Thứ Hai, 10 tháng 9, 2018

Đặc biệt: CHƯƠNG TRÌNH GD VÀ SGK THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA - 4


Chương trình giáo dục và sách giáo khoa
thời Việt Nam Cộng Hòa


Trần Văn Chánh  


27/10/2014

C. SƠ LƯỢC CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA ĐẠI HỌC
Bậc đại học phổ thông (Văn khoa, Luật khoa…) và chuyên nghiệp (Y, Dược, Sư phạm…) của miền Nam trước 1975 đào tạo cử nhân, cao học và tiến sĩ. Hệ thống đại học được tự trị về học vụ và chuyên môn theo quy định của Hiến pháp 1967, không lệ thuộc Bộ Giáo dục, cũng không có cơ quan chủ quản (trừ trường Y Dược thuộc Bộ Y tế chủ quản), vì thế chương trình học và sách giáo khoa cũng được tự do, phần lớn chỉ tùy thuộc ở giáo sư phụ trách giảng dạy bộ môn dưới sự chấp thuận của Hội đồng Khoa và Khoa trưởng của mỗi nhà trường riêng biệt.

Nói chung, chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học miền Nam được chia làm ba cấp. Cấp 1 học 4 năm, nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học… thì lấy bằng cử nhân (như cử nhân Triết, cử nhân Văn chương, Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (như bằng tốt nghiệp Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (thí dụ kỹ sư Điện, kỹ sư Công chánh…). Cấp 2, học thêm 1-2 năm sẽ thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle, tương đương thạc sĩ bây giờ). Cấp 3, học thêm 2-3 năm có thể làm luận án để lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph. D của Hoa Kỳ). Riêng ngành Y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới hoàn tất chương trình đại học. 
 Vì hệ thống đại học rộng lớn phức tạp, tri thức đại học lại quá mênh mông, nên tại đây, chỉ xin nói lướt qua riêng về chương trình học của các trường đại học-cao đẳng sư phạm, và về tình hình chung của sách giáo khoa các trường đại học, cao đẳng, giai đoạn 1955-1975.  
Thời VNCH, có nhiều trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học và giáo học bổ túc như Quốc gia Sư phạm (Sài Gòn), Sư phạm Long An, Sư phạm Vĩnh Long, Sư phạm Quy Nhơn, Sư phạm Ban Mê Thuột (Buôn Ma Thuột)…, hoặc các trường sư phạm đào tạo giáo sư trung học đệ nhất cấp, đệ nhị cấp như Cao đẳng Sư phạm sau đổi thành Đại học Sư phạm (Sài Gòn, Huế, Đà Lạt). Có Đại học Sư phạm 1 năm đào tạo giáo sư Trung học Đệ nhất cấp; 3 năm đào tạo giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Nói chung, loại trường nào cũng gồm nhiều ban như Việt văn, Triết, Sử Địa, Pháp văn, Anh văn, Toán, Lý hóa, Vạn vật… tương ứng với các môn sẽ dạy khi ra trường, vừa giúp các giáo sinh củng cố, mở rộng kiến thức chuyên môn (học về nội dung các môn mình sẽ dạy), vừa đào tạo khả năng chuyên nghiệp cho họ về khoa sư phạm cả lý thuyết lẫn thực hành.
Lấy Đại học Sư phạm Sài Gòn (thuộc Viện Đại học Sài Gòn) làm tiêu biểu. Chương trình học tại đây thay đổi tùy theo ngành mà giáo sinh được lựa chọn. Như ngành Đệ nhất cấp học trong 2 năm với quyền chọn một trong 4 ban: Việt văn, Anh văn, Toán, Lý hóa. Ngành Đệ nhị cấp học 4 năm, chọn một trong 4 ban: Anh văn, Pháp văn, Toán, Lý hóa. Nếu đã có sẵn Chứng chỉ Dự bị Đại học của trường khác, giáo sinh được miễn học năm Dự bị ở Sư phạm và chỉ phải học 3 năm ở ngành Đệ nhị cấp, với tất cả 7 ban được lựa chọn, gồm: Việt Hán, Sử Địa, Anh văn, Pháp văn, Toán, Lý hóa, Vạn vật. Riêng ở ngành Đệ nhị cấp Cấp tốc, giáo sinh chỉ học 1 năm.
Các môn học thay đổi tùy theo từng ban. Thí dụ ban Việt Hán, phải học các phần Việt học, Cổ học, Hán văn và ngoại ngữ (Anh hoặc Pháp); ban Sinh ngữ phải học về Văn hóa, Văn chương, Văn phạm thực hành và một ngoại ngữ khác với sinh ngữ đã chọn…
Về chuyên môn, phải học một số môn như: Lịch sử giáo dục Việt Nam và Đông phương, Tâm lý giáo dục, Giáo dục hướng dẫn, Giáo dục đối chiếu, Phương pháp dạy học, Luân lý chức nghiệp, Vấn đề giáo dục, Quản trị học đường.
Trước năm 1975, đã thấy có những sách tiếng Việt xuất bản phục vụ cho chuyên ngành sư phạm như sau:
- Sư phạm khoa giản yếu của Phạm Xuân Độ và Ngô Đức Kính, tác giả xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
- Tâm lý học ứng dụng của Phạm Xuân Độ, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1958, lần thứ 3 năm 1970.
- Sư phạm lý thuyết của Trần Văn Quế, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964, lần thứ 2 năm 1968.
- Sư phạm thực hành của Trần Văn Quế, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964, lần thứ 2 năm 1969.
- Sư phạm chuyên biệt của Hồ Văn Huyên, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1969.
- Phương pháp dạy học của Mai Tâm và Long Điền, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Nghệ thuật dạy học của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san xuất bản, in lần thứ 2 năm 1969.
- Sổ tay sư phạm của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Tâm lý giáo dục của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Tâm lý thanh thiếu niên của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san xuất bản. 
- Triết lý giáo dục của Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Luân lý chức nghiệp nhà giáo của Nguyễn Gia Tưởng, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1968.
- Luân lý chức nghiệp của Lê Thanh Hoàng Dân-Nguyễn Hòa Lạc, do Trẻ xuất bản tại Sài Gòn năm 1971.
- Tác phong nhà giáo, dịch của H. Simon, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Lịch sử giáo dục của Nguyễn Văn Kế, do Giáo dục nguyệt san xuất bản.
- Các vấn đề giáo dục (2 tập) của nhóm Lê Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức…, do Trẻ xuất bản tại Sài Gòn năm 1971.
- Vấn đề giáo dục của Nguyễn Hổ Dư và Trần Doãn Đức, Văn khoa xuất bản năm 1971.
- Quản trị học đường của Trần Văn Quế-Ngô Kim Xán-Vũ Nam Việt, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964.
- Quản trị và thanh tra học đường của nhóm Lê Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức…, Trẻ xuất bản tại Sài Gòn năm 1972.   
Ngoài ra, đáng chú ý có những dịch phẩm dùng tham khảo cho ngành sư phạm của nhà xuất bản Trẻ (phân biệt với Nxb Trẻ TP HCM bây giờ) do Trần Hữu Đức và Lê Thanh Hoàng Dân chủ biên. Đã dịch được một số cuốn như: Lịch sử giáo dục, Triết lý giáo dục, Kinh nghiệm nhà giáo, Giáo dục mới, Tâm lý nhi đồng, Tâm lý giáo dục, Phái nữ, Phương pháp sư phạm, Tâm lý tình cảm, Tánh tình và giáo dục, Trẻ khó dạy... Tất cả đều đã được xuất bản trong khoảng những năm 1970-1971.  
Sách bàn về nghề giáo, nhà giáo có 3 cuốn đáng chú ý: Vài ý nghĩ của giáo Mưu của Vũ Ngô Mưu do Nhóm Thiện Chí xuất bản, Sài Gòn, 1965 (dày 84 trang, gồm 7 chương, nêu những kinh nghiệm, những nhận xét của tác giả “về một vài vấn đề dạy học để gửi tới đồng nghiệp bốn phương”); Câu chuyện thầy trò của Huỳnh Phan (Nguyễn Hiến Lê đề tựa, Nxb Trí đăng, 1970; tập hợp các câu chuyện nhỏ và những bài thảo luận về tình nghĩa thầy trò và quan hệ giữa thầy và trò); Nhà giáo của Nguyễn Văn Y (Nxb Nam Hà, Sài Gòn, 1973).
Nếu tính chung về sách giáo khoa đại học các ngành (ngoài ngành sư phạm) thì có thể nói sinh viên trước đây phần lớn đều học theo giáo trình (cours) do các giáo sư, giảng viên đại học tự biên soạn cho môn học mình phụ trách, phần lớn in roneo, một số khác được in typo với kỹ thuật đơn giản, ít chú trọng hình thức. Tỷ như Đại học Luật khoa Sài Gòn, khi ghi tên theo học, ngay đầu năm phải đóng luôn tiền mua sách với giá khá cao, cho 9 môn học của năm thứ I (gọi là Cử nhân I): Kinh tế học, Luật Hiến pháp, Dân luật,  Cổ luật, Pháp chế sử, Quốc tế công pháp, Diễn tiến kinh tế xã hội, Danh từ kinh tế, Luật đối chiếu. Những sách này thường có ghi dòng chữ ngoài bìa: “Giảng văn dùng cho các sinh viên, cấm bán tại các hiệu sách”, hoặc “Sách này chỉ ấn hành rất hạn chế để dùng trong phạm vi trường Luật”… Vì sinh viên năm thứ I đông (khoảng trên dưới 20 ngàn) nên sách giáo khoa cũng trở thành một “nguồn lợi” kiếm thêm của một số giáo sư Đại học Luật.
Ở Đại học Văn khoa Sài Gòn, việc phổ biến sách giáo khoa cho sinh viên xem ra có vẻ “văn nghệ” và phóng khoáng hơn. Phần lớn giáo sư chỉ định cho tổ chức sinh viên trong nhà trường quay ronéo bài giảng với giá rẻ; một số khác dạy các môn Văn, Sử, Triết… thường có sách vừa để học trong trường vừa tiêu thụ ra ngoài như mọi sách đọc phổ thông khác (như của các tác giả Thanh Lãng, Phạm Văn Diêu, Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Thế Anh, Kim Định, Nguyễn Văn Trung, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Duy Cần…), thường in đẹp. Ngoài sách ở thư viện (với khoảng 20.000 sách và 200 chỗ ngồi) mà sinh viên được sử dụng, các giáo sư cũng thường đề nghị sinh viên quay ronéo thêm tài liệu tham khảo, đặc biệt là đối với những sách cổ, sách cũ quý hiếm (như Kinh Thi của Tản Đà, Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản…), sách của các tác giả miền Bắc.
Một số sách giáo khoa dùng chung cho nhiều trường đại học hoặc có đối tượng sử dụng rộng đã được Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, như Cây cỏ miền Nam Việt Nam (in lần 2 năm 1970), Sinh học thực vật (in lần 3 năm 1972), Tảo học (in lần 2 năm 1972), Hiển hoa bí tử (in lần 1 năm 1968), Rong biển Việt Nam (in lần 1 năm 1968), của Phạm Hoàng Hộ; Nông học đại cương của Tôn Thất Trình (in lần 1 năm 1967); Sản khoa của BS Đặng Hóa Long (in lần 1 năm 1968); Giao thoa (in lần 1 năm 1969), Nhiễu xạ (in lần 1 năm 1969), Phân cực (in lần 1 năm 1971), Phổ học (in lần 1 năm 1971) của Nguyễn Chung Tú; Điện học của Võ Đức Diễn (in lần 1 năm 1970); Việt Nam Dân luật khái luận (1961), Việt Nam Dân luật lược khảo (1962) của Vũ Văn Mẫu; Luật Thương mại toát yếu của Lê Tài Triển (in lần 1 năm 1959); Nhập môn Triết học Ấn Độ của Lê Xuân Khoa (in lần 2 năm 1972); Lược khảo văn học I, II của Nguyễn Văn Trung (in lần 1 năm 1968); Luận lý Toán học đại cương của Lê Thành Trị (in lần 1 năm 1972); Lịch sử Triết học Đông phương của Nguyễn Đăng Thục (in lần 2 năm 1968); Tự điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính (in lần 1 năm 1971).
Ngoài ra, còn có những sách về danh từ chuyên môn do Ủy ban Soạn thảo Danh từ Khoa học của Khoa học Đại học đường (năm 1967 đổi thành Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn) biên soạn, như Danh từ Toán học Pháp Việt, Danh từ Hóa học Pháp Việt, Danh từ Thực vật Pháp Việt, Danh từ Động vật Pháp Việt, Danh từ Mỹ thuật Pháp Việt
Cũng có trường đại học lập được Ban Tu thư, như Viện Đại học Huế, nhưng chỉ in được lẻ tẻ vài sách tham khảo. Đôi khi cũng có một nhà xuất bản tư nhân nào đó chịu nhận in sách cho giáo sư đại học, chắc do có sự quen biết, nhưng trường hợp này hiếm, và thường thì tác giả phải tự lo xuất bản lấy. 
Việc in sách giáo khoa bậc Đại học do tư nhân phụ trách có lẽ chỉ bắt đầu phát triển và thành nếp khá hơn kể từ năm 1969 khi có sự tham gia của nhà xuất bản Lửa thiêng, xuất bản tổng hợp nhiều thứ sách nhưng chủ yếu nhắm vào sách giáo khoa đại học hoặc sách tham khảo cho trình độ tương đương đại học. Đây là một nhà xuất bản tư nhân có quy mô hoạt động lớn, chỉ trong vòng 5 năm, tính đến năm 1974, đã xuất bản được khoảng 130 đầu sách, thuộc đủ các bộ môn khoa học. Có thể kể vài cuốn trong số đó như: Dân số học của Lâm Thanh Liêm (1969), Bán đảo Ấn Độ (Từ khởi thủy đến thế kỷ XVI) của Phạm Cao Dương (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh (1970), Thổ nhưỡng học đại cương của Thái Công Tụng (1970), Nhân chủng học và lược khảo thân tộc học của Bửu Lịch (1971), Phương pháp nghị luận và phân tích văn chương của Nguyễn Thiên Thụ (1971), Căn bản địa chất học của Trần Kim Thạch (1971), Khí tượng canh nông của Nguyễn Kim Môn (1972), Địa chấn học nhập môn của Nguyễn Hải, Pháp văn tuyển dịch của Lê Trung Nhiên (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950 của Nguyễn Văn Sâm (1972), Triết học và Khoa học của Đặng Phùng Quân (1972), Sắt thép thế giới của Sơn Hồng Đức (1972), Hình luật tổng quát của Nguyễn Quang Quýnh (1973), Cơ cấu Việt ngữ của Trần Ngọc Ninh (1973), Lịch sử các học thuyết chánh trị của Nguyễn Ngọc Huy (năm 1973), Hán văn tân khóa bản của Nguyễn Khuê (1973), Dân số thế giới của Ngô Văn Lắm (1973), Nham thạch thông thường của Liêu Kim Sanh (1973), Văn học và Ngữ học của Bùi Đức Tịnh (1974), Thống kê thực dụng của Châu Nguyệt Hồng (1974)…

TẠM KẾT
Qua sự tổng hợp tư liệu và phân tích, nhận định cho từng phần như trên, chúng ta nhận thấy chương trình học và sách giáo khoa miền Nam trước năm 1975 có cả những mặt ưu điểm lẫn khuyết điểm. Nhất là về chương trình, mặt khuyết điểm tồn tại khá nhiều, bị không ít nhà giáo dục lên án, đại khái cho rằng còn quá nặng mà lại thiên về cái học từ chương khoa cử thoát ly thực tế cuộc sống, vốn chịu ảnh hưởng chương trình học cũ của thời phong kiến và của Pháp. Tuy nhiên, các nhà chức trách giáo dục nói chung đã rất có thiện chí biết lắng nghe dư luận của các giới quan tâm, nên qua nhiều lần sửa đổi, chương trình học cũng ngày càng nhẹ đi, nhất là ngành giáo dục những năm cuối cùng của chế độ đã tích cực hướng sang chương trình giáo dục Tiểu học Cộng đồng bằng việc cộng đồng hóa 100% các trường tiểu học (theo Nghị định số 2463-GD/PC/NĐ ngày 25/11/1969), cũng như đã khởi động trên thực tế chương trình trung học tổng hợp với nội dung giảng dạy sát với đời sống hơn qua việc thử nghiệm ở Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức và một số trường khác ở các tỉnh. 
Khi nghe lời phê bình gay gắt của các nhà hữu tâm với giáo dục, chúng ta dễ có cảm giác như thể tất cả các bộ chương trình Trung, Tiểu học do Bộ Giáo dục soạn ra đều hỏng bét hết cả nhưng thực tế chắc không phải vậy. Việc đời cũng như việc trị nước thông qua công trình tổ chức giáo dục quốc dân, bao giờ cũng có hai mặt, nếu “nhân bản, dân tộc, khai phóng” quá cũng chết, còn như ngược lại, cứ quá đà chạy theo khoa học-kỹ thuật thực dụng để công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như bây giờ người ta hay nói cũng có chỗ không ổn. Vì phát triển khoa học-kỹ thuật hướng tới thực dụng mà không dựa trên nền tảng triết lý giáo dục nhân bản thì tất yếu cũng sẽ sinh ra nhiều điều tai hại, về mối quan hệ giữa người với người trong xã hội cũng như giữa con người với thiên nhiên, mà hậu quả là sự tha hóa con người và phá hủy môi trường sống, vô phương cứu chữa, như trường hợp Trung Quốc hiện nay sau mấy mươi năm “đại nhảy vọt” mà nhà cầm quyền Trung Quốc tự hào là thành công nhưng chính họ cũng đang phải xét lại nhiều mặt.
Cho nên bình tĩnh mà xét, có lẽ chúng ta cũng nên cảm thông sâu sắc với những nhà soạn thảo chương trình thời đó: nắm quyền “định đoạt” giáo dục trong tay với chút ít quan liêu chủ nghĩa, phần lớn họ đều được đào tạo trong thời Pháp thuộc, đã quen với những bộ chương trình học nặng nề dày cộp đầy lý thuyết của Pháp, nên tuy có thực tâm cải cách họ vẫn khó thay đổi tư duy nhanh chóng trong một sớm một chiều; mặt khác, họ cũng có phần hơi hào hứng, lãng mạn, lý tưởng ở chỗ đòi hỏi nỗ lực học tập quá nhiều ở con em mình, cũng như đã quá chú mục theo đuổi triết lý giáo dục nhân bản, nên dễ thoát ly thực tế. Tuy nhiên, nếu chọn một đường lối chiết trung nào đó thì có lẽ hay hơn, bởi một phần nếu học hành theo lối của họ bên cạnh cái dở cũng có nhiều điều bổ ích, trên thực tế đã đào tạo nên một thế hệ thanh niên tương đối tốt về chất lượng học vấn, nhất là ở chỗ họ không bao giờ quên phải giáo dục nhân cách con người và lòng nhân ái qua những bài học của các môn Văn, Sử, Đức dục, Công dân giáo dục…, trên tinh thần luôn không hoàn toàn đồng thuận với mọi sự kích động về lòng căm thù giữa đồng bào và đồng loại.
Còn về sách giáo khoa, chương trình học định ra thế nào thì sách giáo khoa cũng như thế ấy. Nói chung, về nội dung biên soạn tốt theo chương trình quy định của Bộ Giáo dục, theo đúng triết lý “nhân bản, dân tộc, khai phóng” ở những môn khoa học nhân văn, và nhờ tính cạnh tranh trong quyền được tự do biên soạn của tư nhân và quyền chọn của người sử dụng nên phong phú đa dạng và ngày càng được cải tiến tốt hơn.
                                                                                                                                   
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo dục Mỹ thuật Bộ, Chương trình Trung học, in lại trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I, Nxb Giáo dục, 1998.
- Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam, Chương trình giáo dục (Bậc Tiểu học và Trung học), Nhà in các Công báo, Sài Gòn, 1953.
- Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1960.
- Chương trình Tiểu học (áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968), Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, 1968.
- Chương trình Trung học, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1960.
- Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa, Chương trình Trung học Phổ thông (Cập nhật hóa), Sài Gòn, 1970.
- Bộ Giáo dục, Chương trình Trung học, Sài Gòn, 1971.
- Trần Thái Hồng, Khảo sát hiện trạng Giáo dục Trung học Tổng hợp, Tiểu luận đệ trình Hội đồng Cao học Giáo dục Trường Đại học Sư phạm, Viện Đại học Sư phạm, Viện Đại học Sài Gòn, 8/1973.
- Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng & phát triển văn hóa giáo dục, Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970.
- Lê Thanh Hoàng Dân (Chủ biên), Các vấn đề giáo dục I, II, Trẻ xuất bản, Sài Gòn, 1971.
- Nguyễn Hổ Dư-Trần Doãn Đức, Vấn đề giáo dục, Văn khoa xuất bản, 1971.
- Phòng Tâm lý và Hướng nghiệp Đắc Lộ, Chỉ nam giáo dục cao đẳng Việt Nam, Sài Gòn, 1974.
- Văn hóa tập san XIII, Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1974.
- Tập san Minh đức, Số ra mắt (đặc biệt về Phát triển & Giáo dục), Sài Gòn, tháng 6 & 7, 1972.
- Giáo dục nguyệt san, các số 28 (12/1968), 49 (5/1971), 53 (12/1971), 54 (1/1972), 59-60 (6-7/1972).
- Bách khoa, các số 128, 129, 130, 131 (từ 1/5/1962 đến 1/6/1962), và 184 (1.9.1964).
- Lê Ngọc Trụ, Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965), bản in ronéo, Sài Gòn, 1966.
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Nguyễn Hùng Cường, Thư tịch về khoa học xã hội tại Việt Nam, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970.
-  Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa, 1998.
-  Trần Văn Quế, Sư phạm thực hành, Bộ Văn hóa Giáo Dục, in lần thứ nhất, Sài Gòn, 1964.
- Nguyễn Phú Phong, “Quốc ngữ trong chương trình tiểu học thời Pháp thuộc”, Từ Đông sang Tây, Cao Huy Thuần chủ biên, Nxb Đà Nẵng, 2005.
- Lê Thanh Hoàng Dân (Chủ biên), Quản trị và thanh tra học đường, Trẻ xuất bản, Sài Gòn, 1972.
- Sách giáo khoa thuở xưa (hình chụp các bìa sách), https://www.facebook.com/media/set
- Sách giáo khoa các thời kỳ (hình chụp các bìa sách), thuongmaitruongxua.vn
- Thư mục 1972 Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1972. 
- Một số sách dạy Văn bậc tiểu học từ lớp Năm tới lớp Nhất (Lớp 1 tới lớp 5) xuất bản trước năm 1975.

Nguồn: Tạp chí Nghiên Cứu & Phát Triển, số 7-8 (114-115).2014
(Chuyên đề: Giáo dục miền Nam Việt Nam 1954-1975)

Trần Văn Chánh
27/10/2014


1 nhận xét :

  1. Cám ơn ô. Trần Văn Chánh đã gìn vàng giữ ngọc !

    Trả lờiXóa