Chấn hưng dân trí: Bàn về dân trí
Huỳnh Thục Vy
Từ
đầu thế kỷ trước, Phan Chu Trinh đã nói đến công cuộc “Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh” cho Việt Nam. Đến hôm nay và có thể là một
thời gian dài sau này, riêng chuyện dân trí chắc sẽ còn tốn nhiều thời
gian và giấy mực của chúng ta.
Không ít lần, bộ
máy tuyên truyền của nhà cầm quyền cộng sản rêu rao rằng: Việt Nam dân
trí chưa cao để có thể có dân chủ; vì vậy, Đảng và Nhà nước cộng sản cần
cai trị thêm, chờ khi nào dân trí đủ cao thì họ sẽ tự động thay đổi hệ
thống chính trị và dân chủ hóa.
Thời gian chờ
đợi này có thể là năm mươi năm hoặc một trăm năm? Đây chắc chắn không
phải chỉ là lời chống chế cho sự cầm quyền bất xứng, không chính đáng
và dai dẳng của Đảng cộng sản lên hơn chín chục triệu dân Việt Nam; mà
nó có thể còn là suy nghĩ chân thành và thiện chí của nhiều người có học
Việt Nam. Chưa có dân trí cao thì chưa thể có dân chủ?!
Và
với nền giáo dục ngăn cản tự do, sáng tạo và đang ngày càng lụn bại như
tại Việt Nam thì còn lâu trình độ tri thức của người dân Việt Nam mới
có thể sánh kịp các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí là Thái
Lan…Vậy thì Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ở đây, ngay trên đầu chúng ta
trong một vòng định mệnh luẩn quẩn: độc tài -> dân trí thấp, dân trí
thấp -> độc tài?!
Tất
nhiên, tri thức là điều kiện không thể thiếu để phát triển đất nước một
cách toàn diện và vững chắc. Chính tri thức cũng là yếu tố củng cố nền
dân chủ. Tri thức giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, am hiểu
luật pháp và có những phản ứng hữu hiệu cho các chính sách quốc gia
hoặc những thực hành chính trị của nhà cầm quyền. Tri thức và sự sáng
tạo cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự hòa nhập của quốc
gia vào cộng đồng quốc tế trong mọi lĩnh vực để người dân được sống ngày
một thịnh vượng và có uy tín trên trường quốc tế hơn. Không ai có thể
phủ nhận vai trò của trình độ tri thức đối với tiền đồ một quốc gia.
Nhưng chúng ta đang nói đến dân trí. Dân trí phải chăng đơn giản chỉ là trình độ tri thức của người dân, là chỉ số có thể đo lường được thông qua con số người có bằng cấp cao, tốt nghiệp những đại học danh tiếng? Chúng ta hãy cùng nhau dành thời gian để suy nghĩ về mệnh đề: “Dân thấp thấp thì chưa thể có Dân chủ”. Ấn Độ năm 1947 khi giành được độc lập, dân trí có cao hơn Việt Nam bây giờ không? Miến Điện hay Cambodia đã bắt đầu con đường dân chủ hóa có dân trí cao hơn Việt Nam không? Nếu các bạn lưỡng lự, thì chúng ta có thể cần nhiều thời gian hơn nữa trước khi đưa ra bất cứ khẳng định một cách khoa học nào về chuyện Dân trí - Dân chủ.
Theo
thiển ý của người viết bài này, dân trí không chết cứng trong cái nội
hàm “tri thức”. Dân trí là một tập hợp những điều kiện thuộc về não
trạng và văn hóa nhiều hơn là tri thức. Dân trí cao không phải là tỷ lệ
cao những người có học và có bằng cấp cao mà là các yếu tố thuộc về nhận
thức (chứ không phải tri thức) có thể chi phối hành động và phản ứng
của người dân trong mối quan hệ của họ với nhau và của họ với chính
quyền.
Ví dụ, những người có học hành nhiều
chưa chắc là những người có hành xử văn hóa. Trong cách dùng thông dụng
do những người cộng sản hiện nay áp đặt, người có bằng cấp cao thì được
gọi là người có trình độ văn hóa cao. Nhưng thực tế, những hành xử văn
hóa không phụ thuộc nhiều vào việc người ta có học nhiều hay không, mà
phụ thuộc vào nền tảng đạo đức từ môi trường gia đình - xã hội, những
quy tắc hành xử phổ biến trong xã hội và nhận thức của chính người đó về
các giá trị công bằng, bác ái, tự do và công lý; để rồi từ đó có nhận
thức đạo đức cơ bản và hành xử luân lý tương ứng.
Một
người đàn anh đáng kính của tôi từng chia sẻ: Dân trí là chỉ số để đo
(và luôn tỷ lệ nghịch với) mức độ thờ phụng quyền lực các loại. Người
dân thờ phượng quyền lực chính trị, trí thức thờ phượng một trí thức tên
tuổi khác… Người viết tạm thời đưa ra vài đặc điểm dưới dây mà tôi xem
như là biểu hiện của một nền dân trí cao:
-
Người dân và đặc biệt là giới trí thức không/ ít sợ hãi và tôn sùng
quyền lực, dù đó là quyền lực chính trị, kinh tế, học thuật hay tôn
giáo. Người dân không xem những người cầm quyền chính trị là những người
có vị thế ưu thắng tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Đối với họ, các vị
trí lãnh đạo quốc gia là có thể thay đổi được, dựa trên ý chí của chính
người dân; và các vấn đề to lớn của quốc gia không phải là sân chơi
riêng của những người ở “tầng lớp trên”.
- Giới
trí thức không/ ít khao khát quyền lực chính trị. Họ không xem việc nắm
quyền chính trị hoặc hưởng lợi nhờ quyền lực chính trị là mục tiêu hoặc
là biểu hiện thành công của sự nghiệp mình. Tất nhiên tham chính và lãnh
đạo quốc gia không phải là điều xấu nhưng đó không phải là cách duy
nhất khiến một người có được vinh quang, sự khen ngợi và công ích xứng
đáng. Trí thức đặt mình vào một vị thế còn quan trọng hơn, đó là giám
sát chính trị, đề nghị chính sách quốc gia và phục vụ người dân.
-
Người dân có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống
hằng ngày và các mối quan hệ với cộng đồng thông qua các hoạt động tự
lập và tự quản, không viện đến sự xử lý của chính quyền nếu chưa cần
thiết. Những sự phụ thuộc nhỏ lẻ vào chính quyền cho thấy ở họ tâm lý lệ
thuộc thực chất còn lớn hơn nhiều.
- Người dân
có xu hướng tôn trọng hạnh phúc và tự do của từng cá nhân con người; đề
cao tự do và phẩm giá con người với tư cách từng cá nhân cụ thể; dù trân
quý những hy sinh của cá nhân cho cộng đồng nhưng không coi sự hy sinh
của cá nhân cho tập thể là giá trị luân lý bắt buộc.
-
Người dân có xu hướng giải quyết vấn đề bằng phương pháp hòa bình và
tinh thần khoan dung, không đề cao vũ lực và không/ít bị kích động bởi
khuynh hướng bạo lực. Và họ có khả năng đề kháng tương đối đối với những
hô hào mị dân về chủ nghĩ dân tộc cực đoan.
-
Người dân có ý thức về lợi ích của sự hợp tác và có khả năng xây dựng
đồng thuận một cách lành mạnh và tuân thủ luật pháp để hợp tác với nhau
trong việc giải quyết các vấn đề cộng đồng và quốc gia. Nếu mệnh lệnh
tùy tiện và độc đoán là đặc trưng của những xã hội bán khai từ thời xa
xưa của nhân loại thì khả năng tạo đồng thuận và hợp tác là kỹ thuật đặc
biệt của những cộng đồng văn minh của thế giới hôm nay.
-
Người dân giữ được sự bình tĩnh tương đối, khả năng hành động tương hỗ
và sự thượng tôn luật pháp khi cộng đồng hoặc quốc gia lâm vào những
tình huống khẩn cấp như thiên tai, chiến tranh, tội phạm. Họ có khả năng
ứng phó một cách khoa học, lý tính trong những trượng hợp đó.
-
Người dân có khả năng tư duy và phán đoán độc lập, không/ ít tôn sùng
biểu tượng, không đeo bám cứng nhắc những giáo điều hay chủ thuyết nhất
định. Bởi theo logic tâm lý, khi người dân quá tôn sùng biểu tượng thì
trong tâm lý của họ không có điều gì khác hơn ngoài việc người ta cũng
muốn trở thành biểu tượng nếu có cơ hội. Tâm lý tôn sùng biểu tượng càng
mạnh thì sự hãnh tiến khi nắm được địa vị ưu thắng càng lớn. Đây cũng
có thể được xem là một khía cạnh của sự thờ phượng quyền lực.
Sau
khi xem xét xong những điều trên đây, chúng ta gần như có thể trả lời
được câu hỏi: Vì sao ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam đi du học
nước ngoài nhưng hầu như có rất ít người trong số những con người bằng
cấp đầy mình ấy có đủ can đảm để dấn thân cho dân chủ và đóng góp cho
cộng đồng xã hội.Những người kiến thức sâu rộng ấy cũng vô cùng sợ hãi
và thiếu trách nhiệm giống như bao người thất học khác, vì kiến thức
không giúp họ trở nên can đảm, bớt lệ thuộc quyền lực và sốt sắng nhận
lãnh trách nhiệm cộng đồng.
Bởi vậy nhiều con
cái các gia đình cán bộ cộng sản cấp địa phương cũng như cấp quốc gia du
học và trở về, nhưng cái họ đang và sẽ trở thành không phải là điều gì
khác hơn ngoài những “ông bà độc tài con”. Vấn đề là ở chỗ nhận thức về
chính trị - xã hội và kỹ thuật tổ chức cuộc sống chung trong một cộng
đồng văn minh chứ không phải là việc có nhiều bằng cấp hay không.
Như
tôi đã từng chia sẻ, giải thể một chế độ độc tài để bắt đầu con đường
dân chủ hóa tuy khó nhưng còn dễ hơn rất nhiều so với công cuộc xây dựng
dân chủ hậu độc tài. Và tri thức, khi đó sẽ đóng vài trò rất quan
trọng; nhưng nếu chúng ta không thể bắt đầu ngay bây giờ thì ngày mai
chẳng có gì xảy ra cả. Ngay chính trình độ tri thức của người dân cũng
ngày càng thoái hóa dưới chế độ độc tài chứ chưa nói là nó có cơ hội để
đóng góp xây dựng dân chủ hay không. Bởi vì chính dân chủ và sự tự do
hiến định trong một nền dân chủ xứng đáng cũng góp phần quyết định nâng
cao trình độ tri thức của người dân.
Trong một
buổi nói chuyện dành riêng cho Hội PNNQVN, ông Ngô Nhân Dụng đã chia sẻ:
Bạn không thể nói tôi không biết bơi vì vậy tôi không dám xuống nước.
Vì nếu bạn không xuống nước, bạn sẽ không bao giờ biết bơi cả. Và cũng
xin dùng lời hữu lý trên để kết thúc bài viết này trong tâm tình mong
muốn tiếp thu nhiều chia sẻ hữu ích hơn từ các bạn trẻ Việt Nam.
Buôn Hồ, 7/11/2014
H.T.V
HTV còn trẻ mà suy nghĩ sâu sắc lắm, viết nhiều bài rất hay, lập luận chặt chẽ. Cô sẽ là một ngôi sao sáng dẫn đường cho cuộc tranh đấu vì một nền dân chủ đích thực ở VN.
Trả lờiXóaYêu sách của Nhân dân An Nam (1919)
Trả lờiXóa1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận ;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Đưa ra những yêu sách trên đây, nhân dân An Nam trông cậy vào chính nghĩa thế giới của tất cả các cường quốc và đặc biệt tin vào lòng rộng lượng của nhân dân Pháp cao cả, tức là của những người đang nắm vận mệnh của nhân dân An Nam, của những người, do chỗ nước Pháp là một nước Cộng hoà, nên được coi là những người bảo hộ cho nhân dân An Nam. Khi nhân dân An Nam nhắc đến sự “bảo hộ” của nhân dân Pháp, thì không lấy thế làm hổ nhục chút nào mà trái lại còn lấy làm vinh dự: vì nhân dân An Nam biết rằng nhân dân Pháp đại biểu cho tự do và công lý, và không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của mình là tình bác ái toàn thế giới. Vì thế, nghe theo tiếng nói của những người bị áp bức, là nhân dân Pháp sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình đối với nước Pháp và đối với Nhân loại.
Thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam
NGUYỄN ÁI QUỐC
---
Không lẽ 95 năm trước đây dân trí nước ta hơn hẵn bây giờ sao nên Bác Hồ đòi thực dân Pháp các quyền trích trên.