Thứ Tư, 8 tháng 8, 2018

Nhóm Lão Mà Chưa An: TUYÊN BỐ VỀ "LUẬT ĐẶC KHU"


Tuyên bố của nhóm “Lão Mà Chưa An” 
về Luật Đặc khu

8-8-2018

Chính phủ Việt Nam đã trình dự thảo “Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” (Luật Đặc khu) để Quốc Hội thảo luận và thông qua trong kỳ họp thứ V, Quốc hội khoá XIV, từ ngày 21-5-2018 đến 15-6-2018. Do sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân, ngày 11-6-2018 Quốc hội đã quyết định lùi thời gian xem xét thông qua dự án luật này sang kỳ họp thứ VI, dự kiến vào tháng 10-2018.

Ngày 10-7-2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trưởng ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt, đã nói “xin ý kiến rộng rãi nhà khoa học, nhân dân về đặc khu kinh tế”. Cho đến nay chưa rõ việc “xin ý kiến rộng rãi” sẽ diễn ra thế nào.

Theo kế hoạch, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự kiến họp trong tháng 8-2018 sẽ bàn tiếp về Luật Đặc khu để chuẩn bị cho kỳ họp thứ VI. Báo chí đưa tin đã có một tài liệu phục vụ cho việc tiếp xúc cử tri sau kỳ họp thứ V; tài liệu đó đã nêu một số vấn đề trong dự thảo luật mà người dân phản đối và đưa ra các lập luận bác bỏ những sự phản đối đó, tức là nhằm biện minh cho dự thảo luật. Tuy nhiên, cho đến nay (6-8-2018) các chuyên gia và đông đảo nhân dân tiếp tục phản đối và yêu cầu huỷ dự án luật này.

Ngày 4-8-2018 báo chí tưởng thuật rằng trong phiên họp từ 8-8 đến 13-8-2018 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chưa xem xét luật đặc khu.

Dự luật Đặc khu đã được trình hay sẽ được sửa đổi vẫn phải nhằm đạt mục đích được nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017 của Đảng Cộng sản Việt Nam về “xây dựng một số đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị”.

Chúng tôi phản đối dự luật đặc khu vì một số lý do sau đây:

1) Trong hai mục tiêu nêu trên của Nghị quyết số 11-NQ/TW thì mục tiêu “với quy chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng” cho đất nước là không thể đạt được nếu chỉ thực hiện tại vài đặc khu có quy mô dưới cấp tỉnh lớn, như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội hay Đà Nẵng; còn mục tiêu “thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị” với “thể chế vượt trội” cũng không thể thực hiện được nếu không có sự thay đổi thể chế chính trị ở tầm quốc gia. Nói cách khác cả hai mục tiêu là bất khả thi nếu không có sự thay đổi thể chế đồng bộ ở cấp quốc gia theo hướng dân chủ, pháp trị và cai quản (governance) tiên tiến. Nếu có sự thay đổi như vậy, tức là biến cả nước thành “đặc khu” (một việc mà chúng tôi hết sức ủng hộ), thì luật về đặc khu chẳng còn ý nghĩa gì.

2) Một mục tiêu khác của dự luật (theo Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr. 4-5) là “Tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát triển (R&D), các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao công nghệ sinh học;…” chỉ có thể thực hiện được ở các trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ chẳng hạn. Nhưng hãy xem xét thật nghiêm túc tình hình của các khu công nghệ cao Hoà Lạc (được thành lập từ 1998 và 20 năm sau vẫn chưa đâu ra đâu: đến 2016 chỉ thu hút được 78 dự án với vốn đăng ký 60 ngàn tỷ đồng và nhiều dự án đã không thể triển khai và phải thu hồi giấy phép đầu tư của 17 dự án và nhiều dự án khác đang chậm tiến độ sắp bị thu hồi giấy phép), Khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh (SHTP, thành lập năm 2002) có lẽ “thành công” hơn cả đạt gần 3,4 tỷ USD vốn giải ngân trong 16 năm hoạt động (với 1 tỷ USD của Intel Products và 1 tỷ USD của Nidec, ngoài ra là vốn giải ngân của các công ty khác) và các doanh nghiệp tại SHTP nộp ngân sách năm 2017 gần 118 triệu USD, mức xuất khẩu từ SHTP hơn 10 tỷ USD, nhưng SHTP vẫn chưa được như kỳ vọng sau 16 năm hoạt động. Đó là chưa kể đến sự èo uột của nhiều khu công nghệ cao ở các nơi khác. Chưa rút kinh nghiệm để cải thiện các khu công nghệ cao như vậy, thì hỏi làm thế nào để thu hút đầu tư công nghệ cao, cho khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu & phát triển ở các “đặc khu” xa các trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật này? Mục tiêu này là hoàn toàn không có cơ sở và không thể khả thi ở các đặc khu đó.

3) Mục tiêu tiếp theo (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr.5) là “Từ thực tiễn phát triển của các đơn vị Hành chính Kinh tế Đặc biệt có thể nhân rộng trong cả nước những thể chế, chính sách và mô hình quản lý mới, hiệu lực, hiệu quả” chắc chắn sẽ thất bại vì những phân tích 1) và 2) ở trên.

4) Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập rất sâu (nếu tính bằng tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP thì Việt Nam thuộc các nước hội nhập sâu nhất) vào nền kinh tế thế giới. Cần cải cách thể chế sâu rộng ở quy mô toàn quốc chứ không phải “thử nghiệm” ở vài “đặc khu nhỏ”, nói cách khác mô hình đặc khu không còn phù hợp với Việt Nam ngày nay.

5) Thế thì tại sao người ta vẫn khăng khăng cố làm các “đặc khu”? Có những dấu hiệu khó chối cãi về sự câu kết giữa các doanh nghiệp cánh hẩu (nhất là các doanh nghiệp bất động sản) và chính quyền hay một số người của chính quyền trong việc đổ xô chia chác đất và các dự án “đón lõng đặc khu” để trục lợi tại Vân Đồn, Phú Quốc và phần nào ở Bắc Vân Phong. Có sự giống nhau khó chối cãi của sự câu kết như vậy khi người ta nhất quyết sáp nhập Hà Tây và vài xã Hoà Bình vào Hà Nội 10 năm trước đây.

6) Tuy dùng từ ngữ rất hào nhoáng (thể chế vượt trội, công nghiệp 4.0, công nghệ cao, vân vân), nói là “Tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi” cho “dịch vụ, du lịch nghỉ đưỡng cao cấp, công nghiệp văn hoá, dịch vụ hậu cần cảng biển và sân bay,…” (Tờ trình của Chính phủ số 411 cho Quốc hội, tr. 5) nhưng thực ra chỉ là để hợp thức hoá sự câu kết nêu ở điểm 5) ở trên và sẽ chỉ tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, casino (mà có lẽ là “công nghiệp văn hoá”?), khách sạn, sân bay… đang được hối hả xây dựng để được hưởng các mức ưu đãi đặc biệt.

7) Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc đều là các nơi rất nhạy cảm về an ninh quốc phòng và với việc biến các đặc khu này thành các khu đặc lợi rất có thể tạo khuyến khích cho việc gây ra những nguy cơ khôn lường đối với an ninh quốc gia.

Còn có thể nêu ra các lý do khác cho việc phản đối luật đặc khu.

Vì các lý do nêu trên, chúng tôi yêu cầu:

1) Chính phủ huỷ bỏ, không trình dự luật đặc khu dù dưới dạng đã được trình hay sẽ được sửa đổi (thí dụ bỏ thời hạn thuê đất 99 năm xuống 50 hay 70 năm, bỏ một số quy định quá ưu ái cho “công dân nước có biên giới chung với tỉnh Quảng Ninh”, vân vân);

2) Trong trường hợp Chính phủ vẫn cố ý trình dự luật đặc khu, thì yêu cầu Quốc hội bác bỏ dự luật đặc khu đó. 
 

3 nhận xét :

  1. Mong có nhiều tổ chức xã hội trong nước và kiều bào ở nước ngoài ra tuyên bố phản đối và yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ dự thảo Luật đặc khu phục vụ cho ý đồ thôn tính Việt Nam của Trung Cộng. Mong có một tổ chức nào đứng ra thu thập các chữ ký (dưới dạng trưng cầu dân ý) một cách công khai, khách quan nhằm giúp Chính phủ và Quốc hội VN đỡ u mê và vạch mặt các nhóm lợi ích thân Tàu. Mong các GS, TS các Đảng viên chân chính, các nhân sỹ yêu nước ... dù đang được Chính phủ trả lương hãy vì dân vì nước Việt mà dũng cảm viết bài hoặc gửi thư ngỏ cho TBT đảng, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội về dự thảo Luật này. Nếu thành công thì lịch sử và nhân dân Việt Nam ghi công các vị. Mong lắm.

    Trả lờiXóa
  2. Tôi nói nôm na dễ hiểu nhé : Luật đặc khu làm theo chỉ thị của Tầu , gọi nôm na là luật bán nước .

    Trả lờiXóa
  3. Tôi độc kỹ bài này, phần vì tôi nghe danh các vị "Lão mà chưa an" đều là những người tôi kính trọng, tin tưởng. Đúng là 'Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách', mà các vị đâu phải là những kẻ thất phu. Tôi đồng ý với như ý kiến của các vị. Như xin được nói lại đôi điều. Trong bài các vị có nhắc đến Nghị quyết số 11 - NQ/TW ngày 3 - 6 - 2017. Tôi ngầm hiểu là như thế khó cho các đại biểu QH, ngay như vị chủ tịch cũng đã nói là phải thông qua. Như thế hóa ra các tổ chức của chúng bảo thủ, thiếu biện chứng. Tôi có những thí dụ là đảng quyết rồi, QH vẫn không nghe, hoặc BCT quyết rồi TW vẫn không nghe. Thí dụ:1, Ngày 22 - 6- 1988, đảng chỉ giới thiệu ông Đỗ Mười để QH bầu ông làm thủ tướng. Quốc hội vẫn giới thiệu thêm ông Võ Văn Kiệt, thế là QH bầu trên cơ sở 2 ứng viên. 2, Kỳ họp thứ 10 khóa 10, QH không nghe chỉ đạo của BCT: BCT chỉ đạo rút ngắn nhiệm kỳ QH khóa X 3 tháng và định bầu QH khóa XI vào ngày 21 -4 -2001, QH không đồng ý và quyết bầu vào ngày 19 - 5 - 2001. Có thể kể vài chuyện nữa. Ngay công việc của đảng BCT quyết định kỷ luật dồng chí X, nhưng TW không nghe. Thông báo số 10 ngày 18 - 5 1979: "Một số biện pháp tưởng là đúng đắn trước đây tỏ ra không hiệu quả, ngược lại những ý kiến bị quy kết là sai lầm nay cần được lắng nghe và xem xét một cách nghiêm túc". Vì vây, thấy giới trí thức, đông đảo nhân dân không đồng tình 'đặc khu' thì chẳng lý gì mà những người mệnh danh là thế này, thế nọ mà hành xử sai, để lại tiếng xấu ở đời. Muốn viết dài nữa, đưa ra nhiều ví dụ, nhưng quá dung lượng cho phép.

    Trả lờiXóa