VĂN TẾ 74 TỬ SĨ TRONG TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
NGÀY 17 – 19.01.1974
Tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Hỡi ơi!
Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.
NGÀY 17 – 19.01.1974
Tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Hỡi ơi!
Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.
Mới hay,
Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,
Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào ngại.
Kính các anh vị quốc thân vong
Bày một lễ thâm tình cung bái.
Nhớ
các anh xưa,
Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.
Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn[1] chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước[2] còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị[3], mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền[4], vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.
Thế nên,
Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.
Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.
Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn[1] chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước[2] còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị[3], mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền[4], vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.
Thế nên,
Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.
Hội
khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời,
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.
Có ngờ đâu,
Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo[5], xây đồn đắp lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật[6],… giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh6,.. chúng đang xơi tái.
Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư[7] né né tiễn lôi lèo lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài”[8]
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi”[9]
Thế nhưng,
Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại[10].
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.
Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.
Có ngờ đâu,
Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo[5], xây đồn đắp lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật[6],… giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh6,.. chúng đang xơi tái.
Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư[7] né né tiễn lôi lèo lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài”[8]
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi”[9]
Thế nhưng,
Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại[10].
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, này sóng dữ, này đá ngầm, biển rộng đường xa phải trải.
Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Dù
như thế ta vẫn quyết thư hùng
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành trọng pháo nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà[11] trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt[12] lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ thuyền mình câu vọng lại.
Thương ơi!
Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.
Công các anh,
Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,
Xương anh linh rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.
Hôm nay.
Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Xót uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.
Hỡi ơi!
Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thụ bái.
Huế, ngày 18.01.2014
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
______________
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành trọng pháo nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà[11] trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt[12] lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ thuyền mình câu vọng lại.
Thương ơi!
Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.
Công các anh,
Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,
Xương anh linh rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.
Hôm nay.
Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Xót uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.
Hỡi ơi!
Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thụ bái.
Huế, ngày 18.01.2014
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
______________
Chú thích:
.
[1] Đầu TK 17, Chúa Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm.
Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.
[2] Ngày 9 tháng 6 năm 1885: Hòa ước Thiên Tân kết thúc chiến tranh Pháp Thanh. Ngày 26 tháng 6 năm 1887: Pháp và nhà Thanh xúc tiến ấn định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa.
[3] Ngày 6 tháng 9 năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản, vốn không chính thức xác định rõ các quốc gia nào có chủ quyền trên quần đảo, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố rằng cả quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, và không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị.
[4] Năm 1954 – Hiệp định Geneva quy định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời (bao gồm cả trên đất liền và trên biển). Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía Nam vĩ tuyến 17, được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam (quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu) quản lý.
[5] Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa bao gồm Phú Lâm và Linh Côn. (Trần Công Trục)
[6] Tên các hòn đảo bị Trung Quốc xâm chiếm.
[7] Tên bốn chiến hạm tham gia trận hải chiến Hoàng Sa: HQ4 (Trần Khánh Dư), HQ5 (Trần Bình Trọng), HQ10 (Nhật Tảo), và HQ16 (Lý Thường Kiệt).
[8] Tên bài thơ của danh tướng Phạm Ngũ Lão đời Trần được Hạm trưởng HQ4 Trung tá Vũ Hữu San đọc để cổ võ tinh thần binh sĩ trước giờ khai hỏa.
[9] Tức là Trung Nghĩa, bổn phận của người lính.
[10] Trời dung tha phường vô lại.
[11] Thiếu tá Ngụy Văn Thà là hạm trưởng HQ10 Nhật Tảo.
[12] Lý Thường Kiệt là tàu HQ16.
Nguồn: Ba Sàm
CÁm ơn tác giả và chủ blog, tôi đã khóc! Áng văn này sẽ đi vào lòng dân tôc.
Trả lờiXóaTuyệt vời trên cả tuyệt vời
Trả lờiXóaTài năng có một ,tình người gấp trăm
Dám ngang kim cổ hùng văn
Đọc xong lòng cứ khóc thầm quặn đau!
Cỏ cây rủ lá rầu rầu
Biển Đông nổi sóng bạc đầu hờn căm!
Về cùng Tiên Tổ ngàn năm
Các anh vẫn sống trong dân Lạc Hồng
Máu các Anh,máu Cha Ông
Vẫn còn chảy mãi trong lòng Việt nam
Mẹ Âu Cơ,Bố Long Quân
Từ ngàn xưa vẫn âm thầm dõi theo
Hôm nay trong cảnh ngặt nghèo
Nén hương xin thắp,chín chiều lòng đau...
HƯƠNG DƯƠNG THU
(Kính gửi anh Nguyễn Xuân Diện
Chắc chắn dân ta khó lòng tổ chức được một buổi lễ tưởng niệm trọng thể xứng đáng với sự hy sinh,vì Nước quên thân của các vị anh hùng Hoàng Sa năm 1974.Nhưng tôi nghĩ "trọng thể hay không là ở trong lòng người.Mong anh tổ chức nhờ một người tài giỏi ,đọc bài văn tế này rồi truyền trên trang của anh,để đến hôm kỷ niệm,người ngồi nhà vẫn hòa mình với dòng người dâng hương.Kính)
Ý tưởng đề nghị này của nữ nhà văn rất hay. Gương hy sinh oanh liệt của 74 liệt sỹ do thiếu tá hạm trưởng Ngụy văn Thà chỉ huy thật xứng đáng được truyền tụng cho các thế hệ hiện nay và và mai sau. Tôi đã có dịp đến thăm căn phòng bé nhỏ của chị vợ anh Thà ngay sau khi cuộc hội thảo ở Hà nội vừa kết thúc và thắp hương lên bàn thờ anh do anh Lữ công Bảy hoa tiêu trong trận này thoát chết hiện đang sống ở Thủ đức dẫn tôi đến đó.
XóaXin kính viếng vong linh 74 liệt sỹ của hạm trưởng Ngụy văn Thà.
Bài văn tế rất hay. Vừa để tưởng niêm những người đã hy sinh cho tổ quốc, vừa nói lên một tình cảnh lạ kỳ, cay đắng của nhân dân Việt Nam hôm nay. Xin Cám ơn.
XóaSau năm 1975, QĐND VN chưa có một chiến công nào bi hùng như chiến công của các sĩ quan, chiến sĩ VNCH trong việc bảo vệ biển đảo của Tổ quốc. Gạc Ma mất vào tay Tầu cộng mà phía VN không nổ được một phát súng nào!
Trả lờiXóaHoan hô các sĩ quan, chiến sĩ VNCH đã ngã xuống ở HS! Tổ quốc mãi ghi công các anh!
Nghe văn tế mà nước mắt đầm đìa. Nước ta có những chiến binh như thế, nhất định chúng ta tin tưởng sự trường tồn của đất nước, dù có lúc bất hạnh gặp phải lãnh đạo như thế nào, dù là ươn hèn, suốt chiều dài lịch sử nói thế.
Trả lờiXóaTôi còn nhớ những kỷ niêm về những lần đến biên giới. Năm 1994 được lãnh đao Ủy ban dân số Lạng Sơn đưa đến một xã của huyện Cao Lộc dưới núi Mẫu Sơn. Dân ta làm đường biên, Tàu cho dân binh ra cản. Đôi bên giằng co, chị Liên trong đám đông dân mình, bất thình lình chị lên xe ủy nổ máy làm cho đán dân binh Tàu chạy cuống cuồng, sợ tái mặt chạy vãi đái.
Năm 1998, một đoàn cán bộ do Ủy viên BCT Nguyễn Đức Bình dẫn đầu đến thăm đồn biên phong Chi ma Lạng Sơn. Các chiến sĩ nói với chúng tôi: Chúng cháu lên đây chia tay với các bạn và thề rằng quyết bảo vệ biên cương và lấy ngày chia tay là ngày tiễn biệt coi như đã hy sinh vì tổ quốc. Lãnh đạo cứ ra lệnh là chúng cháu tiêu chúng ngay.
Đến Cao Bằng, đứng trên cầu Quảng Hòa, được một trung tá chỉ huy hướng dẫn chỉ cho biết đường biên theo Hiệp ước Pháp - Mãn Thanh và nói: Dù thế nào Tau cũng quấy rối, nhưng bất cần, chúng ta có lẽ phải có Hiệp ước đã ký hàng trăm năm. Kiên trì giữ vững đường biên này, đừng nao núng. Không có Hiệp đinh nó cũng quấy phá, có Hiệp định nó cũng quấy phá. Hàng năm chúng tôi có gửi báo cáo về trung ương.
Hãy tin tưởng ở chúng tôi.
Tuyệt vời. Bài văn tế là Tiếng nói từ trái tim của triệu người. Đây quả là một tác phẩm văn học đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại
Trả lờiXóaCảm ơn anh NXD đã trang trọng lưu giữ áng văn"kim cổ hùng thư" tràn đầy nước mắt và rừng rực lửa căm thù của dân tộc Việt Nam!Mong ước các nhà trí thức,các học giả,các bậc phụ huynh ...làm sao để áng văn này được in thành sách,được in vào giáo khoa thư để giảng dạy trong trường học(cũng như trường hợp bài "Văn tế tướng sĩ Cần Giuộc" của cụ Đồ Chiểu)!
Trả lờiXóaHƯƠNG
Mặc dù qua bao áp lực dư luận QT Tàu mới cho nhóm chuyên gia WHO vào, nhờ nay đẻ ra 1 chiêu thức mới - không cho chuyên gia WHO phỏng vẫn người có liên quan ở phòng thí nghiệm Vũ Hán.
Trả lờiXóaĐúng Tàu là nguồn gốc vũ khí sinh học Sar-Covi rồi chứ ai nữa. Xấu xa!
https://baoquocte.vn/dieu-tra-nguon-goc-sars-cov-2-my-trung-quoc-tranh-cai-ve-su-menh-khoa-hoc-o-vu-han-134290.html
Xứng một áng hùng văn yêu nước và một lòng giữ nước !
Trả lờiXóaMỗi lần nghe nhắc đến Hoàng Sa hay Gạc Ma là trái tim những người Việt yêu nước lại quặn thắt và mối căm thù giặc Tàu lại trào dâng mặc dù biết rõ không thể đòi lại được vì mắc họng với phương châm 4 tốt và 16 chữ vàng rồi .
Trả lờiXóahiện nay không
biết làm gì được.
Chiến tranh là tàn khốc đầu rơi máu chảy, kẻ thù cũng không thoát được tình cảnh đó, thương dân VN thương cho nước VN chỉ là con cờ trong bàn cờ các nước lớn, chúng ta hãy cùng nhau ghi sâu tội ác quân Tàu !!!
Trả lờiXóa