Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020

Hà Nguyên Huyến: QUÁN TRONG LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM



QUÁN TRONG LÀNG CỔ ĐƯỜNG LÂM 
Hà Nguyên Huyến
 
Gần đây khách du lịch đến tham quan Làng cổ Đường Lâm, bên cạnh những công trình tâm linh, khách bắt gặp những công trình nhỏ được xây dựng ở ven làng hay giữa cánh đồng, thường những công trình này không có bát hương hay bệ thờ… Khi hỏi, khách được dân làng cho biết nơi đó gọi là quán. Một số người lầm tưởng đó là những quán làng, xây dựng cho người đi làm đồng tránh mưa nắng hay khách qua lại nhỡ độ đường... Quán ở Đường Lâm công năng hoàn toàn khác. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập tới “quán trong làng cổ” để mọi người hiểu đúng về những công trình được gọi là “quán” này…


Hiện nay trên địa bàn xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Nội) còn tồn tại một số ngôi quán cổ, quán nào cũng có mái ngói, nên lát gạch sạch sẽ, “kín trên bền dưới”. Có thể kể ra quán Giang ở làng Phụ Khang. Làng Mông Phụ còn lại 3 quán. Quán Rô – nằm phía ngoài cổng làng cổ khoảng 300m. Quán Đồng Nẳng - Ở phía sau làng cũng khoảng ấy. Quán Lồ Biêu nằm ở giữa cánh đồng, gần cội đa Gươm. Nhìn chung các quán này đều ở vào vị trí thuận tiện giao thông. Quán cũng như đình, điếm, đền, miếu… quán là công trình công cộng của mỗi làng, là một phần thiết yếu trong cơ cấu đời sống xã hội của cộng đồng cư dân cổ.

Lệ làng Mông Phụ là thế, bất kể là ai, dẫu cho có địa vị xã hội hay thường dân, khi người đó không may bị tử vong ngoài phạm vi làng (có thể gia đình người chết tạm trú ở Hà Nội nhưng vẫn có nhà riêng ở trong làng), gia đình hay thân nhân của người xấu số muốn mang về làng để chôn cất, không được mang thi hài vào làng (trong phạm vi dân làng đang sinh sống). Sự nghiêm ngặt này có từ bao giờ, không ai biết. Tại sao lại như thế, đơn giản chỉ là vì: Nếu mang người chết vào sẽ bị “động làng”. Động làng là như thế nào, rất nhiều chuyện! Động làng có thể là không dưng gia súc, gia cầm lăn ra chết. Cháy nhà, thủy tai hay người bị ốm dịch chết hàng loạt…

Để giải quyết vấn đề này dân làng Mông Phụ làm ra những ngôi quán. Công dụng của quán là như thế. Người xấu số sẽ được đưa về đây. Dân làng tùy theo quan hệ, ra ngoài quán để thăm viếng chia buồn trước khi hạ huyệt. Tùy theo vị trí đặt mồ mả mà có thể tiến hành công việc tang lễ một trong số ngôi quán thuận tiện nhất. Quán của làng Mông Phụ có lịch sử lâu đời, theo thời gian mỗi quán có vài ba câu chuyện được dân làng truyền lại…

QUÁN GIANG

Quán Giang hiện nay thuộc địa bàn hành chính của làng Phụ Khang (xã Đường Lâm). Song, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Quán Giang khởi vi thủy thuộc làng Mông Phụ. Quán Giang là do dân làng Mông Phụ và thân nhân của cụ Thám Hoa Giang Văn Minh xây dựng. Quán Giang gắn liền với việc mai táng cụ Giang Văn Minh tại quê nhà.



Cụ Giang Văn Minh sinh năm Nhâm Ngọ (1582) ở làng Mông Phụ. Tháng hai năm Mậu Thìn (1628) đời Lê Vĩnh Tộ ở nước ta có khoa thi Hội, Giang Văn Minh đỗ đệ nhất giáp tiến sỹ, cập đệ tam danh (Khoa thi năm ấy không có Trạng Nguyên và Bảng Nhãn). Năm Đinh Sửu (1637), Thám Hoa Giang Văn Minh được triều đình cử làm Chánh xứ, dẫn đầu một phái bộ sang Trung Quốc. Sử cũ chép rằng: Trong khi hội kiến với vua nhà Minh, sứ thần Giang Văn Minh đã trổ tài thao lược, đối đáp với “thiên triều” rất khẳng khái. Một lần vua Minh ra vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (cột đồng trụ đến nay rêu đã phủ xanh). Cụ Giang Văn Minh đã đanh thép đối lại rằng: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu thù còn loang đỏ)!

Vua Minh căm tức vì vế đối quá “chỉn”, lại nhắc đến nỗi nhục bại trận năm xưa của nhà Nam Hán, mà Ngô Vương Quyền đã thể hiện một thiên tài quân sự trên sông Bạch Đằng. Nhà Minh đã hãm hại sứ thần Giang Văn Minh. Được tin cụ Thám tử nạn, dân làng Mông Phụ xây dựng ngôi quán này đón cụ về. Nghe nói đường từ Bắc Kinh về đến quê nhà kéo dài mấy tháng. Về quê, thi hài cụ Giang Văn Minh được quàn tại quán Giang. Vua Lê cho người từ kinh thành Thăng Long lên viếng bằng mấy lời bất hủ: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (đi sứ không nhục mệnh vua – khanh xứng đáng – là anh hùng).

Người đời sau truy tặng cho cụ những lời như sau: Hữu thục bất hữu sinh, sinh như công dã kỳ sinh dã. Hữu thục bất hữu tử, tử như công dã kỳ tử do sinh chi. (Lược dịch: Trên đời ai cũng phải sống, sống như ông, thật là đáng sống. Trên đời ai cũng phải chết, chết như ông, chết mà sống mãi). Hiện mộ cụ Thám đặt ở xứ đồng có tên: Mả Sở. Địa điểm này trước mặt quán Giang, cách một khoảng vài trăm mét.

Trải năm tháng thời gian, quán Giang qua nhiều lần sửa chữa nên không cụ thể được niên đại xây dựng. Song có thể khẳng định quán Giang được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVII. Mãi đến thời vua Minh Mạng dân làng Mông Phụ mới tách ra, làm thành làng Phụ Khang…

QUÁN LỒ BIÊU

Quán Lồ Biêu hiện là ngôi quán đẹp nhất trong số quán hiện tồn tại ở Mông Phụ. Mấy chục năm trước, phu nhân chính thất của cụ Phan Kế Toại từ trần. Thi hài bà được đưa về làng mai táng. Cụ Toại cũng quàn bà tại quán Lồ Biêu (nghe nói thời gian kéo dài một hai ngày) cho họ hàng và dân làng thăm viếng rồi mới hạ huyệt. Tuy cụ Toại và gia đình ở Hà Nội nhưng ở làng vẫn có một ngôi nhà rất khang trang. Tiếng là làm quan (trong triều Nguyễn), sau 1954, cụ Phan Kế Toại được Đảng và Nhà nước giao trọng tránh Phó thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… thân phụ cụ Toại là Tuần phủ Phan Kế Tiến (trong triều Nguyễn). Sinh thời, Cụ Tuần phủ về làng vẫn để ô-tô ngoài cổng làng trước tấm bia “hạ mã” rồi đi bộ về nhà… Chức vụ và tiếng tăm như vậy các cụ vẫn một mực tôn trọng lệ làng. Bởi vậy dân gian mới có câu: “phép vua thua lệ làng” là thế!
Quán Lồ Biêu, một trong những quán rất đẹp của làng Mông Phụ.

QUÁN RÔ

Vị trí của quán Rô ngay phía ngoài cổng làng Mông Phụ. Quán Rô qua nhiều lần sửa chữa nên cũng không biết được xây dựng từ bao giờ, nhưng mục đích xử dụng thì không hề thay đổi, trừ một lần duy nhất, đó là trong thời kỳ HTX, quán dùng làm nơi để phân chuồng.

Quán Rô cũng như những quán khác được hình thành bên cạnh đời sống dân làng. Song, những chuyện ở đây không ai muốn nhớ và muốn xảy ra với bất cứ gia đình nào… Vậy mà Quán Rô để lại trong ký ức dân làng một thời không thể quên. Ấy là năm 1972, 12 ngày đêm điên cuống đánh phá Hà Nội bằng không quân của Đế quốc Mỹ. Khác với cuộc đánh phá miền Bắc lần I (1964 – 1968) lần này chiến tranh ác liệt hơn rất nhiều. Hầm hào trong mọi gia đình được triển khai ngay trong nhà. Nhà tôi lật chiếu ghế ngựa ở gian giữa ra, một cái hầm trú ẩn được đào ngay dưới đó.



Đêm đêm, nghe tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời, mẹ tôi bảo: tiếng máy bay lần này khác lắm các con ạ! Tôi lắng nghe, đúng là tiếng của ngàn vạn chiếc cối xay lúa đang nghiền nát bầu trời. Sau này tôi được biết đó là tiếng của B 52. Thế là mấy mẹ con lục đục xuống hầm. Ngồi trong hầm tôi rất sợ. Tôi cứ tưởng tượng ra cảnh máy bay bị ta bắn cháy, phi công Mỹ sẻ nhảy dù. Nếu không may dù của chúng rơi xuống sân nhà tôi thì sao nhỉ? Nhà tôi bốn bên tường xây đá ong cao vút, lại kín cổng cao tường… tiếng dày đinh lộp cộp nện trên mặt gạch Bát Tràng… Anh tôi đi bộ đội, cả nhà mỗi tôi là đàn ông. Năm ấy tôi vừa tròn 15 tuổi… Chẳng còn cách nào khác, phải xông ra thôi.

Thế là từ hôm ấy tôi lặng lẽ chuẩn bị một cái quắm (rựa) phát rào, để ở chỗ thuận tiện nhất.
Linh cảm của tôi là thật, đêm hôm ấy không còn nhớ rõ ngày nào nhưng là một trong “mười hai ngày đêm” diễn ra trận “Điện Biên Phủ trên không”. Đêm đó ta bắn rơi “pháo đài bay B52”, tên phi công Mỹ nhảy dù nhưng không rơi xuống sân nhà tôi mà rơi xuống cánh đồng ven làng. Không may cho hắn, nghe nói bị dây dù cuốn vào cổ nên đã chết.

Sáng ra, giặc lái được du kích địa phương khênh về, để nằm trong quán Rô và canh gác rất nghiêm ngặt, không cho ai đến gần. Mãi đầu giờ chiều hôm đó, “các anh ở trên” về, sau khi làm mọi thủ tục mới cho phép chôn. Lúc bấy giờ làng tôi đang vào dịp trồng khoai sọ. Tôi cũng đang giúp mẹ trồng khoai. Mẹ tôi hết sức ngăn cản nhưng làm sao ngăn được. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy kẻ đã gieo đau khổ cho đất nước tôi, dân làng tôi. Từ nhỏ tới giờ tôi chỉ được nghe kể về quân Pháp và đọc trong sách nói về cuộc chiến tranh chống Mỹ với những kẻ mang bộ mặt gớm ghiếc… Hòa vào dòng người đang từ mọi phía trên cánh đồng ào ạt đổ về… tôi chen chúc vào tận nơi...

Trên măng-ca (cáng), một phi công trẻ mặt trắng như sáp nằm như ngủ, hoàn toàn không có một vết thương nào. Ấn tượng còn lại với tôi cho đến tận bây giờ là một hàng ria nâu rậm trên một gương mặt khôi ngô rất điển trai, thân hình dong dỏng vẫn bộ đồ bay với đầy đủ các phù hiệu, phiên hiệu đơn vị… Kẻ thù của nhân dân tôi đây ư. Kẻ sát nhân lại mang gương mặt “trẻ thơ” thế này ư?

Dân làng tôi chôn cất hắn ngay thửa ruộng cạnh đấy. Tôi theo dõi cho đến những xẻng đất cuối cùng lấp xuống như lấp đi nỗi căm giận, buồn đau của chiến tranh. Thời gian trôi đi, không ai nhắc đến cái ngày ấy nữa, nhưng tôi chắc không ai quên bởi xứ đồng ấy, từ ngày ấy có tên: “Mả Phi Công”! Cho đến một ngày sau chiến tranh, trong chính sách cho phép “mang hài cốt lính Mỹ về nước”, người lính xấu số ấy trở về Mỹ trong một hình hài như vậy… Và cũng kỳ lạ, từ ngày ấy cái tên “mả phi công” cũng không thấy ai nhắc đến nữa!

QUÁN GIÓ

Có một cái quán mang tên Quán Gió nhưng chưa bao giờ có thật trên đất làng tôi. Chuyện là thế này… Làng tôi có một người tên là Phan Khắc Đoạt, dân làng quen gọi là ông Cả Đoạt. Ông cả Đoạt anh em về bên ngoại, bố tôi phải gọi ông là cậu. Sinh thời, ông Đoạt cũng như bao người đàn ông khác trong làng, cày cấy là nghiệp nông gia.

Trưởng thành, khoảng những năm bốn mươi của thế kỷ XX, ông Đoạt ra tỉnh (thị xã Sơn Tây) làm ăn, rồi ông lấy vợ, gia đình bên vợ là một hãng xe khách chạy tuyến Sơn Tây – Hà Nội. Có vốn liếng, ông Đoạt mua nhà và mở một lò bánh Tây (bánh mì). Trong thời kỳ Sơn Tây bị tạm chiếm (1946 – 1954) ông Cả Đoạt mở cửa hàng dày da. Bố tôi ra tỉnh học sec-ti-phi-ca đã vẽ cho ông một cái quảng cáo rộng mấy mét vuông, rất đẹp… Sau năm 1954, chẳng biết nghĩ ngợi thế nào ông cả Đoạt tính đường “đi Nam”. Ông về làng rủ bố tôi, bố tôi không đi, các chú tôi cũng không ai đi. Ông Đoạt cùng gia đình xuống Hải Phòng rồi lên tàu thủy vào Nam. Vào Nam ông Đoạt không làm gì ngoài kinh doanh…

Sau giải phóng miền Nam, bố tôi có gặp lại ông Đoạt ở Sài Gòn. Riêng tôi, mỗi khi có dịp qua thành phố này đều ghé thăm ông Cả Đoạt. Ông Cả Đoạt bảo tôi: Từ ngày vào Nam, đặt chân lên đất Biên Hòa, rồi đến Sài Gòn, 9 lần ông làm chủ nhưng cả 9 lần đều thất bại. Nói là thất bại nhưng không phải là phá sản hay vỡ nợ. Xem cách sống của ông Đoạt cho đến những năm 1980 – 1985 còn phong lưu lắm. Một đôi lần ông tâm sự với tôi và với nhiều người làng: Nhất định ông sẽ về quê, về quê ông sẽ bày biện vài mươi mâm cỗ đãi làng. Ông Cả Đoạt sẽ dành thời gian ở làng để thực hiện ước mơ của ông từ ngày còn trai trẻ là: Xây một cái quán, lấy tên là “Bồng Lai quán” ở Cội Đa Gươm bây giờ. Xây để dân làng lấy chỗ nghỉ ngơi trong lúc làm đồng tránh mưa, tránh nắng…

Lần cuối cùng ông nói với tôi: Lúc nào chú Khoái hết nghĩa vụ quân sự thì ông về. Ông Đoạt đông con nhưng chỉ có chú Phan Khắc Khoái là trai, lúc này chú Khoái đang tại ngũ ở chiến trường biên giới Tây Nam. Thế rồi tuổi tác và bệnh tật xồng xộc đến. Cho đến cuối đời ông Cả Đoạt không thực hiện được mơ ước của mình! Tôi nghĩ, ông Đoạt chưa bén cái “duyên” với đất làng. Mà như vậy cũng hay. Cái quán “Gió” ông Cả Đoạt xây trong tâm tưởng mọi người vẫn có từ xưa. Đó là những cây đa như cái lọng xanh nổi lên giữa cánh đồng che nắng, che mưa cho bao cuộc đời nông phu “một nắng, hai sương”. Chúng ta sẽ trồng thêm nữa cho màu xanh, xanh mãi trên mảnh đất làng!

Cứ để cho một số quán tồn tại như nó đã tồn tại. Vài năm nay ít khi quán được dùng đến bởi ai cũng bảo: Cụ cháu (hoặc thân nhân) về đến nhà được một lúc, sau khi rút ống “xông” mới… “thăng”! Không gia đình nào muốn và cũng không ai đi truy nguyên đến tận cùng, bởi hai tiếng “chết đường, chết chợ” là nỗi ám ảnh đau lòng. Xưa kia y học còn kém, y tế cộng đồng chưa phát triển, không cho người chết vào làng là để ngăn chặn dịch dã lây lan. Cái nhân lõi “duy vật” ấy phải được “khoác” vào một yếu tố tâm linh là “động làng” để làm cái “ngưỡng” ngăn chặn mọi người.

Viết về những cái quán trong “Làng cổ Mông Phụ” là để mọi người thêm hiểu cấu trúc một ngôi làng mà những kiến trúc sư vô danh để lại. Các kiến trúc sư ấy có một người “thầy lớn”, đó là thực tế đời sống của những cộng đồng cư dân cổ…

1 nhận xét :

  1. Đọc đến câu :"Ấy là năm 1972, 12 ngày đêm điên cuống đánh phá Hà Nội bằng không quân của Đế quốc Mỹ" là biết tác giả bài viết vẫn căm thù Đế Quốc Mỹ đến giờ .

    Trả lờiXóa