Báo chí và người làm báo
trong một chế độ độc tài toàn trị
Song Chi
21-06-2015
Song Chi
21-06-2015
Nữ ký giả Song Chi (RFA) |
Đặc điểm của báo chí trong một chế độ độc tài: không đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc lên trên mà phải đặt quyền lợi của chế độ đang cai trị đất nước trên tất cả, “ông chủ” của những nền báo chí ấy không phải là nhân dân, bởi vì nó không phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân, nhất là những con người bé nhỏ không thể cất tiếng nói trong xã hội như tầng lớp lao động, những người nghèo, bất hạnh, phận con sâu cái kiến… mà phục vụ trước hết là giai cấp cầm quyền, sau đó là những kẻ có tiền.
Báo chí ở VN dưới chế độc tài toàn trị do đảng cộng sản nắm quyền suốt bảy thập kỷ qua, là một nền báo chí như vậy. Nó phải phục vụ cho sự tồn tại của chế độ, của đảng cộng sản, chịu sự kiểm duyệt, cầm tay chỉ việc của Ban Văn hóa Tư tưởng, Ban Tuyên giáo Trung ương…
Ngay cả bây giờ, ở thời điểm năm 2015, so sánh với báo chí của chế độ VNCH đã bị “bức tử” từ 40 năm trước, báo chí của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN vẫn thua xa hàng dặm về mức độ tự do, dân chủ.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, báo chí “cách mạng” VN nhìn chung đã thừa hưởng, tiếp thu được nhiều tố chất của nền báo chí ở miền Nam, nếu so với báo chí ở miền Bắc trước năm 1975 không chỉ sặc mùi tuyên truyền đậm đặc mà còn khô cứng, nghèo nàn, đơn điệu, quê mùa từ phần trình bày, kỹ thuật in ấn, phông chữ, cung cách đưa tin, viết bài. Báo chí sau 1975 hiện đại hơn từ kỹ thuật, cho đến cung cách làm báo.
Sau khi ‘đổi mới” và đời sống kinh tế có khá lên thì báo chi càng “khởi sắc” hơn với đủ loại báo ngày, tập san, nguyệt san, tạp chí, báo ảnh… đẹp đẽ bắt mắt về hình thức, và “tự do” hơn trong việc khai thác những khía cạnh đời thường của các nghệ sĩ, những người nổi tiếng, những khía cạnh vật chất của cuộc sống-một điều hoàn toàn không hề có so với báo chí miền Bắc trước năm 1975.
Nhưng sự thay đổi bề ngoài ấy không hề thay đổi cái bản chất, cái mục đích chính của báo chí trong chế độ cộng sản. Đó là phải tuyên truyền, bảo vệ chế độ, có tính định hướng rõ ràng, phải là “vũ khí” của đảng.
Chỉ có điều, báo chí bây giờ lại có thêm một khía cạnh tệ hại thứ hai là xu hướng “lá cải hóa” tràn lan, nhất là những tờ báo mạng, tập san, tạp chí, báo ảnh, phụ trương…Hoặc khai thác tỉ mỉ những yếu tố giật gân trong những vụ án cướp giết hiếp xảy ra hàng ngày trong xã hội và cả trên thế giới, hoặc chạy theo khai thác đời tư những người nổi tiếng, giới showbiz…
Hãy thử lướt qua hàng chục, hàng trăm tờ báo mạng, hoặc cầm trên tay hàng chục những tờ phụ trương, tạp chí bắt mắt bày đầy trên các sạp báo, chúng ta sẽ thực sự lo ngại, thậm chí rùng mình vì kinh hãi. Vì sao người ta có thể vô lương tâm, vô trách nhiệm đến thế khi cho ra đời những bài báo, tờ báo như vậy, và mức độ ‘lá cải’ này chỉ có tăng lên trong những năm qua chứ không hề có dấu hiệu giảm sút, mặc cho dư luận nhiều lần lên tiếng bất bình, phẫn nộ, mặc cho nhiều cuộc hội thảo của người trong nghề về tình trạng này.
Là một người cũng từng nhiều năm làm báo trong môi trường VN trước khi rời nước ra đi và bây giờ vẫn tiếp tục viết lách với tư cách một người viết tự do, tôi không lạ gì bầu không khí làm báo ở VN, những giới hạn “đèn vàng” mà người làm báo không thể vượt qua, sức ép đối với những người làm báo chân chính khi muốn viết lên sự thật, và một sức ép khác là phải bảo đảm yêu cầu có người đọc.
Trừ những tờ báo đảng như Nhân Dân, Quân đội nhân dân…báo chí VN nói chung cũng phải tự cân đối, tự thu tự chi bằng nguồn bán báo và nguồn thu từ quảng cáo, nhất là những tờ báo online chỉ sống hoàn toàn bằng quảng cáo, nên phải tính đến yếu tố “câu khách”. Từ sự thúc bách phải có người đọc, nhiều tờ báo đã chạy theo khai thác tối đa những đề tài giật gân như vừa nói trên.
Các nước tự do dân chủ cũng có báo “lá cải”, kể cả báo khiêu dâm. Nhưng ở các nước ấy có những quy định rất chặt chẽ về đạo đức nghề báo, có luật pháp rõ ràng, và nếu nhà báo vượt quá giới hạn hoặc viết ẩu, viết bậy thì cá nhân hoặc tập đoàn nào là “nạn nhân” sẽ kiện ra tòa và không chỉ phóng viên mà cả ban biên tập, chủ bút, cả tờ báo đó cũng bị phạt một cách xứng đáng. Còn ở VN, nếu một cá nhân hay một công ty nào bị một phóng viên vì lý do nào đó viết ẩu, viết sai, thậm chí vu khống, bôi nhọ, lắm khi cũng chẳng muốn kiện vì có kiện cũng chưa chắc đã được gì, mà chỉ mất thì giờ, mệt mỏi thêm. Với tâm lý ấy người ta thường đành là cho qua, và các nhà báo vô lương tâm hoặc yếu kém về tay nghề cứ vậy mà tồn tại, tiếp tục viết bậy!
Từ khi internet phát triển, rồi blog, các trang mạng xã hội và những tờ báo ngoài luồng, những tờ “dân báo” ra đời, chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của dòng báo chí ngoài luồng và các trang mạng xã hội này đối với một bộ phận người dân và ngay cả đối với báo chí “chính thống” ra sao. Nhiều người đã được “mở mắt” thức tỉnh từ khi đọc báo bên ngoài, biết được những sự thật về lịch sử, về xã hội, về chế độ mà đảng và nhà nước cố tình bưng bít, bóp méo bao lâu nay. Con số người bỏ không đọc, không tin vào báo đảng, ngược lại theo dõi thường xuyên các tờ báo bên ngoài, các trang mạng xã hội ngày càng nhiều. Ngay báo chí “chính thống” của nhà nước cũng bị tác động bởi báo ngoài luồng.
Bất cứ một thông tin dối trá, một bài viết tuyên truyền sặc mùi tuyên giáo, một hành động phản cảm hay một lời phát biểu dốt nát, ngu xuẩn của một ông quan bà nghị nào đó, những chi tiết sai sót, phi lý của một vụ án oan hay một vụ án có tính chất chính trị, một điều luật, chính sách ngớ ngẩn mới được thông qua…tất cả đều nhanh chóng bị đưa ra mổ xẻ trên các tờ “dân báo”, các trang mạng xã hội. Không chỉ một hai lần, báo chí “chính thống” phải điều chỉnh hoặc âm thầm gỡ bài khi bị báo ngoài luồng “bóc mẽ” những sự dối trá, sai sự thật.
Không ít nhà báo đang ăn lương ở một tờ báo nào đó vẫn theo dõi báo bên ngoài và nhiều khi lấy tin từ các báo, blog bên ngoài hoặc lặng lẽ thay đổi quan điểm trong một bài viết của mình. Còn các quan to quan nhỏ trong bộ máy nhà nước VN, không rõ họ có bao giờ dám đọc báo ngoài luồng không, nhưng có một điều chắc chắn là họ hiểu được “tác động” của dòng báo chí đó dối với chế độ và họ lo ngại. Ngược lại, con số blogger, nhà báo tự do bị xách nhiễu, bị hành hung, bị tống giam vào tù với những bản án cực kỳ khắc nghiệt vì những bài blog, bài báo của mình ngày càng nhiều, đã đưa VN vào trong danh sách những quốc gia bỏ tù nhà báo nhiều nhất, là kẻ thù của internet. Những blogger, nhà báo tự do ấy đã phải trả một cái giá không hề rẻ cho việc viết lên sự thật, với khao khát cung cấp những thông tin đa chiều cho người dân VN.
Họ là những anh hùng. Còn những nhà báo anh hùng khác nữa, là những nhà báo vẫn đang làm việc cho một tờ báo của nhà nước, nhưng cố gắng không trở thành bồi bút hoặc không góp phần “ xả rác” vào xã hội bởi những tin bài của mình.
Tôi vô cùng khâm phục những nhà báo tử tế, chân chính còn sót lại giữa làng báo thiếu vắng tự do dân chủ và tràn ngập những cướp, giết, hiếp, mông đùi hở hang…như ở VN.
Những nhà báo ấy đã phải xoay sở tìm cách “lách” sao cho thông tin thuộc loại “nhạy cảm” về mặt chính trị xã hội có thể đến được với người đọc, hoặc ít nhất, viết cách nào đó để người đọc có thể đọc và hiểu giữa hai hàng chữ những gì người viết thực sự muốn nói. Họ đã phài tận dụng những cơ hội hiếm hoi khi báo chí được “thả lỏng” giây lát. Ví dụ như trong mối quan hệ phức tạp và bất tương xứng giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung, đôi khi quan hệ giữa hai bên trở nên xấu đi và nhà cầm quyền VN cảm thấy cần phải để báo chí “xả” một chút, hoặc để báo chí chuyển tải thông điệp về tình trạng xấu đi đó đến nhà cầm quyền Trung Quốc. Báo chí được dịp đưa những thông tin như tàu Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí VN, tàu TQ rượt đuổi, cướp bóc, đánh chìm tàu cá của ngư dân Việt, hay Trung Quốc đang cấp tập xây cất, biến các bãi đá ngầm trên biển Đông thành những hòn đảo nhân tạo và những căn cứ quân sự nguy hiểm trong tương lai như thế nào…
Những lúc ấy báo chí khởi sắc hẳn lên, nhiều bài báo mạnh mẽ lên án Trung Quốc, các nhà báo lúc ấy đang thực sự đứng về phía người dân VN, nói lên tâm trang uất ức, phẫn nộ, tình cảm thật sự của người dân VN đối với nhà cầm quyền Trung Quốc và những chinh sách bành trướng, xâm lược, mưu mô thâm độc của họ.
Tất nhiên, những lúc mở xả như vậy rất hiếm hoi và có thể lại đóng lại bất cứ lúc nào nếu nhà cầm quyền cảm thấy có thể làm cho Bắc Kinh tức giận hoặc nếu những người lãnh đạo Trung Nam Hải lại tìm được cách nào đó vừa xoa dịu vừa khống chế đám lãnh đạo cao cấp nhất của VN.
Làm báo ở VN khốn nạn như vậy đấy.
Bên cạnh đó là rất nhiều người cũng mang danh nhà báo nhưng không hề mảy may động lòng trước hiện trạng đất nước, dân tộc cũng như viễn cảnh không mấy sáng sủa của VN trước tham vọng ngày càng rõ và quyết tâm ngày càng sắt đá của Bắc Kinh. Những dạng ấy nhiều lắm. Hoặc tiếp tục bưng bô nịnh bợ chế độ, tuyên truyền những điều dối trá về đảng và nhà nước cộng sản, về lịch sử, hiện tại và cả tương lai, điên cuồng chống lại con đường tốt đẹp hơn cho VN là thoát khỏi chế độ độc tài độc đảng lạc hậu và gây hại cho đất nước cho dân tộc như lâu nay. Hoặc chỉ chăm chăm khai thác những đề tài “cướp, giết, hiếp”, mông đùi, đời tư người nổi tiếng, cổ vũ cho lối sống chạy theo bản năng của con người, chạy theo vật chất, nhà lầu, xe hơi, thời trang hàng hiệu khi suốt ngày viết “thiếu gia” này mới tậu con xe tiền tỷ, diễn viên kia sắm nhà lộng lẫy, người mẫu nọ có bồ là đại gia tiêu tiền như nước, hoa hậu kia khoác lên người bộ cánh hàng chục ngàn USD, đeo chiếc nhẫn kim cương “khủng”…
Không ai hồ nghi gì về sức mạnh của báo chí. Sức mạnh ấy nếu được đặt vào những nhà báo chân chính có tài có đức, trong một môi trường báo chí tự do dân chủ, có thể tạo ra những thay đổi biến chuyển theo chiều hướng tích cực cho xã hội, cho đất nước. Và ngược lại. Trong một xã hội độc tài và tôn thờ đồng tiền như VN hiện nay, báo chí không thể làm tốt được chức năng tôn trọng sự thật, phục vụ lợi ích của đất nước, nhân dân, ngược lại ngày càng biến tướng và tệ hại.
Nhiều người làm báo không lương tâm khi đưa ra một vụ án chưa thực sự khởi tố, người bị tình nghi vẫn chưa bị kết tội đã thay mặt tòa kết án người ta, giết chết người ta về mặt uy tín xã hội. Có những bài báo khi viết về những vụ án hiếp dâm, đã không thèm che mặt nạn nhân hoặc có làm mờ và ghi tắt tên nhưng lại đưa những thông tin về trường học, cơ quan hoặc đưa hình ảnh nhà cửa khiến những người nào biết nạn nhân có thể dễ dảng đoán ra. Nhất là những vụ án mà nạn nhân hay người phạm tội là trẻ vị thành niên, cuộc đời vẫn còn dài trước mắt, sẽ sống ra sao sau khi vụ án đi qua.
Có những bài báo khai thác nhiều kỳ một vụ án giết người không chỉ từ lúc kẻ thủ phạm ra tay thủ ác mà cả quãng đời trước đó và sau đó trong trại giam, thông tin về cha mẹ người yêu hay vợ, chồng được đưa tuốt lên mặt báo. Hay vụ những người mẫu bán dâm, báo chí khai thác tối đa, phỏng vấn cả chồng, mẹ chồng tương lai của một người mẫu trong số đó, cuộc đời người mẫu này coi như không còn có cửa làm lại, cho dù sau khi mãn hạn tù. Và vô số những ví dụ về những cách đưa tin bài thiếu lương tâm như vậy mà chúng ta có thể bắt gặp tràn ngập trên báo chí VN.
Chưa nói đến khía cạnh lớn hơn là dối trá, bóp méo sự thật. Biết bao nhiêu sự dối trá trong suốt chiều dài nắm quyền của đảng cộng sản mà nhờ có internet, báo chí bên ngoài, người dân VN mới biết được, nhưng vẫn còn rất nhiều thông tin nằm trong bóng tối chưa bị lộ ra.
Một môi trường làm báo thiếu vắng tự do, đầy nghịch lý, những kẻ bồi bút bưng bô chế độ thì leo cao, hưởng mọi vinh quang phú quý, những người viết sự thật thì bị xách nhiễu, buộc thôi việc, hoặc bị tù; những kẻ viết tin bài vớ vẩn lá cải thì sống khỏe còn những nhà báo chân chính thì đau khổ vì không thể viết được theo đúng lương tâm mình.
Trong một môi trường như vậy, những người làm báo chỉ còn lại sự đối diện với chính mình. Rằng trước khi đặt bút viết bất cứ cái gì, tự hỏi mình bài viết ấy sẽ phục vụ cho ai, cho đất nước, nhân dân hay cho nhà cầm quyền, có lợi cho đất nước hay có hại; đối với những bài viết có liên quan đến số phận con người cụ thể, thì cuộc sống của họ sẽ ra sao sau khi bài báo được đưa ra. Nếu làm được như thế tin rằng những bài viết dối trá, bóp méo sự thật lịch sử, nhằm nịnh bợ chế độ và làm ngu dân, hay những bài viết dễ dãi khai thác phần bản năng của con người, sẽ có thể bớt đi.
Mọi vinh hoa phú quý, danh hiệu nhận được từ chế độ chả có nghĩa lý gì. Sự phán xét lâu dài của lịch sử, của nhân dân mới là sự phán xét mà không một ai có thể tránh được.
.
Báo chí ở VN dưới chế độc tài toàn trị do đảng cộng sản nắm quyền suốt bảy thập kỷ qua, là một nền báo chí như vậy. Nó phải phục vụ cho sự tồn tại của chế độ, của đảng cộng sản, chịu sự kiểm duyệt, cầm tay chỉ việc của Ban Văn hóa Tư tưởng, Ban Tuyên giáo Trung ương…
Ngay cả bây giờ, ở thời điểm năm 2015, so sánh với báo chí của chế độ VNCH đã bị “bức tử” từ 40 năm trước, báo chí của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN vẫn thua xa hàng dặm về mức độ tự do, dân chủ.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, báo chí “cách mạng” VN nhìn chung đã thừa hưởng, tiếp thu được nhiều tố chất của nền báo chí ở miền Nam, nếu so với báo chí ở miền Bắc trước năm 1975 không chỉ sặc mùi tuyên truyền đậm đặc mà còn khô cứng, nghèo nàn, đơn điệu, quê mùa từ phần trình bày, kỹ thuật in ấn, phông chữ, cung cách đưa tin, viết bài. Báo chí sau 1975 hiện đại hơn từ kỹ thuật, cho đến cung cách làm báo.
Sau khi ‘đổi mới” và đời sống kinh tế có khá lên thì báo chi càng “khởi sắc” hơn với đủ loại báo ngày, tập san, nguyệt san, tạp chí, báo ảnh… đẹp đẽ bắt mắt về hình thức, và “tự do” hơn trong việc khai thác những khía cạnh đời thường của các nghệ sĩ, những người nổi tiếng, những khía cạnh vật chất của cuộc sống-một điều hoàn toàn không hề có so với báo chí miền Bắc trước năm 1975.
Nhưng sự thay đổi bề ngoài ấy không hề thay đổi cái bản chất, cái mục đích chính của báo chí trong chế độ cộng sản. Đó là phải tuyên truyền, bảo vệ chế độ, có tính định hướng rõ ràng, phải là “vũ khí” của đảng.
Chỉ có điều, báo chí bây giờ lại có thêm một khía cạnh tệ hại thứ hai là xu hướng “lá cải hóa” tràn lan, nhất là những tờ báo mạng, tập san, tạp chí, báo ảnh, phụ trương…Hoặc khai thác tỉ mỉ những yếu tố giật gân trong những vụ án cướp giết hiếp xảy ra hàng ngày trong xã hội và cả trên thế giới, hoặc chạy theo khai thác đời tư những người nổi tiếng, giới showbiz…
Hãy thử lướt qua hàng chục, hàng trăm tờ báo mạng, hoặc cầm trên tay hàng chục những tờ phụ trương, tạp chí bắt mắt bày đầy trên các sạp báo, chúng ta sẽ thực sự lo ngại, thậm chí rùng mình vì kinh hãi. Vì sao người ta có thể vô lương tâm, vô trách nhiệm đến thế khi cho ra đời những bài báo, tờ báo như vậy, và mức độ ‘lá cải’ này chỉ có tăng lên trong những năm qua chứ không hề có dấu hiệu giảm sút, mặc cho dư luận nhiều lần lên tiếng bất bình, phẫn nộ, mặc cho nhiều cuộc hội thảo của người trong nghề về tình trạng này.
Là một người cũng từng nhiều năm làm báo trong môi trường VN trước khi rời nước ra đi và bây giờ vẫn tiếp tục viết lách với tư cách một người viết tự do, tôi không lạ gì bầu không khí làm báo ở VN, những giới hạn “đèn vàng” mà người làm báo không thể vượt qua, sức ép đối với những người làm báo chân chính khi muốn viết lên sự thật, và một sức ép khác là phải bảo đảm yêu cầu có người đọc.
Trừ những tờ báo đảng như Nhân Dân, Quân đội nhân dân…báo chí VN nói chung cũng phải tự cân đối, tự thu tự chi bằng nguồn bán báo và nguồn thu từ quảng cáo, nhất là những tờ báo online chỉ sống hoàn toàn bằng quảng cáo, nên phải tính đến yếu tố “câu khách”. Từ sự thúc bách phải có người đọc, nhiều tờ báo đã chạy theo khai thác tối đa những đề tài giật gân như vừa nói trên.
Các nước tự do dân chủ cũng có báo “lá cải”, kể cả báo khiêu dâm. Nhưng ở các nước ấy có những quy định rất chặt chẽ về đạo đức nghề báo, có luật pháp rõ ràng, và nếu nhà báo vượt quá giới hạn hoặc viết ẩu, viết bậy thì cá nhân hoặc tập đoàn nào là “nạn nhân” sẽ kiện ra tòa và không chỉ phóng viên mà cả ban biên tập, chủ bút, cả tờ báo đó cũng bị phạt một cách xứng đáng. Còn ở VN, nếu một cá nhân hay một công ty nào bị một phóng viên vì lý do nào đó viết ẩu, viết sai, thậm chí vu khống, bôi nhọ, lắm khi cũng chẳng muốn kiện vì có kiện cũng chưa chắc đã được gì, mà chỉ mất thì giờ, mệt mỏi thêm. Với tâm lý ấy người ta thường đành là cho qua, và các nhà báo vô lương tâm hoặc yếu kém về tay nghề cứ vậy mà tồn tại, tiếp tục viết bậy!
Từ khi internet phát triển, rồi blog, các trang mạng xã hội và những tờ báo ngoài luồng, những tờ “dân báo” ra đời, chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của dòng báo chí ngoài luồng và các trang mạng xã hội này đối với một bộ phận người dân và ngay cả đối với báo chí “chính thống” ra sao. Nhiều người đã được “mở mắt” thức tỉnh từ khi đọc báo bên ngoài, biết được những sự thật về lịch sử, về xã hội, về chế độ mà đảng và nhà nước cố tình bưng bít, bóp méo bao lâu nay. Con số người bỏ không đọc, không tin vào báo đảng, ngược lại theo dõi thường xuyên các tờ báo bên ngoài, các trang mạng xã hội ngày càng nhiều. Ngay báo chí “chính thống” của nhà nước cũng bị tác động bởi báo ngoài luồng.
Bất cứ một thông tin dối trá, một bài viết tuyên truyền sặc mùi tuyên giáo, một hành động phản cảm hay một lời phát biểu dốt nát, ngu xuẩn của một ông quan bà nghị nào đó, những chi tiết sai sót, phi lý của một vụ án oan hay một vụ án có tính chất chính trị, một điều luật, chính sách ngớ ngẩn mới được thông qua…tất cả đều nhanh chóng bị đưa ra mổ xẻ trên các tờ “dân báo”, các trang mạng xã hội. Không chỉ một hai lần, báo chí “chính thống” phải điều chỉnh hoặc âm thầm gỡ bài khi bị báo ngoài luồng “bóc mẽ” những sự dối trá, sai sự thật.
Không ít nhà báo đang ăn lương ở một tờ báo nào đó vẫn theo dõi báo bên ngoài và nhiều khi lấy tin từ các báo, blog bên ngoài hoặc lặng lẽ thay đổi quan điểm trong một bài viết của mình. Còn các quan to quan nhỏ trong bộ máy nhà nước VN, không rõ họ có bao giờ dám đọc báo ngoài luồng không, nhưng có một điều chắc chắn là họ hiểu được “tác động” của dòng báo chí đó dối với chế độ và họ lo ngại. Ngược lại, con số blogger, nhà báo tự do bị xách nhiễu, bị hành hung, bị tống giam vào tù với những bản án cực kỳ khắc nghiệt vì những bài blog, bài báo của mình ngày càng nhiều, đã đưa VN vào trong danh sách những quốc gia bỏ tù nhà báo nhiều nhất, là kẻ thù của internet. Những blogger, nhà báo tự do ấy đã phải trả một cái giá không hề rẻ cho việc viết lên sự thật, với khao khát cung cấp những thông tin đa chiều cho người dân VN.
Họ là những anh hùng. Còn những nhà báo anh hùng khác nữa, là những nhà báo vẫn đang làm việc cho một tờ báo của nhà nước, nhưng cố gắng không trở thành bồi bút hoặc không góp phần “ xả rác” vào xã hội bởi những tin bài của mình.
Tôi vô cùng khâm phục những nhà báo tử tế, chân chính còn sót lại giữa làng báo thiếu vắng tự do dân chủ và tràn ngập những cướp, giết, hiếp, mông đùi hở hang…như ở VN.
Những nhà báo ấy đã phải xoay sở tìm cách “lách” sao cho thông tin thuộc loại “nhạy cảm” về mặt chính trị xã hội có thể đến được với người đọc, hoặc ít nhất, viết cách nào đó để người đọc có thể đọc và hiểu giữa hai hàng chữ những gì người viết thực sự muốn nói. Họ đã phài tận dụng những cơ hội hiếm hoi khi báo chí được “thả lỏng” giây lát. Ví dụ như trong mối quan hệ phức tạp và bất tương xứng giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung, đôi khi quan hệ giữa hai bên trở nên xấu đi và nhà cầm quyền VN cảm thấy cần phải để báo chí “xả” một chút, hoặc để báo chí chuyển tải thông điệp về tình trạng xấu đi đó đến nhà cầm quyền Trung Quốc. Báo chí được dịp đưa những thông tin như tàu Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí VN, tàu TQ rượt đuổi, cướp bóc, đánh chìm tàu cá của ngư dân Việt, hay Trung Quốc đang cấp tập xây cất, biến các bãi đá ngầm trên biển Đông thành những hòn đảo nhân tạo và những căn cứ quân sự nguy hiểm trong tương lai như thế nào…
Những lúc ấy báo chí khởi sắc hẳn lên, nhiều bài báo mạnh mẽ lên án Trung Quốc, các nhà báo lúc ấy đang thực sự đứng về phía người dân VN, nói lên tâm trang uất ức, phẫn nộ, tình cảm thật sự của người dân VN đối với nhà cầm quyền Trung Quốc và những chinh sách bành trướng, xâm lược, mưu mô thâm độc của họ.
Tất nhiên, những lúc mở xả như vậy rất hiếm hoi và có thể lại đóng lại bất cứ lúc nào nếu nhà cầm quyền cảm thấy có thể làm cho Bắc Kinh tức giận hoặc nếu những người lãnh đạo Trung Nam Hải lại tìm được cách nào đó vừa xoa dịu vừa khống chế đám lãnh đạo cao cấp nhất của VN.
Làm báo ở VN khốn nạn như vậy đấy.
Bên cạnh đó là rất nhiều người cũng mang danh nhà báo nhưng không hề mảy may động lòng trước hiện trạng đất nước, dân tộc cũng như viễn cảnh không mấy sáng sủa của VN trước tham vọng ngày càng rõ và quyết tâm ngày càng sắt đá của Bắc Kinh. Những dạng ấy nhiều lắm. Hoặc tiếp tục bưng bô nịnh bợ chế độ, tuyên truyền những điều dối trá về đảng và nhà nước cộng sản, về lịch sử, hiện tại và cả tương lai, điên cuồng chống lại con đường tốt đẹp hơn cho VN là thoát khỏi chế độ độc tài độc đảng lạc hậu và gây hại cho đất nước cho dân tộc như lâu nay. Hoặc chỉ chăm chăm khai thác những đề tài “cướp, giết, hiếp”, mông đùi, đời tư người nổi tiếng, cổ vũ cho lối sống chạy theo bản năng của con người, chạy theo vật chất, nhà lầu, xe hơi, thời trang hàng hiệu khi suốt ngày viết “thiếu gia” này mới tậu con xe tiền tỷ, diễn viên kia sắm nhà lộng lẫy, người mẫu nọ có bồ là đại gia tiêu tiền như nước, hoa hậu kia khoác lên người bộ cánh hàng chục ngàn USD, đeo chiếc nhẫn kim cương “khủng”…
Không ai hồ nghi gì về sức mạnh của báo chí. Sức mạnh ấy nếu được đặt vào những nhà báo chân chính có tài có đức, trong một môi trường báo chí tự do dân chủ, có thể tạo ra những thay đổi biến chuyển theo chiều hướng tích cực cho xã hội, cho đất nước. Và ngược lại. Trong một xã hội độc tài và tôn thờ đồng tiền như VN hiện nay, báo chí không thể làm tốt được chức năng tôn trọng sự thật, phục vụ lợi ích của đất nước, nhân dân, ngược lại ngày càng biến tướng và tệ hại.
Nhiều người làm báo không lương tâm khi đưa ra một vụ án chưa thực sự khởi tố, người bị tình nghi vẫn chưa bị kết tội đã thay mặt tòa kết án người ta, giết chết người ta về mặt uy tín xã hội. Có những bài báo khi viết về những vụ án hiếp dâm, đã không thèm che mặt nạn nhân hoặc có làm mờ và ghi tắt tên nhưng lại đưa những thông tin về trường học, cơ quan hoặc đưa hình ảnh nhà cửa khiến những người nào biết nạn nhân có thể dễ dảng đoán ra. Nhất là những vụ án mà nạn nhân hay người phạm tội là trẻ vị thành niên, cuộc đời vẫn còn dài trước mắt, sẽ sống ra sao sau khi vụ án đi qua.
Có những bài báo khai thác nhiều kỳ một vụ án giết người không chỉ từ lúc kẻ thủ phạm ra tay thủ ác mà cả quãng đời trước đó và sau đó trong trại giam, thông tin về cha mẹ người yêu hay vợ, chồng được đưa tuốt lên mặt báo. Hay vụ những người mẫu bán dâm, báo chí khai thác tối đa, phỏng vấn cả chồng, mẹ chồng tương lai của một người mẫu trong số đó, cuộc đời người mẫu này coi như không còn có cửa làm lại, cho dù sau khi mãn hạn tù. Và vô số những ví dụ về những cách đưa tin bài thiếu lương tâm như vậy mà chúng ta có thể bắt gặp tràn ngập trên báo chí VN.
Chưa nói đến khía cạnh lớn hơn là dối trá, bóp méo sự thật. Biết bao nhiêu sự dối trá trong suốt chiều dài nắm quyền của đảng cộng sản mà nhờ có internet, báo chí bên ngoài, người dân VN mới biết được, nhưng vẫn còn rất nhiều thông tin nằm trong bóng tối chưa bị lộ ra.
Một môi trường làm báo thiếu vắng tự do, đầy nghịch lý, những kẻ bồi bút bưng bô chế độ thì leo cao, hưởng mọi vinh quang phú quý, những người viết sự thật thì bị xách nhiễu, buộc thôi việc, hoặc bị tù; những kẻ viết tin bài vớ vẩn lá cải thì sống khỏe còn những nhà báo chân chính thì đau khổ vì không thể viết được theo đúng lương tâm mình.
Trong một môi trường như vậy, những người làm báo chỉ còn lại sự đối diện với chính mình. Rằng trước khi đặt bút viết bất cứ cái gì, tự hỏi mình bài viết ấy sẽ phục vụ cho ai, cho đất nước, nhân dân hay cho nhà cầm quyền, có lợi cho đất nước hay có hại; đối với những bài viết có liên quan đến số phận con người cụ thể, thì cuộc sống của họ sẽ ra sao sau khi bài báo được đưa ra. Nếu làm được như thế tin rằng những bài viết dối trá, bóp méo sự thật lịch sử, nhằm nịnh bợ chế độ và làm ngu dân, hay những bài viết dễ dãi khai thác phần bản năng của con người, sẽ có thể bớt đi.
Mọi vinh hoa phú quý, danh hiệu nhận được từ chế độ chả có nghĩa lý gì. Sự phán xét lâu dài của lịch sử, của nhân dân mới là sự phán xét mà không một ai có thể tránh được.
.
Tôi nhớ Gs Alan Phan trả lời cho câu hỏi : Tp HCM có hơn gi Hà Nội không ? Gs trả lời : Tp HCM rồi cũng giống Hà Nội vì người Hà nội vào sinh sống ở Tp HCM ngày càng nhiều !
Trả lờiXóaBáo chí ở Saigon rồi cũng giống báo chí ở Hà Nội . Nghe thật là buồn ! Cách nay không lâu tôi có việc ở Hà Nội ngay tại Ks 4 sao ở Giảng Võ mấy ngày. Theo thói quen ở Saigon , sáng đi uống cafe và kiếm 1 tờ báo để đọc . Kiếm mãi mới thấy một chị bán báo dạo ,tôi hỏi mua tờ Tuổi Trẻ . May quá chị còn một tờ . Cầm tờ báo lên thấy nó không giống ở Saigon, báo mỏng dính , không có những trang quảng cáo lại ít tin tức hơn .
Chiều hôm sau trong khi chờ đợi lên máy bay về Saigon ở SB Nội Bài, kiếm mấy tờ báo từ quầy của VietNam Airlines , chẳng có tờ nào của miền Nam. Khoảng 16g30 . có một người đưa một sấp báo Tuổi Trẻ từ Saigon ra, chỉ một lóang là hết. May quá, tôi chộp vội được một tờ , có người lấy tới 2,3 tờ ! Báo ở Saigon vẫn còn cái gì khác với báo ở Hà Nội !