Thứ Tư, 17 tháng 2, 2021

Nguyễn Duy: HOA ĐÀO NĂM ẤY & CHÙM THƠ LẠNG SƠN THÁNG 2 - 79


Hoa đào năm ấy
& Chùm thơ Lạng Sơn tháng 2.79


Nguyễn Duy

Hoa đào năm ấy


Cuộc chiến tranh đi qua... Thế là xong ! Tôi thở phào nhẹ nhõm khi trút bộ quân phục để chuyển ngành về làm biên tập viên cho tờ Văn nghệ Giải phóng. Lúc đó là đầu năm 1976. Năm 1977 tờ Văn nghệ Giải phóng lại nhập vào tờ Văn Nghệ (toàn quốc), tôi trở thành biên tập viên thường trú tại các tỉnh phía Nam của tờ báo vốn có nhiều kỷ niệm sâu sắc với mình. Cứ ngỡ rằng đã “ vĩnh biệt vũ khí ”. Nào ngờ, tháng 6 năm 1978, tôi ¬ phóng viên báo Văn Nghệ, lại lặn lội trong chiến hào ở Tây Ninh cùng với các bạn lính trẻ của Quân đoàn 4. Chiến dịch biên giới phía Tây-Nam Tổ quốc đang thời kỳ ác liệt nhất. Quân Pôn Pốt tràn sang dọc biên giới Việt Nam - Campuchia, tàn sát rất dã man đồng bào ta, từ Tây Ninh qua Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Quân ta đánh chặn và chuẩn bị tổng công kích... Lại những bài thơ chiến trận gửi về tòa soạn báo Văn Nghệ.

Qua mấy năm im tiếng súng, nhìn lại quãng đường bom đạn và đèo dốc dài dằng dặc phía sau lưng mình mà ngại ngùng. Cứ ngỡ rằng, đã quen hơi phố phường rồi, nếu phải đi trở ại con đường chiến tranh vừa qua, chắc là không đi nổi. Nhưng khi việc đã tới, giặc đã ở trước mặt, thật lạ, có một nguồn sức lực từ đâu đó trong con người mình bỗng khởi phát, xốc mình đi, những bước đi mạnh mẽ nguyên vẹn của người lính năm nào...

Nguồn sức lực ấy lại khởi phát một lần nữa trong tôi vào đầu xuân năm 1979. Sau chiến dịch biên giới phía Tây-Nam tôi tự thưởng cho mình một chuyến nghỉ phép, về ăn Tết ở quê nhà ¬ thị xã Thanh Hóa, ngày 15 tháng 2 năm 1979, tôi ra Hà Nội để chờ máy bay trở lại miền Nam. Sáng 17 tháng 2, chiến tranh bùng nổ trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nhóm phóng viên xung kích của báo Văn Nghệ, gồm năm người vốn xuất thân từ lính, được cử lên mặt trận. Lái xe Đào Ngọc Chi cũng vốn là lính chiến. Chiếc xe Rumani tòng tọc của chúng tôi hòa vào đoàn xe chở lính lên phía Bắc. Tới thị trấn Đồng Mỏ chúng tôi bắt đầu làm việc, với trạm phẫu, với thương binh với đồng bào các dân tộc chạy giặc từ mấy huyện biên giới về. Ga Đồng Mỏ đặc kín người. Đường số Một tắc nghẽn. Hầm Núi Đá (do quân Trung Quốc đào, hồi họ sang “giúp” ta chống Mỹ) thì dành cho người bị thương nặng. Đêm ấy, chúng tôi ngủ ở chợ Đồng Mỏ cùng với đồng bào chạy giặc. Tôi và Phạm Tiến Duật nằm chung cái bạt võng, trước vỉa hè nhà bưu điện. Anh Hoài An ngủ trên xe với Đào Ngọc Chi. Anh Hồng Phi cùng với Đỗ Chu leo lên cái bàn bán thịt trong lều chợ không có mái. Tiếng đại pháo từ Lạng Sơn vọng về ùng ình suốt đêm. Những trang viết về mặt trận của nhóm chúng tôi bắt đầu từ đêm đó.

Lạng Sơn, 18-2. Thị xã vắng ngắt. Trời se lạnh. Hoa đào phai thấp thoáng trong sương mù. Đại pháo đội sang từ phía Bằng Tường, tiếng đạn rít veo véo, tiếng nổ lộng óc. Xe chúng tôi băng qua cầu Kỳ Lừa, lao về hướng Đồng Đăng.

Theo giới thiệu của ban chỉ huy sư đoàn Sao vàng, chúng tôi sẽ tới trung đoàn An Lão đang chặn giặc ở nam Đồng Đăng. Có một chiến sĩ liên lạc của trung đoàn An Lão dẫn đường. Ga Tam Lung hiện ra trước mặt. Chiếc xe hồng thập tự của bệnh viện Lạng Sơn vừa bị bắn lật, nữ bác sĩ Thủy tử thương. Tiếp theo, chiếc xe của xưởng phim Quân Đội trúng đạn, chiến sĩ Như Đạt, quay phim, hy sinh tại chỗ. Cối 81 của địch nhằm vào xe chúng tôi. Nhanh như cắt, Đào Ngọc Chi quặt xe vào con đường rẽ. Quân Trung Quốc từ các cao điểm gần đó nã cối theo tới tấp...

Hầm chỉ huy trung đoàn An Lão nằm trên sườn cao điểm 417. Vừa gặp chúng tôi, chính ủy trung đoàn đã đề nghị “ các nhà văn trở về Lạng Sơn ngay cho. Chiến sự đang ác liệt, đơn vị không thể bảo đảm an toàn cho các anh được...”.

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Cái bề ngoài của mỗi người quả là xa lạ với thực tế trận mạc. Tôi mặc chiếc áo trắng có hoa đen, quần loe, kính cận, máy ảnh toòng teeng trên vai. Anh Hồng Phi, râu tóc bờm xờm, áo len, quần dạ, đôi dép sambô cao đế. Phạm Tiến Duật và Đỗ Chu thì đúng là bạch diện thư sinh, mảnh khà mảnh khảnh.

¬ Xin các anh cứ yên lòng ¬ Hồng Phi nói với chính ủy trung đoàn, chúng tôi đều con nhà lính, quen thuộc súng đạn cả. Chúng tôi sẽ ở đây theo dõi các trận đánh, và nếu có thể, xin các anh phát vũ khí...

Chính ủy Biền, nói vắn tắt về tình hình chiến sự. Căn hầm thỉnh thoảng lại rung lên, đạn cối của địch vẫn rơi xuống quanh đấy, tiếng nổ nhức tai, và khói, bụi sặc sụa.

Những ngày ở Tam Lung, chúng tôi đã viết các bài in trên báo Văn Nghệ dạo đó. Quân ta chiến đấu rất anh dũng đánh chặn đạo quân xâm lược đông hơn và mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Quân Trung Quốc, tuy bị thương vong nặng nề, vẫn thí mạng hết đơn vị này đến đơn vị khác, lấn chiếm ta từng cao điểm một.

Trước khi xuôi về thị xã Lạng Sơn, từ trên đỉnh đồi 417, tôi dùng ống nhòm quan sát trận đánh bên cao điểm 611. Quân địch bò lên, đen kín cả sườn đồi, có súng cối và pháo tầm gần yểm trợ. Trên chốt, quân ta chỉ có chưa đầy ba chục chiến sĩ, trung đoàn An Lão vừa bàn giao trận địa cho quân địa phương tối hôm trước. Đúng giữa trưa trận đánh kết thúc. Giặc chiếm được ngọn đồi. Chúng dồn hàng đống xác chết lại, rải lên từng lớp chất cháy (sau này tôi mới thấy, đó là xăng đặc, giống như thứ nhựa vá xe đạp, đựng trong bình vải sơn, mỗi bình bốn lít) và đốt. Trời im ắng, cái im ắng ghê rợn sau trận đánh. Không một gợn gió. Ngọn lửa đốt xác đỏ lòm. Từ đỉnh cao 611, cột khói dựng thẳng đứng lên trời, tỏa ra thành hình cái nấm khổng lồ, đen kịt giữa bầu trời trắng bạc.

Nhóm phóng viên chúng tôi xuôi về thị xã Lạng Sơn. Cột khói đốt xác của quân Trung Quốc vẫn đen ngòm, dựng thẳng đứng phía sau lưng. Tôi đã bị ám ảnh mãi về cột khói đó, về những linh hồn vần vụ trong cột khói đó...

Phố xá hoang vu. Thị xã Lạng Sơn vẫn tươi thắm màu hoa đào. Tôi chưa bao giờ thấy vườn hoa đào nào rộ đều và đẹp như vườn đào Nhà khách tỉnh ủy Lạng Sơn. Đào bạch, đào phai, đào đỏ nở dọc theo các lối đi lát gạch. Hoa đào vô tư nào có biết rằng chúng sắp bị tàn sát. (Sau khi quân Trung Quốc rút đi, tôi đã trở lại thị xã Lạng Sơn, ngơ ngẩn trước cảnh đổ nát. Cả vườn đào cũng bị đánh bằng thuốc nổ, không còn một nhánh, những cục nhựa đào đông lại nơi gốc đào cụt trông như những cục máu bầm chưa khô hẳn. Các khu nhà sang trọng chỉ còn là các đống gạch vụn. Vô vàn mảnh thủy tinh ruột phích nước rải lấp lánh dưới mặt đất. Vòm hang đá núi Phai Vệ sập hẳn, có lẽ quân giặc đã phải dùng nhiều tấn thuốc nổ. Động Tam Thanh nổi tiếng bao đời nay cũng đen ngòm khói thuốc bộc phá, một cái hố rộng hoác, khét lẹt choán hết cả lòng động... Phố, nhà, vườn tược, cỏ hoa cho đến cả hang động đều chung một số phận thảm sát). Còn lúc này, chúng tôi đang ở giữa vườn đào thị xã, hoa đào cứ nở vô tư. Nhóm phóng viên báo Văn Nghệ tụ lại đây, nghỉ đêm trong nhà khách tỉnh ủy đã bỏ trống, cùng với tổ tự vệ của giáo viên trường Đông Kinh Phố. Trang thơ về mặt trận của tôi được hoàn chỉnh trong đêm này. Chúng tôi chụm đầu đọc thơ cho nhau nghe, rồi hát trắng đêm. Đêm chia tay, đêm vĩnh biệt những cây đào nở muộn. Tiếng súng bộ binh đã nổ rát ngoài rìa thị xã.

Mờ sáng hôm sau, tổ công an vũ trang bảo vệ khu nhà khách tới giục chúng tôi dời đi, họ nhận được lệnh phải rút ngay ra khỏi thị xã. Chúng tôi thong thả chụp vài tấm ảnh cuối cùng với vườn đào rồi chặt những cánh đẹp nhất cắm đầy chung quanh xe. Chiếc xe Rumani của tuần báo Văn Nghệ lần đầu tiên được ngụy trang hoàn toàn bằng hoa đào. Lái xe Đào Ngọc Chi phải yêu cầu bỏ bớt hai cành cắm phía trước để còn trông thấy đường.

Trên chiếc xe hoa đào ấy, chúng tôi ngoái nhìn thị xã. Chào Lạng Sơn. Chào chợ Kỳ Lừa và dòng sông Kỳ Cùng. Chào thành Tiên Xây và núi Vọng Phu... Thị xã đẹp mê hồn trong sương mù. Không một bóng người. Chỉ có cây với nhà, và hoa đào. Mấy con chó tìm chủ chạy lững thững dọc những phố nhỏ lặng ngắt. Pháo từ phía Bằng Tường bất chợt gầm lên, súng bộ binh đồng loạt nổ rền bên kia cầu Kỳ Lừa...

Chúng tôi đã mang về tòa soạn những trang viết chưa ráo mực cùng những cánh đào còn ướt nhựa nơi vết cắt. Cành đào phai lớn nhất được cắm trong cái bình đất nung đặt ở phòng khách tòa báo. Những cành nhỏ hơn, chúng tôi chia ra, phân phát cho bạn bè. Bài viết của chúng tôi dồn dập in trên báo Văn Nghệ, những nụ đào muộn mằn dồn dập nở. Cho tới ngày Trung Quốc bị đánh bật ra khỏi biên giới nước ta, những cành đào Lạng Sơn vẫn còn tươi thắm giữa lòng Hà Nội. Và, mãi mãi thắm trong tôi cái màu hồng kỳ diệu của hoa đào năm ấy...

                                                                               (Đã in báo Văn Nghệ, tháng 3.1983)



LÊN MẶT TRẬN, NGÀY ĐẦU…

 
Lên xứ Lạng
chưa thấy thành Tiên Xây
đâu chùa Tam Thanh
đâu nàng Tô Thị...

Quân giặc tràn qua đèo Hữu Nghị
Đồng Đăng thất thủ rồi
pháo Bằng Tường dội sang xối xả
dằng dặc dòng người sơ tán đổ về xuôi

Lẫn lộn người Kinh, người Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới tràn vào
những gương mặt nghìn năm đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn mới
vẫn mới cả nón mê cả áo vá chân trần...

Miếng cơm ăn lẫn cát bụi bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau lưng
đàn trâu lang thang lũ gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy như đùa

Trẻ con trên ôtô, trên xe trâu, xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ con trên tay
trẻ con lon ton níu váy níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con còn đầu kia là nồi là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn quân đi...

Bao lứa trẻ từng lớn lên như thế
gặp lũ trẻ con nay bắt gặp tuổi thơ mình
tuổi thơ của em
tuổi thơ của anh
gặp lại cả mấy thời chạy loạn
thời là tản cư thời là sơ tán
gian nan xưa cứ tưởng đã cũ rồi !

Quân đi, quân đi
ngược lên biên giới
có cái nhìn như sỏi ném sau tôi...


(Lạng Sơn,18. 2.1979)


ĐÊM Ở CHỐT 417

 
Thâm lũng, Tam lung... chìm nghỉm trong đen
bất chợt lại xanh lè đạn nổ
lửa đốt lòng ta những đêm không ngủ
là ánh đèn đã tắt dưới làng dân


(Lạng Sơn, 22 .2 .1979)


DẠ HƯƠNG

 
Sẽ rất nhớ dáng người vừa thoáng gặp
chiều Lạng Sơn súng nổ rụng hoa đào
những giọt máu của vườn cây vung vãi

trường sơ tán rồi, cô giáo còn chốt lại
khẩu súng thép chéo lưng con gái
ôi tấm lưng kia ngỡ sinh ra để mà mềm mại

dáng điệu ấy chốt lại lòng ta mãi
như dạ hương thoáng gặp một đêm nào


(Lạng Sơn, 22 .2 .1979)


ẢI CHI LĂNG


Ải Chi Lăng ! Ải Chi Lăng !
lưỡi gươm đẫm máu Liễu Thăng thuở nào
gập ghềnh lũng thấp đồi cao
vũng lầy thành ruộng đã bao nhiêu mùa

Chập chờn trận mạc xa xưa
quân reo ngựa hí gươm khua dậy trời
thịt xương xưa hóa đất rồi
nợ xưa còn để nặng đời sau ư ?

Gió trên vách đá ù ù
nghe
tù và dội xuống từ cao xanh...


(Mặt trận Lạng Sơn, 23. 2 .1979)


NGUỒN : Tuyển tập thơ Nguyễn Duy,
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2010.


3 nhận xét :

  1. Tôi không nhớ rõ năm nào ,tôi có cái duyên mua được tập thơ " Thơ Nguyễn Duy Sáu Và Tám " . Tôi nhớ vào khoảng 1998 hay 1999 hay 2000 gì đó . Tập thơ mua tại một tiệm sách lớn tại Sài Gòn . Có điều lạ tập thơ nầy đã xữ dụng qua , vì trang đầu có thủ bút thơ Nguyễn Duy , và giòng chữ Nguyễn Duy viết " Tặng Nguyễn Quốc Khánh , bên dưới là chữ ký rồng bay phượng múa của Nguyễn Duy , và ngày đề tặng Nguyễn Duy viết là ngày 14 . 10 . 1994 " . Tôi không có thắc mắc tại sao như vậy cho tới bây giờ , miễn sao tập thơ tới tay tôi là được rồi

    Gió trên vách đá ù ù
    nghe tù và tội xuống từ cao xanh

    Hai câu thơ trên là hai câu thơ cuối của bài thơ Chi Lăng , thi sĩ Nguyễn Duy có ghi là " Mặt trận phía Bắc 1979 " . Xin thưa quí vị độc giả , ai đọc còm nầy , tôi xin thưa tôi thấy rằng Nguyễn Duy không biết có vận dụng ý thơ hay không ! Hay trong linh hồn của thi sĩ đã có sẳn lổ tai nghe được tiếng nói từ tâm linh ? Như Huy Cận ( Hổ phụ sinh hổ tử là Ls Hạ Cù Huy Vũ ) đã thở ra thơ .

    Đồn xa quằn quại bóng cờ
    Phất phơ buồn tự thời xưa mới về

    Hay trở về với " Cha già tóc trắng của dân tộc ngồi trên ngọn núi Hồng Lĩnh , viết trong Đoạn Trường Tân Thanh "

    Người lên ngựa kẻ chia bào
    Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

    Tôi rất là yêu thơ và con người Nguyễn Duy , và bài thơ bên dưới tôi xin trích để quí vị đọc chơi vui

    VỌNG TÔ THỊ

    Nàng Tô Thị xứ Lạng Sơn bị hạ sát tại quê nhà đêm rằm, rạng ngày 16 tháng 6 ( âm lịch) năm Tân Mùi , 1991. Có thơ vọngrằng.

    Leo lên xứ Lạng quờ tay
    Người xưa dứt bóng người nay đâu rồi

    Vành sa trắng chít ngang trời
    Một vùng biên ải mấy thời binh đao

    Tình tang tan tự thuở nào
    Hồn ai rỏ máu hoa đào đó ư

    Siêu nhiên góa bụa nhân từ
    Đá mồ côi đá vọng phu với người

    Người hóa đá đá hóa vôi
    Vôi ma quái bạc mái đời phù vân

    Nàng Tô Thị của ngàn năm
    Hai lần*hóa kiếp hai lần vọng ai

    Chân ai thậm thịch dặm dài
    Lòng ai nuốt mảnh tượng đài nàng đây

    Vọng chi ở phía chân mây
    Người xưa hóa đá người nay hóa gì**

    Một bài thơ nữa

    Tiên Điền

    Thương Kiều tìm gặp Nguyễn Du
    Có gì đâu một nấm mồ cỏ xanh
    Lẫn trong thập loại chúng sinh
    Người như thế mới tài tình sao

    Tôi xin " tự phát " trích thơ Bùi Giáng


    Con nhìn Hồng Lĩnh ra sao
    Hồng Sơn Liệp Hộ thế nào Nguyễn Du
    Lại thêm Nam Hải điều đồ
    Nhất châu hà sự hồ đồ công danh
    Bất toàn diện mục tinh anh
    Bất toàn thái phác tựu thành tinh hoa
    Công hầu cốt cách buông tha
    Hưu nai đồng ý cùng ta niệm tình


    * Hai lần hóa kiếp của nàng Tô Thị từ tiếng thơ của thi sĩ Nguyễn Duy , đề nghị các vị làm văn học sử nầy nhớ ghi rõ là của Nguyễn Duy

    ** người ngày nay không hóa gì hết, chỉ có đảng mới biến thái và vô cảm thôi

    TB: Viết còm nầy để nhớ thi sĩ , sĩ phu Bắc Hà Nguyễn Tường Thụy











    Trả lờiXóa
  2. Trần Thị Thảolúc 12:51 20 tháng 2, 2016

    Năm 1973 , khi tôi còn là sinh viên của trường ĐHSP Hà Nội thì Nguyễn Duy đã là một nhà thơ nổi tiếng rồi . Tôi còn nhớ : Năm 1973 ông đã đoạt giải nhất về thơ của báo Văn nghệ . Đến giờ , trong sách giáo khoa phổ thông , nhà XBGD vẫn in thơ của ông để dạy cho học sinh . Ông không những giỏi về văn thơ , mà con người ông cũng rất đáng được kính trọng bởi ông rất yêu nước , yêu quê hương và ông lại còn là người lính tham gia nhiều trận mạc, chính vì vậy ông mới viết ra được những chùm thơ về quê hương hay như trên .

    Trả lờiXóa
  3. Ải Chi Lăng ! Ải Chi Lăng !
    lưỡi gươm đẫm máu Liễu Thăng thuở nào
    (Nguyễn Duy)
    ____________

    Ải Chi Lăng thì còn ở Việt nam.
    Ải nam Quan bây giờ tàu nó 'xơi" rồi!

    Trả lờiXóa