Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

LÀNG VÀ NƯỚC MẮT THỜI MỞ CỬA - tùy bút của Phạm Quang Long


Nhà quê và về quê

Phạm Quang Long

Là trai nông thôn, học xong làm việc ở thành thị, lấy vợ là người Hà Nội, công việc, con cái ổn cả, nhà cửa chẳng sang trọng gì nhưng cũng đủ để sống một cuộc sống yên ổn mà sao những suy nghĩ về quê cứ luôn thấp thỏm trong tôi?

Trước đây, thỉnh thoảng vợ và con vẫn đùa: "bố nhà quê lắm". Tôi hiểu, đó như một lời chê. Thì tôi vốn là người nhà quê, không quê sao được?.Dù xa quê đã lâu và thực sự, tôi đã là một tay nhà quê mất gốc nhưng cái chất quê, kiểu quê nó lặn vào máu tự bao giờ. Ẩn kín đến đâu rồi cũng có lúc cũng bật ra, gây khó chịu cho người khác bởi cái sự thiếu văn minh của mình.

Ngày làm ở sở Văn hoá ở Hà Nội, tôi cứ nói đùa với các bạn là tôi đang " lấy nông thôn bao vây thành thị", đang " nhà quê hoá" đất kinh kỳ. Chả biết mình đã làm hỏng và phá đất thần kinh những gì do ngu dốt, kém cỏi...nhưng phải nói rằng chính những ngày này tôi mới có dịp nhận ra nhiều cái " nhà quê" vẫn đang tiềm ẩn nơi thị thành, đang làm cho nơi đây giầu có thêm lên. Đi sâu vào các khu phố cổ, lật những lớp bao phủ bên ngoài, nhìn sâu hơn vào phía sau tôi nhận thấy rất nhiều chất " nhà quê" của dân tứ chiếng đã góp phần tạo nên mảnh đất kinh kỳ này. Và, ẩn sau những lớp bụi thời gian, bụi " kinh thành", cứ lấp lánh nét đẹp của những người nhà quê thuộc nhiều thế hệ khác nhau đã cùng góp sức lực, trí tuệ tâm huyết ( cả tài sản và sinh mạng của mình nữa) cho vùng đất mới mà họ đã chọn làm nơi lập nghiệp của mình.

Chỉ riêng những đình chùa của các hội làng nghề thôi đã thấy rất rõ điều đó. Xa xôi gì đâu, độ trên dưới một thế kỷ nay thôi-những gì mà tôi thấy và biết chứ các nhà lịch sử thì chứng minh được từ nhiều thế kỷ trước nữa, những tốp thợ lành nghề của các nơi đã lập thành những phường, những khu của riêng mình. Bằng tài hoa và công sức của họ, họ đã tạo lập cả một nghề, dựng xây một nghiệp cho một gia đình, dòng họ, phường nghề cho đến ngày nay. Những người ấy, trước đây không hề tự ti về nguồn gốc nhà quê của mình, họ đã đặt tên cửa hiệu, phường nghề, hội đoàn của mình là người ở làng X., tỉnh Y. là để nhắc nhớ đến quê hương bản quán, đến tổ tiên mình. Bây giờ đã mất đi khá nhiều (và đó là điều đáng tiếc ) nhưng bạn đi trên phố cổ vẫn còn những ngôi nhà xây đầu thế kỷ XX ghi tên hiệu, làng ở cổng nhà, các đình, quán, nơi thờ thành hoàng, tổ nghề của các làng nghề khắp đất Bắc mà đông nhất vẫn là xứ Kinh Bắc, xứ Đông và xứ Đoài. Đúng như nhà thơ đã viết, khi đi đến một nơi nào đó, người dân đã gánh trên vai cả đất nước đi theo. Đến tận đầu thế ký XX người ở phố vẫn ngại bị người khác chê mình là dân tứ chiếng, không có quê quán nên luôn tự hào mình vốn là người nhà quê bây giờ lập nghiệp ở vùng đất mới. Mối dây liên hệ giữa họ- người thành thị với quê quán, xứ sở vẫn còn rất khăng khít và thiêng liêng. Điều đó bây giờ đang nhạt dần.

Cũng vì làm văn hoá, tôi cũng hay được đến dự những lễ khánh thành các loại từ đường, các quỹ khuyến học do những người con của một làng quê nào đó, giờ thành những đại gia, bỏ tiền ra xây dựng cho quê. Những ngày ấy vui lắm. Người bỏ công của ta làm lợi cho quê vui vì mình đã nhìn thấy kết quả. Người nhà quê vui vì quê mình có thêm điều này điều kia để mở mày mở mặt với thiên hạ. Những ngày ấy cả làng vui như có hội. Và mối giây liên hệ giữa người gốc quê và quê nhà cũng bớt lỏng lẻo đi. Có người làm điều này điều nọ cho quê cũng như một sự đền ơn món nợ sinh thành với cha mẹ, làng xóm. Dù xuất phát từ điều gì thì đó cũng là một nếp hay.

Giờ, do nhiều nguyên nhân và cũng là điều khó tránh, có hai luồng suy nghĩ trái nhau của hai thế hệ: thế hệ cha và con. Thế hệ cha-những người sinh ra và lớn lên độ 18-19 tuổi mới rời quê lên thành thị lập nghiệp. Thế hệ này vẫn nhớ quê và coi đó là chốn đi về của tuổi già, là " chốn nương thân" lúc cần yên ổn và cũng là nơi " trở về với cát bụi". Với họ, nghĩa vụ với làng quê, phần mộ tổ tiên, ông bà còn quan trọng lắm. Hàng năm, thế nào cũng cố về vài lần, với ít nhiều ngậm ngùi, cảm khái, bất lực trước những đổi thay của thế thái nhân tình, lòng người. Tình quê còn nặng nhưng lực bất tòng tâm.


Thế hệ con cái không sinh ra ở quê mà ở thành thị nên quê hương đối với họ là ngôi nhà họ sinh ra và đang ở với tất cả niềm vui, nỗi buồn, những lo lắng mưu sinh và hạnh phúc họ có ở chốn thị thành. Họ cũng biết quê hương bản quán không phải ở đây nhưng sự gắn bó với quê cha không sâu đậm. Không sống ở quê, không có những ràng buộc thiết thực, hàng ngày, quê với họ chỉ là những kỷ niệm mỗi lần theo cha mẹ về thăm họ hàng, là những ràng buộc cũng rất lỏng lẻo. Họ không thờ ơ nhưng cũng không ai " bắt" họ phải gắn bó với quê hương như cha mẹ họ được- những người bây giờ vào mùa đông, kéo ống quần lên, lấy tay gãi vào ống chân, bụi của nước mặn, chua phèn vẫn còn rơi trắng nhà và trên móng chân, móng tay họ, dấu ấn của những ngày làm ruộng, dù ít, vẫn còn khắc vệt thời gian trên đó.

Tôi có ông bạn nhà quê, lấy vợ thị thành. Hơn 10 năm cưới vợ đã có "thành tích" đưa vợ về quê được hai lần. Ngày ấy, đi về quê, cơ cực lắm chứ không như bây giờ. Vậy nên, sau lần mới cưới, lần về vì việc trọng, những ngày lễ, tết chị đều có lý do để không phải về mà lý do nào cũng chính đáng: con bé, con ốm, em không khoẻ, em bận đi công tác... Không thể trách mà chỉ lặng lẽ buồn. Khi con lớn lớn một chút, rủ con về quê. Nó đã biết quê là thế nào nên trả lời rất hồn nhiên: " Thôi, quê bố, bố về!". ( Tất nhiên, giờ thì đã khác. Anh có con xe loại khá, vợ con thích đi về quê để hưởng khung cảnh làng quê, anh chỉ lái nửa ngày về đến nhà). Giờ về nhiều hơn mà cảm giác đi tham quan lại lấn át cảm giác về nhà.

Thì ra câu chuyện nhà quê, về quê, tưởng nhỏ mà không nhỏ. Hay tại tôi cứ lẩn thẩn mà " chẻ sợ tóc làm tư" ra thế chứ nó cũng chả quan trọng gì.Thôi thì dù sao, đó cũng là chuyện bắt mình phải nghĩ còn nó cần thế hay không, chưa biết.

Có lúc, ngồi uống rượu, đã " cảm khái" mấy câu:

Ba mươi năm biệt quê nhà
Ba mươi năm ấy ta là tha hương
...Chén buồn, như thực, như mơ
Chén vui, cứ ngỡ ta giờ ở quê...

Quê, người quê, về quê, chuyện giờ đã khác xưa nhiều lắm.
01.09.2015
_______________
.
Làng và nước mắt thời mở cửa

Phạm Quang Long

Làng tôi nhỏ như cái khoẳm bò nằm ôm lấy dòng sông Sinh thơ mộng. Tuổi thơ tôi đã gắn bó với làng tất cả mọi niềm vui và nỗi buồn. Tôi lớn lên, nhờ công ơn nuôi dạy của mẹ tôi là chính nhưng dân làng, cả họ hàng và người khác họ đã giúp chúng tôi rất nhiều, kể cả làm sao để sống lẫn làm cho hết những công việc của một gia đình chỉ có bà goá và những đứa trẻ như nhà tôi. Mẹ tôi đã hơn một lần nói rằng nếu không có bà con dân làng, không biết chúng tôi sẽ ra sao.

.
Làng tôi nghèo, hồi cải cách ruộng đất chỉ có hai nhà địa chủ- nghĩa là mỗi nhà ấy chỉ có cái sân gạch, vài gian nhà tre với dăm mẫu ruộng. Cũng có cây mít, ao cá đấy nhưng chưa bao giờ tôi thấy những nhà đó là giàu có cả. Nếu so với bây giờ thì người làng tôi thành địa chủ gần hết làng rồi. Họ chỉ thua địa chủ kia mỗi khoản ruộng thôi chứ thóc và tiền, chắc địa chủ xưa không sánh được.

Suốt những năm tuổi thơ cho đến khi rời làng đi học, tôi thấy không khí làng xóm quê tôi đầm ấm lắm. Cả làng chỉ có dăm sáu họ nhưng dù khác họ, cũng vẫn là bà con cả, không họ nội thì họ ngoại, hoặc là thông gia. Thành ra, khi mỗi nhà có việc gì là cả làng cùng đến giúp. Không kể chuyện vui hay chuyện buồn lớn như nhà nào chẳng may có cha già, mẹ héo, hay con cái lớn phải dựng vợ, gả chồng, dựng nhà, dựng cửa... là cả làng đến mỗi người một chân một tay hỗ trợ. Người mang cho mấy nón chè tươi, người giúp dăm bơ gạo...nói tóm lại, lúc nào không khí trong làng cũng vui. Tôi để ý suốt bao nhiêu năm, tôi không thấy có đám đánh nhau giữa những người lớn bao giờ, chỉ có trẻ con đánh nhau nhưng bất cứ người lớn nào trông thấy cũng can ra, phân giải phải trái đàng hoàng. Làng tôi an bình và hoà thuận dù nghèo. Chả thế mà tôi vẫn cứ đùa làng ta nghèo nhất xã, xã ta nghèo nhất huyện, huyện ra nghèo nhất tỉnh, tỉnh ta nghèo nhất miền Bắc. Nhưng làng tôi vui, đầm ấm. Mọi người dựa vào nhau, quan tâm đến nhau vừa như cái lẽ phải thông thường phải thế. Và nhường nhịn khi có sự bất hoà. Những ngày Tết nhất, tiếng cười nói, chào hỏi nhau, vui lắm. Nhìn rộng ra xã tôi, vùng tôi ở không khí cũng na ná như nhau cả. Cái thủa yên bình ấy, cứ nhạt dần và đến bây giờ thì tôi không còn thấy nữa. Quê tôi giàu lên nhưng những mất mát thì không gì bù đắp được, nhất là những nhạt nhoà về tình người và người ta trở nên thờ ơ với nhau hơn xưa. Bây giờ, khi nhà nào có việc, dân làng vẫn đến nhưng đó là theo những quy định đã thành văn, nó như nghĩa vụ bắt buộc và tôi đọc thấy trong tâm trạng mọi người là điều này đã như " khế ước xã hội", không làm không được chứ trong lòng không có cái tình cảm tự nhiện, nhi nhiên như xưa. Và nếu một nhà nào đó không " đạt chuẩn" thì sẽ có sự bàn tán, bình phẩm theo kiểu sòng phẳng chứ không phải là những lo lắng cho nhau, đầy sự sẻ chia như xưa nữa.

Khi bước vào đổi mới, quê tôi có nhiều người đi các tỉnh phía Nam làm ăn và cũng có những người được nhà nước ưu tiên cho đi xuất khẩu lao động. Ở đâu đó người ta xuất khẩu cán bộ kỹ thuật nhưng quê tôi lạc hậu, nghèo, toàn xuất khẩu lao động giản đơn hoặc phụ nữ đi làm oshin thôi. Thôi thì cái số mình nó thế, đói bụng, đầu gối phải bò. Làm gì có lựa chọn khác. Bỏ chồng, bỏ con ở nhà, dấn thân vào cuộc sống mới cũng chả sung sướng gì đâu. Tôi cứ nhớ mãi một câu thơ của ông nhà thơ Nguyễn Duy, viết về cảnh ngộ chia tay của những cảnh ngộ như thế mà ứa nước mắt: " những cuộc chia ly toe toét cười". Ai cũng cười gượng cả. Chỉ để cho yên lòng nhau nên phải cố. Mà cố thì giả dối nên nụ cười ngày chia ly còn đau hơn những giọt nước mắt.

Tôi về quê, nghe kể chuyện ở mấy xã gần làng tôi có một chị đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho chồng con, khá lắm, chị khác xây được cả nhà cho chồng không kém gì biệt thự ở thành phố. Người nhà tôi hỏi có quen ai không xin cho người này, người kia một suất. Tôi chỉ lắc đầu. Vì mình không quen đã đành, mà nếu có quen tôi cũng không làm. Tôi không biết ở những nơi họ đi làm thuê ấy thế nào chứ Nga, Hàn, Nhật tôi cũng đã từng qua, đã biết ít nhiều. Không có gì đảm bảo cho một tương lai " bền vững" cả.

Và, những điều lo ngại của tôi đã xảy ra. Tôi nghe kể có chị sau vài năm gửi tiền về cho chồng con rồi tìm bến đỗ mới với những người khác, theo kiểu " thế là mợ nó đi tây" của Nguyễn Công Hoan. Có người bị cái thằng " hoàn cảnh" nó xô đẩy nên tiếng tăm đồn về nhà. Anh chồng nổi giận ném tất cả đồ đạc của vợ gửi về ra sân châm lửa đốt sạch và tuyên bố " không sống bằng tiền bán cái l.của vợ". Anh bắt chị phải bỏ dở hợp đồng, về nhưng chị không chịu, lại còn gia hạn nữa. Thế là anh chán nản, sa vào rượu chè, bỏ bê con cái. Con cái không có người chăm bỏ bê học hành, rồi thành lêu lổng. Có chị khổ hơn, tiền gửi về, chồng đem đi ăn chơi với bồ hết, ngày vợ về, chuyện vỡ lở, lại chia tay và tay trắng lại hoàn tay trắng nhưng nỗi khổ thì không biết bao nhiêu mà kể. Hơn chục người đi như vậy, chỉ có vài ba nhà không xảy ra chuyện to thôi chứ chuyện nhỏ nghe nói đều có cả.

Ông anh họ tôi, ba đứa con nhưng lớn lên, chúng nó bồng bế nhau đi làm ăn xa cả. Nhà chỉ còn hai vợ chồng già lọ mọ trong cái nhà to đùng ( trước làm cho chúng nó ở, giờ càng vắng tợn). Rồi anh ốm, chị chăm. Ruộng nương cho người ta thuê rồi mình lại đi đong thóc ngoài chợ. Có lúc cả hai cùng ốm. Ai dậy được thì cơm cháo phục vụ người kia. Có hôm cả hai ốm quá, đến bữa đành hỏi nhau bà có dậy được không rồi nhìn nhau ứa nước mắt. Anh cười buồn, bảo tôi: " Nhà tôi còn đỡ đấy chú ạ. Chỉ có hai ông bà. Chứ có nhà, chúng nó quẳng con cái cho, không trông không được. Mà giờ nhiều khi trông không nổi, có chuyện gì xảy ra, lại khổ cả chùm". Xa hơn chút nữa, có đứa cháu, vợ con, nhà cửa đề huề, đi làm ăn xa. Rồi về bỏ vợ chả vì lý do gì ngoài chuyện, đi biền biệt, có bồ, rồi lỡ ra, có con, đành vứt bỏ vợ con, nhà cửa để đèo bòng. Nhà giờ đóng cửa để đấy, cứ như nhà hoang. Vợ con dắt díu nhau về ở với ông bà ngoại vì một mình mẹ nó cũng không nuôi nổi ba đứa đang tuổi lớn. Ông anh tôi bảo: " Đi cũng chết mà không đi cũng chết chú ạ. Ở nhà thì vài sào ruộng, làm chả đủ ăn. Mà đi thì cứ như đánh bạc ấy. Thôi thì đời cua cua máy, đời cáy cáy đào. Đánh liều với giời vậy thôi. Giá chịu khó ăn tiêu ít đi thì còn đỡ. Đằng này, người ta thế, mình cũng không khác được. Chả biết bao giờ mới hết cảnh này."

Sắp Tết rồi, tôi lại chuẩn bị về quê chạp họ. Mọi năm, cứ độ rằm tháng Chạp, lũ cháu đi làm ăn xa cũng đến lúc phải lo về với bố mẹ chúng, chăm sóc mồ mả ông bà, tổ tiên, để sum họp. Nhưng, năm nào cũng vắng khoảng 1/3. Chả biết năm nay vắng bao nhiêu? Mà ngay mình đây, cũng chả biết còn về được bao nhiêu lần nữa? Không về, không được. Nhưng, về lại chứng kiến những nỗi buồn như thế, lại đâm nghĩ ngợi. 

19.12.2015
P.Q.L

1 nhận xét :

  1. Đọc các bài tùy bút của Trần Đăng Khoa, Phạm Quang Long tôi có nhận xét là không ai vận dụng, liên hệ thưc tế đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh vào bài viết của mình. Hỏng, hỏng to ! Các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng bây giờ buông súng hết rồi ư ?

    Trả lờiXóa