Nhiều ý kiến phong phú góp bàn về cách hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng đáng cho ta suy xét, như việc đề xuất với Quốc hội chính thức ra biểu quyết phủ nhận nó (Nguyễn Khắc Mai), hoặc kêu gọi chính quyền mạnh dạn thành lập chế độ mới để tránh khỏi ràng buộc pháp lý với chế độ miền Bắc trước kia (Hà Sĩ Phu). Gần đây nhất là ý kiến của GS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt đưa ra Công ước Kế tục Quốc gia đối với Hiệp ước 1978 của LHQ mà các ông mới tìm thấy, cho phép một quốc gia kế tục (CHXHCNVN) có thể bác bỏ các hiệp ước về lãnh thổ bất bình đẳng hoặc do sức ép mà quốc gia tiền nhiệm (VNDCCH) đã phải thừa nhận với láng giềng của mình (xem đây). Nhưng cũng có ý kiến quyết liệt hơn, chưa hẳn tin vào tính khả thi của Công ước nói trên trong trường hợp CHXHCNVN và VNDCCH thực tế chỉ là một, không khác nhau về bản chất, đòi hỏi phải thay đổi thể chế CHXHCNVN vốn đã lộ rõ quá nhiều khuyết tật: tham nhũng, độc tài, dày đạp lên dân chúng, cướp bóc cho phe nhóm, bần cùng hóa xã hội, đưa kinh tế xuống vực thẳm, nô lệ vào ngoại bang… chuyển sang một thể chế thực sự dân chủ – giải Cộng –, theo đó sẽ “giải Trung Quốc hóa” hữu hiệu mà Công hàm PVĐ là một khâu có mối liên hệ hữu cơ.


Song song với việc tìm biện pháp hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng, lại cũng có những người tìm hiểu động cơ của tác giả hoặc tập thể tác giả bức Công hàm này. GS Cao Huy Thuần ở Pháp thuộc trường phái tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh tạm gọi là “éo le” của người viết thuở bấy giờ: bị kẹp cứng giữa hai đàn anh trong cùng phe XHCN, giữa thời buổi chiến tranh lạnh, khi ông anh Liên Xô công bố văn bản gì thì ông em Việt Nam cũng phải nặn ra một “bản sao” tương tự. Kể cũng đáng thông cảm thật. Nhưng như thế thì lập trường dân tộc ở thời điểm những năm đó có còn được người cầm quyền nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa coi là chính yếu nữa không? Hay trước yêu cầu của sự thống nhất một phe – phe XHCN nhằm đối trọng với “phe đế quốc” – và trước mục tiêu phấn đấu cho “đại đồng thế giới” mà ai cũng mơ ước, quyền lợi quốc gia đã bị nhìn nhận “nhẹ tựa lông hồng”? – “Bên ni biên giới là nhà / Bên kia biên giới cũng là quê hương” (Tố Hữu)!!!


Trên tinh thần phản biện để tìm ra chân lý nhằm dứt bỏ mọi sự lướng vướng trong nhận thức tư tưởng, cũng là một cách thiết thực góp phần cứu nguy đất nước hôm nay, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu ý kiến trao đổi với GS Cao Huy Thuần của TS Phạm Quang Tuấn.

Nguyễn Huệ Chi

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014

THẢO LUẬN VỀ GIẢI PHÁP LẤY LẠI HOÀNG SA LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG HÀM PVĐ


Thảo luận về giải pháp lấy lại Hoàng Sa 
liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng

Bauxite Việt Nam
03-06-2014
Sau khi Bauxite Việt Nam đăng bài Xóa bỏ tai họa công thư Phạm Văn Đồng 1958 của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, chúng tôi nhận được bài của anh Hà Sĩ Phu bàn về cách thoát khỏi sự ràng buộc của Công hàm này, và thư của anh Dương Danh Huy nhắc lại một bài anh đã công bố liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng. Nhận thấy cả hai bài đều có ích cho nhận thức của chúng ta, Bauxite Việt Nam xin đăng để rộng đường dư luận.
Bauxite Việt Nam
Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

LS. Nguyễn Trọng Quyết: "CÔNG HÀM NGOẠI GIAO" HAY "LÁ THƯ VIẾT VỘI"?

Bài đăng lần đầu lúc 09h19 ngày 8.1.2013

LS. Nguyễn Trọng Quyết viết ngày 27.5.2014:
Tôi nghĩ cần thiết phải đính chính lại đôi chút để tránh sự hiểu lầm không đáng có.
Nguyên văn tiêu đề bài viết tôi gửi cho nhà văn Phạm Viết Đào là: 
"CÔNG HÀM NGOẠI GIAO" HAY "LÁ THƯ VIẾT VỘI"?
Tuy nhiên trước khi đăng, Nhà văn đã bỏ tiêu đề trên và thay bằng 
"CÔNG HÀM 14/9/1958 DO THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG KÝ 
LÀ "CÁI BẪY" NGOẠI GIAO CỦA CT HỒ CHÍ MINH LỪA CHU ÂN LAI".
__________________________ 
 

CÔNG HÀM 14/9/1958 DO THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG KÝ LÀ "CÁI BẪY" NGOẠI GIAO CỦA CT HỒ CHÍ MINH LỪA CHU ÂN LAI

LS Nguyễn Trọng Quyết
Lời dẫn của nhà văn Phạm Viết Đào: 
- Ngày 14 tháng 9 năm 1958 lại là ngày Chủ nhật. Đây là ngày nghỉ hàng tuần của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Chính phủ ?
- Tại thời điểm năm 1958, quyền hạn của chức danh Thủ tướng được quy định theo Hiến pháp năm 1946.
- Điều 44 Hiến pháp năm 1946 ghi rõ:

“Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các.

Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng”.
Quy định trên cho thấy: Thủ tướng chỉ là người đứng đầu nội các, là một thành viên trong số rất nhiều thành viên của Nội các, do Chủ tịch nước chọn và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Các quy định khác của bản Hiến pháp xác nhận vị trí người đứng đầu Chính phủ khi ấy là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa...
- Như vậy chữ ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 14/9/1958 hoàn toàn không có giá trị pháp lý, tư cách pháp nhân thay mặt Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1946!
Cảm ơn Ls Nguyễn Trọng Quyết đã phát hiện ra "cái bẫy" pháp lý  có giá trị này?

LS. LÊ CÔNG ĐỊNH BÌNH LUẬN VỀ CUỘC HỌP BÁO BẠCH HÓA CÔNG HÀM PVĐ 1958


LS. Lê Công Định:

Trong cuộc họp báo này, không chỉ Việt Nam Cộng Hòa được đề cập đến một cách long trọng, mà cả Quốc Gia Việt Nam với Chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại do Thủ Tướng Trần Văn Hữu đại diện tại Hội nghị Genève, cũng đã được nhấn mạnh như một thực thể công pháp. 

Cần lưu ý, sự công nhận chính thức hay không của nhà nước hiện tại đối với hai quốc gia nêu trên hoàn toàn không quan trọng, bởi lẽ về mặt thực tế (de facto) hai quốc gia ấy đã hiện hữu như một pháp nhân công pháp với tên gọi, lãnh thổ, chính quyền và cư dân của mình; còn về mặt pháp lý (de jure) hai quốc gia đó được rất nhiều nhà nước khác đương thời công nhận về phương diện ngoại giao, thậm chí còn nhiều hơn cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc. Mặt khác, khi cùng tham gia vào hai Hội nghị Genève và Paris, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã lần lượt mặc nhiên công nhận de jure Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa rồi. 

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ QUAN HỆ VIỆT - TRUNG


CÓ PHẢI BỨC CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG 
LÀ LÁ BÀI TẨY TRONG TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG?

Đinh Kim Phúc

Đăng lần đầu tại đây ngày 15 tháng 6 năm 2011

Theo tờ Xinhua ngày 14-6-2011, dẫn theo tờ Quân Giải phóng hàng ngày cho biết chính phủ Trung Quốc phản đối nỗ lực để quốc tế hóa vấn đề biển Đông,  chỉ nên giải quyết song phương thông qua hiệp thương hữu nghị giữa các bên tham gia.

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Đào Tiến Thi: BÀI HỌC VỀ SỰ MINH BẠCH VÀ TUÂN THỦ LUẬT PHÁP QUỐC TẾ


Nhân việc bạch hoá Công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: 
Bài học về sự minh bạch và tuân thủ luật pháp quốc tế

Đào Tiến Thi

Từ mấy năm trước, trong một số lần “đàm đạo” với giới trí thức “lề phải” (nhưng có ít nhiều quan tâm đến tình hình đất nước), hễ nói đến vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, tôi đều nhận được ý kiến các vị ấy là: mình “đuối lý” vấn đề này vì trót có cái công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Chính tôi lúc đầu cũng tin như vậy. Nhưng về sau, nhờ đọc báo “lề trái”, được ngườita phân tích cho (tinh thần cũng giống như tuyên bố của “lề phải” mấy hôm nay), tôi mới vỡ ra vấn đề. Tôi đem các lý lẽ ấy thuyết phục các bậc trí thức khả kính kia nhưng vẫn không thắng nổi các vị ấy. Mà ý kiến tôi lúc ấy tôi còn khiêm tốn hơn cả Bộ Ngoại giao cũng như các ông bà Từ Đặng Minh Thu, Lê Văn Cương, Hoàng Việt hôm nay. Tôi bảo cái công hàm ấy chỉ làm cho lý lẽ của mình yếu đi một chút chứ không có giá trị quyết định. Nhưng các vị trí giả có thói quen chỉ tin “lề phải” không thể tin tôi. Các vị ấy càng tin hơn khi gần đây việc tranh chấp đến hồi căng thẳng mà “bên ta” vẫn im lặng. Theo các vị ấy, việc “lơ” cái công hàm kia chứng tỏ bên tabị đuối lý, bị “há miệng mắc quai”.

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

VIỆT NAM CHÍNH THỨC TUYÊN BỐ CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG LÀ VÔ GIÁ TRỊ

Việt Nam chính thức tuyên bố 
công hàm Phạm Văn Đồng là vô giá trị
  
Thanh Phương - RFI

Sau nhiều năm im lặng, mãi đến những năm gần đây, chính quyền Việt Nam mới lên tiếng giải thích về công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng lần đầu tiên, Hà Nội vừa chính thức tuyên bố công hàm đó là vô giá trị, tức là không hề công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Công hàm Phạm Văn Đồng, mà nhiều người gọi là « công hàm bán nước », đã được đưa ra trong bối cảnh như thế nào ? Ngày 04/09/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố với quốc tế quyết định của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam).
Sau đó, ngày 14/09/1958, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói trên của chính phủ Trung Quốc và “sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”. 
Từ đó cho đến nay, đối với Bắc Kinh, bức công hàm nói trên của Thủ tướng Việt Nam là đồng nghĩa với việc Hà Nội thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.