Ảo tưởng về khẩu hiệu “vừa anh em vừa đồng chí”, 1950-1973
Đại học Nam California
Tác giả: Kosal Path
Người dịch: Huỳnh Phan
08-08-2014
Trích từ bài viết “The Sino-Vietnamese Dispute over Territorial Claims, 1974–1978: Vietnamese Nationalism and its Consequences“, International Journal of Asian Studies, 8, 2 (2011), pp. 189–220
Lịch sử tác động qua lại giữa TQ và Việt
Nam là một lịch sử lâu dài. Kí ức tập thể của người Việt về sự thống
trị của TQ trong hai thiên niên kỉ chứa đầy một kho chuyện kể về chủ
nghĩa anh hùng chống lại bá quyền TQ mà những người Việt yêu nước tận
dụng để vận động người dân chống lại sự xâm lược của TQ trong tương lai
[1]. Trong khi các nguồn năng lực chính của Việt Nam để đẩy lùi các cuộc
xâm lược liên tục của TQ, hoặc để làm cho việc TQ chiếm đóng Việt Nam
lung lay có thể là một ý thức về dân tộc anh hùng, đồng thời tồn tại
việc cạnh tranh có ý thức của các tổ chức chính trị và quân sự của TQ,
không những cho thấy cốt lõi trong việc chống lại mối đe dọa TQ mà còn
làm hài lòng các hoàng đế Trung Hoa vô cùng tự tin về tính ưu việt văn
hóa của chính họ.[2] Như William Duiker đã nhận xét một cách chính xác,
“Đối với người Việt Nam, thái độ của họ đối với TQ là một sự pha trộn
độc đáo giữa sự tôn trọng và tính ngỗ ngược, kết hợp việc chấp nhận thực
tế về sức mạnh và ảnh hưởng của TQ với việc bảo vệ bền bỉ nền độc lập
và tính khác biệt của Việt Nam.”[3] Chỗ mà lịch sử chính thức Việt
Nam nhấn mạnh áp đảo là việc cả nước kháng chiến chống ngoại xâm, hầu
như lúc nào cũng là TQ. Di sản lịch sử này vẫn còn là một lực lượng mạnh
mẽ ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Trung hiện tại.
Giai đoạn 1950-1965 chứng kiến sự hợp
tác chặt chẽ nhất giữa hai nước láng giềng này. Trong giai đoạn này, các
nhà lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) và Đảng Cộng sản TQ
(ĐCSTQ) vạch ra một khẩu hiệu chung về mối quan hệ thân mật Việt -Trung
“vừa đồng chí vừa anh em”.[4] Cả hai bên đều gạt bỏ điều tiêu cực của
quá khứ – đó là, lịch sử TQ xâm lược và chinh phục Việt Nam trong hai
thiên kỉ trước khi thực dân Pháp đến vào thế kỉ XIX. Thay vào đó, họ
nhấn mạnh rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như là một nhà nước cách mạng
mới của công nông vô sản TQ vốn đã từng đấu tranh không ngừng trong
nhiều thế kỉ chống lại sự đàn áp của phong kiến TQ và thực dân châu
Âu.[5]
Ví dụ, vào ngày 18 tháng 10 năm 1956,
báo Nhân Dân, tờ báo của ĐLĐVN, đưa ra một bài xã luận chào đón chuyến
thăm VNDCCH của Thủ tướng Chu Ân Lai bằng cách mở đầu với nhận xét sau: “Trong
mấy ngàn năm qua, nhân dân hai nước chúng ta đã chiến đấu chống lại bọn
thống trị phong kiến [muốn nói đến cả phong kiến TQ lẫn VN], và gần đây
nhất, chúng ta đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân [qua việc gợi
lại kí ức về quân “Cờ Đen” TQ vượt qua biên giới Trung-Việt để cùng với
dân Việt Nam ở miền Bắc chống quân đội Pháp].”[6] Sau đó, Chu Ân
Lai đáp lại bằng cách bày tỏ lòng tôn kính đến Hai Bà Trưng từng đứng
lên chống lại đế chế Trung Hoa vào năm 43, tố cáo chủ nghĩa nước lớn của
các triều đại Trung Hoa đối với Việt Nam trong quá khứ.[7]
Trên thực tế, khẩu hiệu “vừa đồng chí
vừa anh em” này được che phủ trong các toan tính chiến lược của cả hai
bên. Như Qiang Zhai nêu: “Liên minh Bắc Việt-TQ là một liên minh về sự
cần thiết lẫn nhau. Hà Nội thì muốn có viện trợ của TQ trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mĩ, đổi lại Bắc Kinh cũng cần sự ủng hộ của VNDCCH
cho các mục tiêu đối ngoại của mình.”[8] Đối với Hà Nội, trợ giúp kinh
tế và quân sự của TQ trong cuộc chiến chống người Pháp trở lại Đông
Dương là không thể thiếu vào lúc Liên Xô không quan tâm tới công cuộc
này của Việt Nam.[9] Tuy nhiên, Hà Nội vẫn duy trì mối quan hệ có hoạt
động với Moskva và bí mật bày tỏ mong muốn được Liên Xô viện trợ sau khi
Pháp rút lui vào năm 1955.[10] Đối với Bắc Kinh, Bắc Việt Nam, giống
như Bắc Triều Tiên, là một vùng đệm chiến lược để bảo vệ sườn phía nam
của TQ chống lại các mối đe dọa từ các nước phương Tây không thân thiện
và phục vụ cho việc định danh TQ như một nhà cổ vũ cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.[11]
Trong những năm đầu thập niên 1950,
ĐLĐVN đã bị cuốn hút bởi ảo tưởng rằng mối quan hệ “vừa đồng chí vừa anh
em” giữa hai đảng cộng sản sẽ mở ra một chương mới trong lịch sử của
một liên minh bình đẳng trong mối quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, dù cả
ĐCSTQ lẫn ĐLĐVN đều thấy cần phải vạch rõ một lịch sử chung mới cùng là
nạn nhân dưới ách thống trị của các triều đại TQ trong quá khứ và sự
nghiệp chung chống lại thực dân Pháp, nhưng liên quan tới bản chất của
liên minh mới hình thành họ lại khác biệt nhau trên cơ bản.
Trước công chúng, các nhà lãnh đạo TQ
không ngớt nhấn mạnh những lời lẽ về “bình đẳng và tôn trọng độc lập lẫn
nhau” như một nguyên tắc cốt lõi của mối quan hệ mới. Tuy nhiên, trên
thực tế thái độ của họ đối với Việt Nam giống như mối quan hệ
thầy-trò.[12] Trong kí ức các lãnh đạo Việt Nam, việc TQ phản bội cách
mạng Việt Nam có thể truy từ lời khuyên của Bắc Kinh trong Hội nghị
Genève 1954 mà đỉnh cao là việc chia cắt Việt Nam đến năm 1975.[13] Tuy
nhiên, sự bất bình đó đã không phát triển thành sự thù địch công khai vì
Việt Nam đặt ưu tiên cao nhất cho sự giúp đỡ của TQ trong việc giải
phóng Nam Việt Nam. Chỉ dấu cho việc này là khi phản ứng về chính sách
đồng hóa cưỡng bức của VNCH đối người Hoa vào năm 1955, Hà Nội đã đồng ý
miệng với nguyên tắc đồng hóa tự nguyện đối với cư dân người Hoa, vào
năm 1957, Bắc Việt Nam và TQ đã kí một thỏa thuận song phương, trong đó
Hà Nội cam kết không dùng đến biện pháp đồng hóa cưỡng bức cư dân người
Hoa theo cách VNCH đã thực hiện ở Nam Việt Nam.[14]
Đầu năm 1958, khi Hà Nội theo đuổi giai
đoạn mới “đấu tranh vũ trang” giải phóng miền Nam, họ cần thêm nhiều
viện trợ kinh tế và quân sự của TQ. Trong bối cảnh này, Bắc Kinh đã biến
cuộc khủng hoảng không có liên quan thành cơ hội để thực thi mối quan
tâm của họ về lãnh thổ ở biển Đông vào một thời điểm mà Hà Nội yếu kém
và phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ của TQ.
Cuối tháng 8 năm 1958, Mao liều lĩnh
quyết định pháo kích đảo Kim Môn, kích động cuộc khủng hoảng eo biển Đài
Loan lần thứ hai leo thang thành một cuộc thách thức quân sự với Hoa
Kì. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Bắc Kinh tuyên bố rằng lãnh thổ của TQ “bao
gồm đại lục Trung Hoa, các đảo ven bờ, Đài Loan và các đảo phụ cận, gồm
cả quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa (Pratas), quần đảo Tây Sa (Hoàng
Sa), quần đảo Trung Sa (Maclesfield Bank), quần đảo Nam Sa (Trường Sa)
và tất cả các đảo khác ngăn cách bởi các vùng biển công (quốc tế).”[15]
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Việt
Nam Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng TQ Chu Ân Lai “ghi nhận và
tán thành tuyên bố của Bắc Kinh ngày 4 tháng 9.”[16] Thật ra, lãnh đạo
VNDCCH không có quyền hợp pháp để nhường lại vùng lãnh thổ phía nam vĩ
tuyến thứ 17 cho TQ bởi vì nó là phần thuộc chủ quyền lãnh thổ của VNCH.
Về sau, vào ngày 10 tháng 6 năm 1977, khi bị Phó Thủ tướng TQ Lí Tiên
Niệm vặn hỏi, Phạm Văn Đồng tìm cách hợp lí hoá lập trường trước đây của
[Bắc] Việt Nam bằng cách lập luận rằng đó là một “vấn đề cấp thiết thời chiến” để ủng hộ các yêu sách của TQ trong chiến tranh bởi vì sự cần thiết phải “đặt việc chống đế quốc Mĩ lên trên mọi thứ khác.”[17] Trong phản bác, Lí Tiên Niệm trả lời:” chiến
tranh không đang tiếp diễn tại Việt Nam vào ngày 14 tháng 9 năm 1958
khi thủ tướng Phạm Văn Đồng. . . thừa nhận trong công thư gửiThủ tướng
Chu Ân Lai rằng hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ TQ.“[18]
Cuối năm 1964 đến đầu năm 1965, trước
viễn cảnh một cuộc xâm lược của Mĩ ở Bắc Việt Nam, các nhà lãnh đạo của
Hà Nội quan ngại sâu sắc về thái độ do dự của Bắc Kinh đối với việc phải
tiến hành chiến tranh chống Mĩ để bảo vệ đất nước. Mặc dù Mao Trạch
Đông đã đề ra phương án đánh nhau với Mĩ kể từ mùa hè năm 1962, và cam
đoan với các nhà lãnh đạo Hà Nội về quyết tâm chung của TQ là bảo vệ Bắc
Việt Nam trong trường hợp bị Mĩ tấn công, Hà Nội vẫn nghi ngờ rằng Mao
đã cố né tránh đối đầu quân sự trực tiếp với Hoa Kì. Ngay cả sau khi
chính quyền Johnson quyết định phát động chiến dịch ném bom kéo dài Bắc
Việt Nam (gọi là Operation Rolling Thunder) vào tháng 2 và tháng 3 năm
1965 , Mao vẫn luôn khuyên phải cẩn trọng.[19]
Ngày 9 tháng 5 năm 1965, Hà Nội thực
hiện một sáng kiến khác qua việc tuyên bố rằng “quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc về TQ.”[20] Phạm Văn Đồng một lần nữa đưa ra sự cần
thiết và ưu tiên trong việc chống đế quốc Mĩ vì các quần đảo này vào
thời điểm đó nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Mĩ và Nam Việt Nam.[21]
Bây giờ nhìn lại sự việc này sẽ thấy rằng các nhà lãnh đạo Hà Nội đã
buộc phải thừa nhận công khai tuyên bố của Bắc Kinh vì cần phải tranh
thủ tất cả hậu thuẫn của TQ cho một công cuộc to lớn hơn là đấu tranh vũ
trang chống lại Nam Việt Nam được Hoa Kì ủng hộ, và do đó không thể nói
rõ ra những lợi ích đối nghịch với TQ. Trong chỗ tư riêng, họ rất căm
tức việc TQ lợi dụng cơ hội để quyết đoán về lãnh thổ vào thời điểm mà
Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào sự giúp đỡ của TQ.
Tuy nhiên, chính hiệu ứng lan tỏa của
Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông vào lúc cao điểm của nó trong các
năm 1966-1968 trên miền Bắc Việt Nam đã mang sự ngờ vực lẫn nhau được
che giấu sơ sài trong khoảng thời gian 15 năm hợp tác Trung-Việt chặt
chẽ ra công khai, và đã khiến Việt Nam lo ngại chủ nghĩa Sô vanh TQ lần
nữa.[22] Vào lúc cao điểm của Cách mạng Văn hóa, khẩu hiệu tình đoàn kết
Việt-Trung “vừa anh em vừa đồng chí” đã được đưa vào kiểm nghiệm trên
thực tế lần đầu tiên, và cho thấy rõ hơn rằng lợi ích chiến lược của cả
hai bên được che giấu sơ sài sau một tấm màn rất mỏng về tình đoàn kết
lịch sử và ý thức hệ. Như sử gia Chen Jian đã lột tả: “Cái mà Bắc
Kinh có ý định tạo ra là một phiên bản hiện đại của mối quan hệ giữa đế
chế Trung Hoa và các nước láng giềng chư hầu. Cách hành xử này nhắc nhở
rất hiệu quả cho người Việt Nam về quá khứ có vấn đề của họ với người TQ.
. . . “[23] Nhận xét của Chen Jian trùng hợp với quan điểm chính thức
của chính phủ Việt Nam vào thời điểm đó. Mãi về sau, vào ngày 10 tháng 6
năm 1977, một năm sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, Phạm Văn Đồng nói
với phó thủ tướng TQ Lí Tiên Niệm và các quan chức cấp cao khác của TQ
của Bộ Ngoại giao [TQ] rằng “trong nhiều năm, nhất là trong Cách
mạng Văn hóa, nhiều đồng chí TQ đã công khai đối xử thô lỗ với chúng
tôi. Họ gọi chúng tôi là ‘xét lại’ vì chúng tôi nhận viện trợ của Liên
Xô, và thậm chí còn gọi chúng tôi là ‘vô ơn’. Qua việc sử dụng loại ngôn
ngữ này, các đồng chí TQ đã nuôi dưỡng một thái độ không thân thiện đối
với chúng tôi. Thái độ như vậy có ở Hà Nội, Bắc Kinh, và nhiều nơi
khác. Thái độ như vậy làm chúng tôi rất đau lòng.”[24]
Vào lúc đỉnh cao của Cách mạng Văn hóa,
phe cực đoan theo Mao nắm quyền kiểm soát toà Đại sứ TQ tại Hà Nội. Họ
tập hợp cư dân người Hoa ở Bắc Việt Nam ủng hộ Cách mạng Văn hóa của Mao
Trạch Đông, đề cao tư tưởng cách mạng văn hóa về “đấu tranh giai cấp,”
chủ mưu tạo ra các chiến dịch chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô, và thậm
chí công khai tố cáo các nhà lãnh đạo Việt Nam là “xét lại” vì nhận sự
giúp đỡ của Liên Xô.[25] Cư dân người Hoa gây ra rối loạn qua việc tổ
chức các cuộc biểu tình chống chủ nghĩa xét lại Liên Xô và công khai
tiến hành các cuộc tuần hành ủng hộ chủ nghĩa Mao tại Hà Nội. Đối với
người Việt Nam, những cư dân người Hoa này là những “người Hoa phản
động.”[26] Như Han Xiaorong nhận xét, “Nếu người Hoa ở Bắc Việt Nam
đang trên đà trở thành công dân Việt Nam trước Cách mạng Văn hóa thì
Cách mạng Văn hóa đã làm xu hướng này bị đảo ngược.”[27] Điều đó
chứng tỏ cho lãnh đạo Việt Nam thấy rằng những cư dân gốc Hoa này vẫn
trung thành với “quê hương TQ” tận xương tuỷ.
Đáp ứng với sự lan tỏa của Cách mạng Văn
hóa, Hà Nội thấy cần phải viện lại khẩu hiệu quen thuộc “mối đe dọa xâm
lược từ phương Bắc” để nhắc nhở công chúng Việt Nam về chủ nghĩa Sô
vanh TQ, ngay cả khi họ nhận khoảng 320 000 “người tình nguyện” TQ do
Bắc Kinh phái đến giúp Bắc Việt chống Mĩ từ năm 1966 đến năm 1969.[28]
Đổi lại, điều này làm các nhà lãnh đạo Bắc Kinh hết sức khó chịu bởi vì
“việc VN sử dụng quá khứ để ngụ ý hiện tại” là phản bội tinh thần, và sẽ
làm suy yếu nền tảng cảm xúc của tình đoàn kết “vừa anh em vừa đồng
chí” Trung-Việt. Kể từ năm 1950, Bắc Kinh đã rõ ràng và liên tục lên án
việc xâm lược Việt Nam trong lịch sử. Năm 1956 và một lần nữa vào năm
1970, Thủ tướng Chu Ân Lai thậm chí đã đến viếng đền Hai Bà Trưng ở Hà
Nội để tỏ lòng lòng tôn kính đối với hai bà xưa kia đã đứng lên chống
lại phong kiến TQ xâm lược Việt Nam.[29]
* * *
Tóm lại, một sự khảo sát kĩ lưỡng mối
quan hệ Trung-Việt trong thời kì hợp tác chặt chẽ 1950-1965, và vào thời
kì cao điểm của Cách mạng Văn hóa TQ 1966-1968, cho thấy sự đoàn kết
giữa TQ và Việt Nam là cách xa với mô tả màu hồng của cả hai bên về mối
quan hệ “vừa anh em vừa đồng chí”, nhưng nó vẫn phẳng lặng vượt qua mọi
bất ổn vì việc duy trì hình ảnh về hợp tác Trung-Việt sẽ phục vụ các lợi
ích chiến lược của cả hai bên và gìn giữ tình đoàn kết chống lại kẻ thù
chung. Ẩn bên dưới bề mặt của quan hệ “vừa anh em vừa đồng chí” là nỗi
căm giận mà Hà Nội nén lại trước việc Bắc Kinh sẵn sàng thay đổi đường
lối chính trị của họ mà không quan tâm gì đến lợi ích của Việt Nam và
nỗi lo sợ ngày càng tăng về chủ nghĩa Sô vanh đang trỗi dậy của TQ dưới
hình thức “hệ thống triều cống” lạc hậu của TQ đối với Việt Nam. Mặc dù
lãnh đạo Việt Nam thừa nhận tầm quan trọng của sự giúp đỡ của TQ cho Bắc
Việt Nam, họ phẫn nộ sự kiện các nhà lãnh đạo TQ đã không né tránh việc
áp đặt ý muốn của họ lên Bắc Việt Nam vào những lúc Bắc Việt Nam yếu
kém và phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ của TQ. Như một phản ứng chiến
thuật, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã thực hiện các sáng kiến có tính chiến
thuật biểu lộ việc chiều theo ý TQ qua các phát biểu công nhận tuyên bố
chủ quyền của Bắc Kinh đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa
khi mà họ ở trong vị thế khó thể nói ra những lợi ích lãnh thổ của họ
đối nghịch với Bắc Kinh.
Việc VN liên tiếp công nhận tuyên bố chủ
quyền của TQ trong các năm 1956, 1958, và 1965 đã được thực hiện với
động cơ kín đáo “tuân thủ ngoài mặt, phản bội trong lòng.” Trong suy
nghĩ của họ, tranh thủ cam kết lớn hơn viện trợ của TQ và dấn sâu hơn
trong cuộc đối đầu quân sự với Mĩ phải được dành cho ưu tiên cao nhất
trong thập kỉ định mệnh 1956-1965. Khi nỗi lo bại trận của Việt Nam giảm
xuống và Liên Xô háo hức thay thế TQ như là nơi cung cấp viện trợ kinh
tế và quân sự chính vào năm 1974, Hà Nội đã chủ động thách thức việc
bành trướng lãnh thổ của TQ, đưa tranh chấp lãnh thổ Trung-Việt trở lại
công khai. Biên giới đất liền giữa TQ và Việt Nam đã trở thành một vấn
đề gây tranh cãi vì những thay đổi trong vị trí các mốc phân chia biên
giới đã được thực hiện từ năm 1955, và cả hai bên cáo buộc lẫn nhau về
việc thay đổi hiện trạng. Tranh chấp biên giới đất liền biến thành xung
đột biên giới từ năm 1974 trở đi.[30]
——–
* “CPMO” viết tắt của: Hồ sơ Văn Phòng Phủ ThủTướng (“Collection of
the Prime Minister’s Office”), lưu ở Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia 3
(“National Archive No. 3”), Hanoi.
[1] Xem Taylor Keith W. The Birth of Vietnam. Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1983; Duiker William J. China and Vietnam: The Roots of Conflict. Berkeley: Center for Chinese Studies, 1986; SarDesai D. R. Vietnam: The Struggle for National Identity. 2nd ed. Boulder, Colo.: Westview Press, 1992; Nguyen Khac Vien. Vietnam: A Long History. Hanoi: Thế Giớii Publishers,1993; Kenny Henry. Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy. Dulles, Va.: Brassey’s, Inc.,2002.
[2] Xem Truong Buu Lam. Patterns of Vietnamese Response to Foreign Intervention: 1858–1900, Monograph Series no. 11,
Southeast Asia Studies. New Haven: Yale University Press, 1967 and Inoguchi Takashi. “China’s Intervention in Vietnam and its Aftermath, 1768–102.” Journal of Law and Diplomacy 73:5 (1975), pp. 36–83.
Southeast Asia Studies. New Haven: Yale University Press, 1967 and Inoguchi Takashi. “China’s Intervention in Vietnam and its Aftermath, 1768–102.” Journal of Law and Diplomacy 73:5 (1975), pp. 36–83.
[3] Duiker William J. China and Vietnam: The Roots of Conflict. Berkeley: Center for Chinese Studies, 1986, p. 6.
[4] Xem Westad Odd Arne. “History, Memory and the Languages of Alliance-Making.” In 77 Conversations between
Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977, eds. Odd Arne Westad et al., pp. 8–19.
Washington: Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project Working Paper no. 22, May
1998, pp. 11–16.
Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977, eds. Odd Arne Westad et al., pp. 8–19.
Washington: Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project Working Paper no. 22, May
1998, pp. 11–16.
[5] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2000, p. 79
[6] Xem Nguyễn Ngọc Tuyên. Quan hê gữa cách mạng Trung Quốc và cách mạng Viêt Nam (“Relations between the
Chinese revolution and the Vietnamese revolution”). Nhà Xuâấ Bản Sự Thật, Hanoi, 1959.
Chinese revolution and the Vietnamese revolution”). Nhà Xuâấ Bản Sự Thật, Hanoi, 1959.
[7] Zhai (như [5]), p. 79
[8] Ibid., p. 219
[9] Xem Ang Cheng Guan. The Vietnam War from the Other Side: The
Vietnamese Communists’ Perspective. New York, N.Y. RoutledgeCurzon,2002
[10] Olsen Mari. “Forging a New Relationship: The Soviet Union and Vietnam, 1955.” In Behind the Bamboo Curtain: China,
Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Priscilla Roberts, pp. 97–126. Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2006
Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Priscilla Roberts, pp. 97–126. Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2006
[11] Zhai Qiang. China and the Vietnam Wars, 1950–1975. Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 2000, pp. 20–24
[12] Zhang Shu Guang. “Beijing’s Aid to Hanoi and the U.S.-China Confrontations.” In Behind the Bamboo Curtain:
China, Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Pricilla Roberts, pp, 264–66. Stanford, Calif.: Stanford University
Press, 2006, pp. 264–66, 273–74
China, Vietnam, and the World Beyond Asia, ed. Pricilla Roberts, pp, 264–66. Stanford, Calif.: Stanford University
Press, 2006, pp. 264–66, 273–74
[13] Westad 1998 (như [4]), pp. 11–16
[14] Han Xiaorong. “Spoiled Guests or Dedicated Patriots? The Chinese in Northern Vietnam, 1954–1978.”
International Journal of Asian Studies 6:1 (2009), p. 10; xem thêm Chang Pao-min. “The Sino-Vietnamese Dispute over the Ethnic Chinese.” China Quarterly 90 (June 1982),.
International Journal of Asian Studies 6:1 (2009), p. 10; xem thêm Chang Pao-min. “The Sino-Vietnamese Dispute over the Ethnic Chinese.” China Quarterly 90 (June 1982),.
[15] Zhai (như [5]), 2000, p. 209
[16] Ibid. Muốn biết thêm chi tiết, xem biên bản cuộc họp giữa Thủ
tướng Phạm Văn Đồng và Phó Thủ tướng Lí Tiên Niệm tại Bắc Kinh ngày 10
tháng 6 năm 1977, CPMO, Hồ sơ 10460, p. 5. Có mặt tại cuộc họp về phía
Việt Nam là Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Thủ tướng
Chính phủ, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ Nguyễn Trọng
Vĩnh. Về phía Trung Quốc có Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa và Thứ trưởng
Hàn Niệm Long. Tác giả chép tay lại tài liệu này từ Trung tâm Lưu Trữ
Quốc Gia 3, Hà Nội, Việt Nam.
[17] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5; xem thêm Hyer Eric. “The South China
Sea Disputes: Implications of China’s Earlier Territorial Settlements.”
Pacific Affairs 68:1,1995, p. 37; Lưu 1995, p. 143.
[18] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 4–5.
[19] Chen 2001, pp. 215–216.
[20] CPMO, Hồ sơ 10460, pp. 5–6.
[21] Ibid. Lưu 1995, p. 143. Lặp lại lời giải thích mập mờ của Phạm
Văn Đồng cho Lí Tiên Niệm ngày 10/6/1977, Lưu Văn Lợi cho rằng tuyên bố
của VNDCCH ngày 9 tháng năm 1965 đã được thực hiện để đáp ứng tuyên bố
của Hoa Kỳ ngày 24 tháng 4 về một vùng chiến tranh kéo dài 100 hải lí
tính từ bờ biển của Việt Nam, vì thế cần đặt việc VNDCCH công nhận các
tuyên bố của Trung Quốc trong bối cảnh của cuộc chiến tranh mở rộng.
[22] Xem Westad 2006, pp. 1–7. Xem thêm Chen Jian, Mao’s China and
the Cold War. Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001, p.
237, và Zhai (như [5])2000, pp. 152–54.
[23] Chen (như [22]), p. 237 và Zhai 2000, pp. 219–20.
[24] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 20.
[25] CPMO, Hồ sơ 10460, p. 17. Xem thêm Quinn-Judge Sophie. “The
Ideological Debate in the DRV and the Significance of the Anti-Party
Affair, 1967–68.” Cold War History 5:4 (2005, pp. 483–84.
[26] Han (như [14]), pp. 12–13.
[27] Ibid., p. 13.
[25] See Path forthcoming; also see Chen (như [220), p. 237, and Zhai (như [5]), p. 140.
[29] CPMO, Folder 10460, p. 20; Zhai (như [5]), p. 79.
[30] See Chang (như [14]), pp. 25–35; Duiker (như [3]), pp. 72–73.
Nguồn: Lan Man
KHẨU HIỆU “vừa anh em vừa đồng chí” CÓ THỂ HIỂU THẾ NÀO ĐÂY? NGAY BẢN THÂN KHẨU HIEU CŨNG CHO TA THẤY MỘT SỰ LOGIC RẰNG: TRONG THỰC TIỄN ĐÃ LÀ ANH EM THÌ CHƯA CHẮC ĐÃ LÀ ĐỒNG CHÍ? CÒN ĐÃ LÀ ĐỒNG CHÍ THÌ CHƯA CHẮC ĐÃ LÀ ANH EM ? VÌ THẾ PHẢI PHẤN ĐẤU VỪA LÀ ĐỒNG CHÍ VỪA LÀ ANH EM ! CÒN LÀ ĐỒNG CHÍ MÀ KHÔNG ĐẠT ĐƯỢC TÌNH ANH EM CŨNG LÀ LẼ THƯỜNG TÌNH Ở ĐỜI THÔI MÀ. HAY NÓI CÁCH KHÁC KHÔNG THỂ TIN Đ/C NHƯ TIN ANH EM ĐƯỢC ?
Trả lờiXóa