Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

"LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM" - MỘT CÔNG TRÌNH VĨ ĐẠI

 
Nhà văn Phạm Lưu Vũ
ĐỌC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
 
Bộ sách đồ sộ của Thiền sư Lê Mạnh Thát gồm 3 tập, với tổng cộng hơn hai nghìn trang in khổ 16x24, bao quát toàn bộ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam từ thời Hùng Vương, bắt đầu bằng Chử Đồng Tử, đến thời nhà Trần với Tuệ Trung Thượng Sĩ, trải ngót hai nghìn năm. 
 
Một công trình vĩ đại, của một bộ óc thông tuệ và trác tuyệt, với tình yêu Tổ Quốc và Dân tộc Việt Nam vô bờ bến, một tâm hồn của bậc Đa văn, và một tuệ giác Bát Nhã của bậc Đại Sĩ. 

Hai nghìn trang sách đã ghi nhận, và ấn chứng một cách rõ ràng, rằng Phật Giáo Việt Nam đã đồng hành cùng với sự tiến hóa, Giác ngộ của Dân tộc Việt Nam suốt hai nghìn năm, là một sức mạnh của trí tuệ Chánh Giác không thể thiếu, trong các quá trình bảo vệ nền độc lập, bảo vệ bản sắc văn hóa... và làm thất bại mọi âm mưu đồng hóa, nô dịch của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
 
Pho sách không chỉ cung cấp cho người đọc những kiến thức rành mạch về Lịch sử, mà cả những kiến thức về Phật Pháp vi diệu của Đức Thích Tôn, của chư Tổ mấy ngàn năm... cho nên không đơn thuần là một pho "Sử", mà phải coi là một pho "Kinh Sử". Để viết nên được những trang độc lực hải hà, thu cả sách của vạn nhà vào trong một trang viết này, phải là người đã thành tựu "quán môn", trong một niệm thấu suốt pháp tướng. Thấu suốt mà tâm không nhiễm trước, không bị các pháp làm nhiễm ô, hướng người đọc đi vào con đường sáng của ba thừa, thì còn phải là người đã thành tựu cả "tịnh môn". Xin nhiệt liệt tán thán và tri ân công đức vô lượng của Ngài Lê Mạnh Thát.
 
Tôi có ý định sẽ lược thuật dần dần, và lạm bàn những chỗ quan trọng của pho sách đồ sộ này, bắt đầu từ bộ luận vĩ đại đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam, bộ "Lý Hoặc Luận" của Ngài Mâu Tử Bác từ thế kỉ thứ 2 sdl, mà thiền sư Lê Mạnh Thát đã rất dày công "khai quật" giùm cho hậu thế chúng ta.
 
RIÊNG VỀ CHƯƠNG 4: MÂU TỬ VÀ LÝ HOẶC LUẬN

Có lẽ những bộ kinh bằng tiếng Việt xuất hiện từ thời Hùng Vương, như "Lục Độ Tập kinh", "Cựu Tạp thí dụ kinh", "Tạp Thí dụ kinh"... đã gây cảm hứng bất tuyệt cho Thiền sư Lê Mạnh Thát. Đó là những món "Pháp Hỷ thực" trong vô tận công đức tạng của Ngài, là "Hỷ Giác chi" trong Thất Bồ Đề phần... đã khiến Ngài đạt tới "Khinh an Giác chi" mà vượt qua 14 năm đằng đẵng trong nhà giam với án tử hình, cùng với một bậc Đại Sĩ khác là Ngài Tuệ Sĩ, thấy "ngồi tù với ngồi tu cũng không có gì khác...".
 
Và Ngài đã viết pho sử này theo cách của "Trạch Pháp Giác chi" (từ Chân Giác mà chọn ra Chánh Pháp), điều mà các nhà thông thái cổ Hy Lạp vẫn hay làm như thế. Tôi đọc chương 4, viết về "Mâu Tử và Lý hoặc Luận" cũng thích thú, như một món "Pháp Hỷ thực", đến nỗi có thể quên ăn...
 
Đó là lý do tại sao tôi nổi hứng "lạm bàn" về bộ Kinh Sử này, bắt đầu từ chương 4. Bằng trí tuệ của "nhất niệm tam quán", để dẫn chứng và nghị luận các thư tịch từ cổ đại, trung đại đến hiện đại... dùng phép thu sách của vạn nhà vào trong một trang viết, Ngài đã "khai quật" cho hậu thế biết chân dung của một vị Đại Sĩ mà Ngài đã dày công chứng minh là người Việt, từ trong nước Việt, và từ những bộ kinh bằng tiếng Việt... đã viết ra một bộ luận, một tác phẩm văn hiến đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam, làm kinh động cả tam giới. Điều thú vị là "niên đại" của vị Đại Sĩ này, có thể nói là cùng thời với Đại luận sư kiệt xuất Long Thọ Bồ Tát (Nagajurna), và sinh trước một Đại luận sư khổng lồ khác là Thế Thân Bồ Tát (Vasubandhu) tới gần 200 năm.
 
Đại Sĩ ấy là Mâu Tử, bộ luận của Ngài có tiêu đề: "LÝ HOẶC LUẬN". Chữ "hoặc" (惑) ở đây có nghĩa là nghi, là mê lầm. Tiêu đề ấy có nghĩa là luận về những cái "lý" của sự mê lầm. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã chỉ ra, rằng "Lý hoặc Luận" đã làm rung chuyển cả tòa lâu đài Nho Giáo của người Hán, tức là kinh động Dục Giới bằng tuyên bố ở điều 7: "Năm kinh chưa hẳn là lời Thánh hiền", và: "đất Hán chưa hẳn là trung tâm của Trời, Đất"... Đây thực sự là một thành tựu của trí tuệ, là tư tưởng "thoát Hán" đầu tiên và ngoạn mục của người Việt, ngay từ những buổi ban sơ, đã "tổng kết cuộc đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương Bắc..."
 
Tiếp theo, "Lý hoặc Luận" cũng tập trung phê phán Đạo Giáo, làm lung lay cả đạo thần tiên: "nghe thì mênh mông đầy tai, nhưng tìm hiệu lực thì như bóng bắt gió". Lung lay đạo thần tiên, tức là kinh động cả Sắc Giới lẫn Vô Sắc Giới. Đọc đến những trang này khiến tôi giật mình, đến nỗi phải truy tầm cả bộ "Lý hoặc Luận" để đọc trực tiếp cho kì được.
 
Bộ luận chỉ hơn chín nghìn chữ, viết theo thể vấn đáp, gồm tổng cộng 37 điều, vừa đúng bằng số chương trong "Thượng kinh" của Đạo Đức kinh. Đọc xong bộ luận, tôi thêm một lần giật mình nữa. Té ra toàn bộ nội dung phần sớ giải về bộ luận của Ngài Lê Mạnh Thát viết 9trong chương 4, là vì Ngài "phương tiện", nên mới chỉ viết đến thế thôi. Chứ thực ra, bộ luận kiệt tác này còn chứa đựng rất nhiều điều thú vị, không phải của nguyên thủy, mà của Văn học Đại thừa, khiến chúng ta càng đọc càng kinh ngạc.
 
Đức Phật cũng vì căn cơ của chúng sinh, mà "phương tiện" thuyết kinh bất liễu nghĩa, song đọc kinh bất liễu nghĩa cũng rất nhiều công đức. Và những sớ giải của Thiền sư Lê Mạnh Thát cũng vậy. Thế thì cái sự "liễu nghĩa" của bộ luận ấy, khiến tôi phải giật mình lần nữa nằm ở chỗ nào?
 
Thứ nhất, cũng dùng thể vấn đáp để xiển dương đạo lớn (tức đạo Phật), y hệt đại luận sư Long Thọ Bồ Tát dùng trong những bộ luận kiệt xuất của Ngài như Đại Trí Độ luận, Trung Quán luận... Hai Ngài gần như sống đồng thời, song chắc gì đã đọc của nhau, nhưng cách làm thì y hệt. Và đại luận sư Thế Thân Bồ Tát cũng dùng cách tương tự, trong các bộ luận vĩ đại như "Duy Thức tam thập tụng", "Đại thừa Ngũ Uẩn luận"... Dẫu ra đời sau Mâu Tử ngót 200 năm, thì cũng không thể khẳng định Thế Thân Bồ Tát đã đọc "Lý hoặc Luận" của Mâu Tử. Đây chính là chỗ mà Tri Kiến Phật đã gặp nhau, giữa các bậc Đại luận sư có năng lực "Biện tài vô ngại", trong đó một vị mở đầu cho nền văn hiến Phật Giáo Việt Nam.
 
Thứ hai, "Lý hoặc Luận" dẫu làm rung chuyển cả sáu kinh của Hán điển, làm lung lay cả Lão, Trang... Song không hề có lời nào, bảo những kho tàng giáo lý đồ sộ của ngàn năm Hán tộc ấy là "ngoại đạo", mà chỉ bao trùm lên, coi tư tưởng của Nho Giáo, của cả Đạo Giáo, như những "trường hợp riêng" trên bước đường tiến hóa trí tuệ, hướng tới Giải thoát và Giác ngộ mà "đạo lớn", tức đạo Phật đã chỉ ra. Đây mới thực sự là tư tưởng của Viên Giác, coi tục đế tức chân đế, ngoại đạo tức Bồ Đề... "Lý hoặc Luận" đã dùng tư tưởng của Viên Giác để hình dung, nếu Khổng đã ra khỏi tướng Ngã, nhập được vào tướng Nhân, thì Lão đã ra khỏi cả tướng Nhân, mà nhập vào tướng Chúng Sinh. Những điều phê phán Nho Giáo và Đạo Giáo trong "Lý hoặc Luận" đã chỉ rõ như vậy.
 
Thứ ba, "Lý hoặc Luận" đã dùng chính kinh, truyện... của Hán điển để lý giải thuyết Phật. Điều thứ 26 cực kì thú vị: "Hỏi: - Ông nói kinh Phật như sông biển, văn nó như gấm thêu, sao ông không lấy kinh Phật đáp lời tôi hỏi, mà lại dẫn Thi, Thư... hợp (cái) khác làm (ra cái) giống vậy?" Câu trả lời mới thật kì tuyệt: "- Kẻ khát tất không đợi sông bể mới uống. Kẻ đói tất không chờ kho Ngao mới no. Đạo đặt ra vì người trí, luận để cho người hiểu thông, sách để cho người sáng truyền, việc để cho kẻ thấy rõ. Tôi để cho ông biết ý nên dẫn các sự việc. Nếu nói bằng lời dạy của kinh Phật, bàn bằng yếu lý của vô vi, thì như đối người mù mà nói năm màu, người điếc mà tấu năm âm. Sư Khoáng dù giỏi, không thể gẩy đàn không dây. Lông chồn tuy ấm, không thể làm nóng người hết sinh khí. Công Minh Nghi vì trâu, đàn điệu giốc trong, trâu vẫn ăn như cũ, không phải trâu không nghe nhưng không hợp tai nó. Trái lại, tiếng ruồi muỗi, tiếng nghé mồ côi, tức thì trâu vẩy đuôi vểnh tai, lững thững bước đi mà nghe. Thế nên đem thi thư lý giải cho ông".
 
Thứ tư, toàn bộ "Lý hoặc Luận" đã dẫn chính những Thi, Thư... của Nho Giáo, và năm ngàn chữ Đạo Đức kinh của Lão Tử để lý giải thuyết Phật, để "hợp cái khác làm cái giống", chứng tỏ Mâu Tử không những không cực đoan coi những giáo thuyết ấy là "ngoại đạo", mà coi những Nho Giáo, Đạo Giáo... đều là những "Lân Giác", "Độc Giác" hay "Phần Giác" của Đức Phật Thích Ca Toàn Giác. Đây là một tư tưởng vĩ đại mà suốt hai ngàn năm nay, chưa hề nghe thấy ai nói tới, trừ Ngài Mâu Tử. Ngài xứng đáng là một bậc "Biện tài vô ngại", khiến muôn đời Bách Việt có quyền tự hào, rằng Ngài có thể so sánh với những đại luận sư cỡ Long Thọ, Thế Thân, chỉ thua hai vị Bồ Tát vĩ đại ấy ở khối lượng đồ sộ của những bộ luận trác tuyệt mà thôi.
 
Và đây là kết qủa của trí tuệ "Biện tài vô ngại" ấy:
 
"Bấy giờ kẻ lầm nghe rồi, giật mình đổi sắc, xoa tay bỏ chiếu, lùi lại cúi rạp thưa: “Bỉ nhân lòa mù, sinh nơi tăm tối, dám thốt lời ngu, không lo họa phước. Nay được nghe dạy, chợt như tuyết sạch. Xin được đổi tình, rửa lòng tự nhắc. Nguyện nhận năm giới, làm ưu bà tắc”.
 
Phạm Lưu Vũ  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét