Chân dung chợ Việt xưa
Khảo cứu của Trịnh Quang Dũng
Chợ vốn dĩ là nhu cầu tối thiết yếu của con người, với người Việt nam chợ lại cũng là một cái gì gần gũi hơn nữa, máu thịt hơn nữa…chả thế mà cả đến cái tên nôm na của chốn quốc đô cũng gọi là “Kẻ Chợ”.
Tên Kẻ Chợ được nhiều người gọi trong dân gian, đặc biệt là các giáo sĩ, thương nhân phương Tây và trở nên rất phổ biến từ thế kỷ 17 khi mà Tonquin (Đông Kinh) thời bấy giờ trong những ngày “Phiên” trở thành một cái “chợ khổng lồ” [1:].Người phương Tây đầu tiên dùng từ Kecho phải dành cho giáo sĩ Bồ Đào Nha, ông Barros. Ông đã phiên âm tiếng Kecho (cacho) trong cuốn sách “Nói về Châu A-Da Asia” của mình và cho ấn hành vào năm 1550. Rất nhiều các từ phiên âm khác xuất hiện muộn hơn trong các văn bản, bản đồ của người phương Tây sau này như: kechu, cachu, cacho v.v…tất cả đều là phiên âm của từ Kecho. Kẻ có nghĩa là “vùng” vậy nên trong dân gian, địa danh kẻ Mơ, kẻ Cót, kẻ Noi v.v… vẫn còn tồn tại khá phổ biến cho tới tận nửa đầu thế kỷ 20. Bởi vậy cái tên Kẻ Chợ bao hàm ý nghĩa “vùng đất họp chợ”, “vùng rất nhiều chợ”. Chỉ riêng điều đó cũng cho ta thấy sự phát triển của mạng lưới chợ như “trăm hoa đua nở” ở mảnh đất đế đô Đông Kinh vào thế kỷ 17,18.
Sự hình thành của thị trường thương mại ở Đông Kinh-Kẻ Chợ
Từ thế kỷ 15, sau khi chiến thắng quân Minh, nước Đại Việt trở lại hồi sinh và nền kinh tế dần dần phát triển đạt tới mức độ sầm uất, tấp nập cực điểm vào thế kỷ 17,18. Trong hai thế kỷ này chế độ phong kiến trung ương tập quyền hình thành từ thời Lê Thánh Tôn (1460-1497) và được phát triển một cách sáng tạo đột biến dưới triều Lê-Trịnh (1592-1786) như một yếu tố cốt lõi cho sự hòa nhập của Đại Việt vào cuộc “bùng nổ đại mậu dịch” thời đó. Sau sự kiện Chúa Trịnh Sâm tiến vào Phú Xuân, kết thúc sứ mệnh bình Nam (1774), non nước Đại Việt đã thâu về một mối. Việc thống nhất tiền tệ, thông thương Nam Bắc lần đầu tiên được nhà nước chính thức xác lập sau khoảng 150 năm chia cắt. Một mạng lưới chợ đã được liện kết mở rộng cả vào khu vực phía trong tạo nên thương trường rộng lớn. Trong bối cảnh như vậy Đông Kinh - Kẻ Chợ đóng vai trò như một trung tâm đầu mối quan trọng hàng đầu của nền thương mại Đàng ngoài. Với việc khu trung tâm quyền lực chính trị, hành chính- Vương phủ Chúa Trịnh không đóng trong thành, Đông Kinh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trở thành một đô thị -Kinh đô mở, không tường thành bao quanh, không biên giới hạn chế, thông thương kiểu các đô thị Châu Âu trung đại. Giáo sĩ A. De Rhode đã gây bất ngờ lớn khi ước định về dân số Đông Kinh: “Người ta thấy rất đông dân chúng đi đi lại lại rảo khắp phố phường đụng chạm nhau…thành thử mất rất nhiều thì giờ mà chỉ tiến đựơc chút ít. Rồi thêm vào nhiều phỏng đoán khác, theo dư luận chung thì dân cư ở kinh thành lên tới “một triệu người ”[1:16]. Con số đó hoàn toàn có thể tin được khi một người phương Tây khác, ông W. Dampier cũng ước đoán rằng “Kẻ Chợ có vào khoảng 20.000 nóc nhà…”. Đã có rất nhiều tư liệu lịch sử và ghi chép của các nhân chứng đương thời khẳng định Đông Kinh-Kẻ Chợ là một đô thị to lớn hàng đầu khu vực và có thể sánh với các đô thị lớn ở Châu Âu như Venise.Việc tăng dân số đột biến ở Đông Kinh-Kẻ Chợ không phải ngẫu nhiên. Một mặt do Chúa Trịnh luôn duy trì ở kinh sư một bộ máy quân sự khổng lồ thuộc loại hùng mạnh nhất đương thời”.
Chúa thường có 100 ngàn quân”[2:132] nên gia đình quan lại, binh lính, tầng lớp nô bộc, phục vụ họ đã nhanh chóng bổ sung dân số Đông Kinh mà ngày nay ta quen gọi với danh từ “dân số tăng cơ học”. Mặt khác tình hình làm ăn phát đạt ở Kinh đô biến khu 36 phố phường phát triển và mở rộng như một nam châm khổng lồ khiến làn sóng “di dân” lập nghiệp cuồn cuộn đổ về Thăng Long. Phố Hàng Bạc vốn chỉ có dân Châu Khê Hải Dương lên lập nghiệp đúc bạc, tiền, từ thế kỷ 16 thì nay lại có thêm thợ kim hoàn làng Thanh Trì kéo về vào đầu thế kỷ 18. Họ Nguyễn-Sơn Nam Hạ tới Làng Nam Đồng. Họ Nguyễn Thanh Hoá tới làng Phương Liệt. Hậu duệ Chúa Trịnh kéo tới Thái Kiều - thôn Trung Phụng định cư. Dân Hải Dương kéo về làm nghề da và đóng dày ở phường Hài Tượng. Dòng Nguyễn Đắc Cổ Định –Thanh Hóa tới Thăng Long, dòng Nguyễn Hữu Liêu từ Châu Ái ra Làng Tây Tựu Từ Liêm v.v… Một nguyên nhân khác góp phần thúc đẩy dân số Kẻ Chợ tăng vọt chính là số lượng đông đảo các cậu học trò kéo về đất kinh kỳ học tập “dùi mài kinh sử “làm khởi sắc,no nhiệt cả một khu Sĩ Hoạn ở phường Bích Câu suốt hai thế kỷ. Điển hình là câu chuyện hình thành ngõ Phát Lộc gần cửa ô Trừng Thanh. Chính từ cậu học trò người làng Phát Lộc lên học thi ban đầu rồi kéo cả làng theo tạo lập nên con ngõ này còn tồn tại tên cho tới ngày nay. Có thể nói suốt hai thế kỷ 17,18 Đông Kinh đã có một cuộc “bùng nổ dân số” chưa từng có trong lịch sử phong kiến Việt Nam.Ta có thể tưởng tượng với dân số cỡ một triệu, tương đương với dân số Hà Nội nửa sau thế kỷ 20 sẽ đòi hỏi một mạng lưới chợ to lớn biết nhường nào ở Đông Kinh.
Mạng lưới chợ ở Đông kinh
Mạng lưới chợ Thăng Long Đông Kinh- Kẻ Chợ được hình thành dần dần theo thời gian. Đặc thù nền kinh tế nơng nghiệp Đại Việt thế kỷ 17-18 đưa đẩy hình thành một cách tự nhin ba dạng chợ: Chợ kinh thành, chợ nông thôn và chợ chuyên doanh. Chưa có tư liệu lịch sử nào xác thực về sự tồn tại các chợ chuyên doanh ở thời Lý, Trần. Nhiều khả năng loại hình chợ chuyên doanh chưa xuất hiện vì trình độ sản xuất và sức sản xuất thời kỳ này khá thấp.Thêm nữa nhu cầu tiêu dùng xã hội chưa cao bởi số lượng cư dân Kẻ Chợ còn thưa thớt, vẻn vẹn vài vạn người trong một quan thành giới hạn chỉ 4Km2 [9]bao bọc bởi sơng Hồng ,sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch (dân số cả nước năm 1054: chỉ khoảng 2,2 triệu, 1407: 3,1 triệu).
Mạng lưới chợ thành thị ở Đông Kinh được tổ chức trên cơ sở các phường thị kiểu “buôn có bạn, bán có phường” theo từng ngành hàng riêng. Ta hãy nghe Cha Marini,nh truyền gio người Ý (1666) mô tả:” Ở lối cổng vào mỗi phường có một tấm bảng đề, hoặc một tấm biển ghi rõ loại hàng và chất lượng hàng đươc bán ở đó”[2:194]. S.Baron (1680 ) còn cho ta biết rõ Phường buôn bán ở Kẻ Chợ chính là đầu ra của các chợ và các làng vùng thôn quê”…Tất cả những phẩm vật khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường và mỗi phường đó lại phụ thuộc vào một hay nhiều làng và dân chúng các làng xã này được đặc quyền mở các cửa hiệu ở đấy”[10:12]. Lúc bấy giờ đi chợ thật dễ dàng: Tơ, lụa đi vào trong phố Hàng Đào…đồ kim khí vào trong phố Hàng Đồng…Mũ nón vào phố Hàng Nón,rồi Hàng Khoá, Hàng Thuốc Nam, Thuốc Bắc, phố Hài Tượng vv … thật không thiếu thứ gì. Ngoài mạng lưới chợ theo ngành nghề ở khu 36 phố phường ta phải kể đến mạng lưới chợ nông sản, nhu yếu phẩm nằm ở các cửa thành ngoài, cửa hoàng thành, bến đò, cửa sông. Ít nhất có thể điểm danh trên 10 chợ lớn còn thu thuế vào năm Bảo Thái thứ hai 1727, chợ Cửa Đông lệ thuế đóng 318 quan 8 tiền, 100 tấm da trâu. Chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang, chợ Bà Đá lệ thuế là 310 quan 8 tiền 100 tấm da trâu. Chợ Vân Cử lệ thuế là 19 quan tiền 2 tiền quý, chợ Ông Nước lệ thuế là 46 quan 8 tiền vv…[6:36]. Còn rất nhiều chợ khác ở các cửa ô: chợ Yêu Thơ (ô Cầu đền), chợ Dừa (ô Chợ Dừa), chợ Cót (ô Cầu Giấy), chợ Bạch Mã (ô Đông hà), chợ Bác Cử, v.v… Chợ Dừa vốn là một bến trên sông Lừ, đầu mối giao thương quan trọng ở phía Nam kinh thành khiến cho cửa ô chợ Dừa luôn sầm uất náo nhiệt[4:95]. Chợ Cửa Đông tọa lạc ở khu trung tâm Kẻ Chợ là một chợ lớn và nhộn nhịp bậc nhất kinh sư. Nằm ở phía cửa Đông Hoàng thành nên nó còn một tên khác-chợ Đông Thành. Là chợ lớn nhất kinh thành nên nó nhóm họp thường xuyên hàng ngày song vẫn có ngày phiên vaò ngày 1 và ngày 5 vốn là dấu ấn từ xa xưa của cái thuở Lý Thái Tông lập chợ “… Cho mở chợ về cửa Đông, hàng quán san sát, chen chúc sát đến bên đền Bạch Mã rất là huyên náo”[2:82]. Chợ này đầu thế kỷ 18 còn họp bên cầu Đông trên phố Hàng Đường sau mở rộng dịch chuyển về phía tây chiếm một diện tích rộng lớn gồm phía Bắc là dãy phố Hàng Mã, phía nam là phố Bát Đàn, phía Tây là nửa phố Hàng Cót, phía Đông là phố Thuốc Bắc. Sau khi Pháp chiếm Thăng Long,lấp sông Tô Lịch quy hoạch lại khu phố chợ này được chuyển ra chợ mới tức chợ Đồng Xuân hiện nay[11:341].
Các chợ xứ Tonkin đều họp theo phiên, theo chu kỳ để dân tứ xứ biết mà hội về họp chợ. Chu kỳ phiên chợ này được ghi nhận trong nhiều từ chính sử, tư liệu cá nhân, cho tới các ký sự của giáo sĩ phương Tây và du khách tới Đại Việt. Cha Marini (người Ý), giáo sĩ A. Rhodes (Pháp) có mặt ở nước ta ngay từ những năm đầu thế kỷ 17 cho biết “… Chợ ở Kẻ Chợ mỗi tháng có hai phiên vào hai ngày rằm và mồng một”. Tuy nhiên sau hơn 100 năm vào cuối thê kỷ 18, danh sĩ Phạm Đình Hổ tả rõ 8 phiên trong tháng “… phiên chợ là các phiên ngày 1, 6, 11, 14, 15, 21, 26, 30 “[5:83]. Thế kỷ 19, khi không còn giữ vị trí đế đô của quốc gia Kẻ Chợ bước vào thời kỳ suy thoái và ngay lập tức tần suất các ngày phiên chợ đã “giảm nhiệt” đáng kể chỉ còn 5-6 phiên mỗi tháng[2:38].
Cảnh phố xá ngày phiên chợ ở thế kỷ 17,18 thật sầm uất khiến chúng ta ngày nay cũng không khỏi ngỡ ngàng: “…Rất nhiều phố tuy đã rộng rãi, nhưng lúc đó cũng trở thành chật ních, mà người ta hy vọng là nếu có thể tiến lách qua những đám đông khoảng chừng 100 bước trong nửa giờ, thì cũng đã sung sướng lắm rồi”[10:12]. Chợ thường họp từ 6 giờ sáng đến 2 giờ chiều, có chợ kéo dài đến 5 giờ chiều. Thời gian họp chợ chốn kinh thành dài hơn chợ nông thôn, thường từ sáng sớm 5 giờ sáng cho tới 16 -17 giờ. Song ở Kẻ Chợ còn có các loại chợ họp theo những giờ đặc biệt, đó là chợ Hôm chuyên họp lúc chiều tối ở Nam Phố (phố Hàng Bè), lại có những chợ chỉ họp lúc tinh mơ như chợ Mơ vùng Hoàng Mai. Có một chợ Hôm khác ở làng Giáo phường, tổng Tả Nghiêm huyện Thọ Xương (phố Huế ) vốn là một chợ nhỏ cũng chỉ họp lúc chiều hôm. Sang đầu thế kỷ 20, chợ này lớn dần chỉ thua chợ Đông xuân và họp suốt ngày từ sáng sớm, bởi vậy mới có câu ca dao:
Chợ Đuổi họp lúc chiều tà
Chợ Hôm họp sáng…chợ Hàng Da họp ngày!
Tên Kẻ Chợ được nhiều người gọi trong dân gian, đặc biệt là các giáo sĩ, thương nhân phương Tây và trở nên rất phổ biến từ thế kỷ 17 khi mà Tonquin (Đông Kinh) thời bấy giờ trong những ngày “Phiên” trở thành một cái “chợ khổng lồ” [1:].Người phương Tây đầu tiên dùng từ Kecho phải dành cho giáo sĩ Bồ Đào Nha, ông Barros. Ông đã phiên âm tiếng Kecho (cacho) trong cuốn sách “Nói về Châu A-Da Asia” của mình và cho ấn hành vào năm 1550. Rất nhiều các từ phiên âm khác xuất hiện muộn hơn trong các văn bản, bản đồ của người phương Tây sau này như: kechu, cachu, cacho v.v…tất cả đều là phiên âm của từ Kecho. Kẻ có nghĩa là “vùng” vậy nên trong dân gian, địa danh kẻ Mơ, kẻ Cót, kẻ Noi v.v… vẫn còn tồn tại khá phổ biến cho tới tận nửa đầu thế kỷ 20. Bởi vậy cái tên Kẻ Chợ bao hàm ý nghĩa “vùng đất họp chợ”, “vùng rất nhiều chợ”. Chỉ riêng điều đó cũng cho ta thấy sự phát triển của mạng lưới chợ như “trăm hoa đua nở” ở mảnh đất đế đô Đông Kinh vào thế kỷ 17,18.
Sự hình thành của thị trường thương mại ở Đông Kinh-Kẻ Chợ
Từ thế kỷ 15, sau khi chiến thắng quân Minh, nước Đại Việt trở lại hồi sinh và nền kinh tế dần dần phát triển đạt tới mức độ sầm uất, tấp nập cực điểm vào thế kỷ 17,18. Trong hai thế kỷ này chế độ phong kiến trung ương tập quyền hình thành từ thời Lê Thánh Tôn (1460-1497) và được phát triển một cách sáng tạo đột biến dưới triều Lê-Trịnh (1592-1786) như một yếu tố cốt lõi cho sự hòa nhập của Đại Việt vào cuộc “bùng nổ đại mậu dịch” thời đó. Sau sự kiện Chúa Trịnh Sâm tiến vào Phú Xuân, kết thúc sứ mệnh bình Nam (1774), non nước Đại Việt đã thâu về một mối. Việc thống nhất tiền tệ, thông thương Nam Bắc lần đầu tiên được nhà nước chính thức xác lập sau khoảng 150 năm chia cắt. Một mạng lưới chợ đã được liện kết mở rộng cả vào khu vực phía trong tạo nên thương trường rộng lớn. Trong bối cảnh như vậy Đông Kinh - Kẻ Chợ đóng vai trò như một trung tâm đầu mối quan trọng hàng đầu của nền thương mại Đàng ngoài. Với việc khu trung tâm quyền lực chính trị, hành chính- Vương phủ Chúa Trịnh không đóng trong thành, Đông Kinh lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trở thành một đô thị -Kinh đô mở, không tường thành bao quanh, không biên giới hạn chế, thông thương kiểu các đô thị Châu Âu trung đại. Giáo sĩ A. De Rhode đã gây bất ngờ lớn khi ước định về dân số Đông Kinh: “Người ta thấy rất đông dân chúng đi đi lại lại rảo khắp phố phường đụng chạm nhau…thành thử mất rất nhiều thì giờ mà chỉ tiến đựơc chút ít. Rồi thêm vào nhiều phỏng đoán khác, theo dư luận chung thì dân cư ở kinh thành lên tới “một triệu người ”[1:16]. Con số đó hoàn toàn có thể tin được khi một người phương Tây khác, ông W. Dampier cũng ước đoán rằng “Kẻ Chợ có vào khoảng 20.000 nóc nhà…”. Đã có rất nhiều tư liệu lịch sử và ghi chép của các nhân chứng đương thời khẳng định Đông Kinh-Kẻ Chợ là một đô thị to lớn hàng đầu khu vực và có thể sánh với các đô thị lớn ở Châu Âu như Venise.Việc tăng dân số đột biến ở Đông Kinh-Kẻ Chợ không phải ngẫu nhiên. Một mặt do Chúa Trịnh luôn duy trì ở kinh sư một bộ máy quân sự khổng lồ thuộc loại hùng mạnh nhất đương thời”.
Chúa thường có 100 ngàn quân”[2:132] nên gia đình quan lại, binh lính, tầng lớp nô bộc, phục vụ họ đã nhanh chóng bổ sung dân số Đông Kinh mà ngày nay ta quen gọi với danh từ “dân số tăng cơ học”. Mặt khác tình hình làm ăn phát đạt ở Kinh đô biến khu 36 phố phường phát triển và mở rộng như một nam châm khổng lồ khiến làn sóng “di dân” lập nghiệp cuồn cuộn đổ về Thăng Long. Phố Hàng Bạc vốn chỉ có dân Châu Khê Hải Dương lên lập nghiệp đúc bạc, tiền, từ thế kỷ 16 thì nay lại có thêm thợ kim hoàn làng Thanh Trì kéo về vào đầu thế kỷ 18. Họ Nguyễn-Sơn Nam Hạ tới Làng Nam Đồng. Họ Nguyễn Thanh Hoá tới làng Phương Liệt. Hậu duệ Chúa Trịnh kéo tới Thái Kiều - thôn Trung Phụng định cư. Dân Hải Dương kéo về làm nghề da và đóng dày ở phường Hài Tượng. Dòng Nguyễn Đắc Cổ Định –Thanh Hóa tới Thăng Long, dòng Nguyễn Hữu Liêu từ Châu Ái ra Làng Tây Tựu Từ Liêm v.v… Một nguyên nhân khác góp phần thúc đẩy dân số Kẻ Chợ tăng vọt chính là số lượng đông đảo các cậu học trò kéo về đất kinh kỳ học tập “dùi mài kinh sử “làm khởi sắc,no nhiệt cả một khu Sĩ Hoạn ở phường Bích Câu suốt hai thế kỷ. Điển hình là câu chuyện hình thành ngõ Phát Lộc gần cửa ô Trừng Thanh. Chính từ cậu học trò người làng Phát Lộc lên học thi ban đầu rồi kéo cả làng theo tạo lập nên con ngõ này còn tồn tại tên cho tới ngày nay. Có thể nói suốt hai thế kỷ 17,18 Đông Kinh đã có một cuộc “bùng nổ dân số” chưa từng có trong lịch sử phong kiến Việt Nam.Ta có thể tưởng tượng với dân số cỡ một triệu, tương đương với dân số Hà Nội nửa sau thế kỷ 20 sẽ đòi hỏi một mạng lưới chợ to lớn biết nhường nào ở Đông Kinh.
Mạng lưới chợ ở Đông kinh
Mạng lưới chợ Thăng Long Đông Kinh- Kẻ Chợ được hình thành dần dần theo thời gian. Đặc thù nền kinh tế nơng nghiệp Đại Việt thế kỷ 17-18 đưa đẩy hình thành một cách tự nhin ba dạng chợ: Chợ kinh thành, chợ nông thôn và chợ chuyên doanh. Chưa có tư liệu lịch sử nào xác thực về sự tồn tại các chợ chuyên doanh ở thời Lý, Trần. Nhiều khả năng loại hình chợ chuyên doanh chưa xuất hiện vì trình độ sản xuất và sức sản xuất thời kỳ này khá thấp.Thêm nữa nhu cầu tiêu dùng xã hội chưa cao bởi số lượng cư dân Kẻ Chợ còn thưa thớt, vẻn vẹn vài vạn người trong một quan thành giới hạn chỉ 4Km2 [9]bao bọc bởi sơng Hồng ,sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch (dân số cả nước năm 1054: chỉ khoảng 2,2 triệu, 1407: 3,1 triệu).
Mạng lưới chợ thành thị ở Đông Kinh được tổ chức trên cơ sở các phường thị kiểu “buôn có bạn, bán có phường” theo từng ngành hàng riêng. Ta hãy nghe Cha Marini,nh truyền gio người Ý (1666) mô tả:” Ở lối cổng vào mỗi phường có một tấm bảng đề, hoặc một tấm biển ghi rõ loại hàng và chất lượng hàng đươc bán ở đó”[2:194]. S.Baron (1680 ) còn cho ta biết rõ Phường buôn bán ở Kẻ Chợ chính là đầu ra của các chợ và các làng vùng thôn quê”…Tất cả những phẩm vật khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường và mỗi phường đó lại phụ thuộc vào một hay nhiều làng và dân chúng các làng xã này được đặc quyền mở các cửa hiệu ở đấy”[10:12]. Lúc bấy giờ đi chợ thật dễ dàng: Tơ, lụa đi vào trong phố Hàng Đào…đồ kim khí vào trong phố Hàng Đồng…Mũ nón vào phố Hàng Nón,rồi Hàng Khoá, Hàng Thuốc Nam, Thuốc Bắc, phố Hài Tượng vv … thật không thiếu thứ gì. Ngoài mạng lưới chợ theo ngành nghề ở khu 36 phố phường ta phải kể đến mạng lưới chợ nông sản, nhu yếu phẩm nằm ở các cửa thành ngoài, cửa hoàng thành, bến đò, cửa sông. Ít nhất có thể điểm danh trên 10 chợ lớn còn thu thuế vào năm Bảo Thái thứ hai 1727, chợ Cửa Đông lệ thuế đóng 318 quan 8 tiền, 100 tấm da trâu. Chợ Cửa Nam, chợ Huyện, chợ Đình Ngang, chợ Bà Đá lệ thuế là 310 quan 8 tiền 100 tấm da trâu. Chợ Vân Cử lệ thuế là 19 quan tiền 2 tiền quý, chợ Ông Nước lệ thuế là 46 quan 8 tiền vv…[6:36]. Còn rất nhiều chợ khác ở các cửa ô: chợ Yêu Thơ (ô Cầu đền), chợ Dừa (ô Chợ Dừa), chợ Cót (ô Cầu Giấy), chợ Bạch Mã (ô Đông hà), chợ Bác Cử, v.v… Chợ Dừa vốn là một bến trên sông Lừ, đầu mối giao thương quan trọng ở phía Nam kinh thành khiến cho cửa ô chợ Dừa luôn sầm uất náo nhiệt[4:95]. Chợ Cửa Đông tọa lạc ở khu trung tâm Kẻ Chợ là một chợ lớn và nhộn nhịp bậc nhất kinh sư. Nằm ở phía cửa Đông Hoàng thành nên nó còn một tên khác-chợ Đông Thành. Là chợ lớn nhất kinh thành nên nó nhóm họp thường xuyên hàng ngày song vẫn có ngày phiên vaò ngày 1 và ngày 5 vốn là dấu ấn từ xa xưa của cái thuở Lý Thái Tông lập chợ “… Cho mở chợ về cửa Đông, hàng quán san sát, chen chúc sát đến bên đền Bạch Mã rất là huyên náo”[2:82]. Chợ này đầu thế kỷ 18 còn họp bên cầu Đông trên phố Hàng Đường sau mở rộng dịch chuyển về phía tây chiếm một diện tích rộng lớn gồm phía Bắc là dãy phố Hàng Mã, phía nam là phố Bát Đàn, phía Tây là nửa phố Hàng Cót, phía Đông là phố Thuốc Bắc. Sau khi Pháp chiếm Thăng Long,lấp sông Tô Lịch quy hoạch lại khu phố chợ này được chuyển ra chợ mới tức chợ Đồng Xuân hiện nay[11:341].
Các chợ xứ Tonkin đều họp theo phiên, theo chu kỳ để dân tứ xứ biết mà hội về họp chợ. Chu kỳ phiên chợ này được ghi nhận trong nhiều từ chính sử, tư liệu cá nhân, cho tới các ký sự của giáo sĩ phương Tây và du khách tới Đại Việt. Cha Marini (người Ý), giáo sĩ A. Rhodes (Pháp) có mặt ở nước ta ngay từ những năm đầu thế kỷ 17 cho biết “… Chợ ở Kẻ Chợ mỗi tháng có hai phiên vào hai ngày rằm và mồng một”. Tuy nhiên sau hơn 100 năm vào cuối thê kỷ 18, danh sĩ Phạm Đình Hổ tả rõ 8 phiên trong tháng “… phiên chợ là các phiên ngày 1, 6, 11, 14, 15, 21, 26, 30 “[5:83]. Thế kỷ 19, khi không còn giữ vị trí đế đô của quốc gia Kẻ Chợ bước vào thời kỳ suy thoái và ngay lập tức tần suất các ngày phiên chợ đã “giảm nhiệt” đáng kể chỉ còn 5-6 phiên mỗi tháng[2:38].
Cảnh phố xá ngày phiên chợ ở thế kỷ 17,18 thật sầm uất khiến chúng ta ngày nay cũng không khỏi ngỡ ngàng: “…Rất nhiều phố tuy đã rộng rãi, nhưng lúc đó cũng trở thành chật ních, mà người ta hy vọng là nếu có thể tiến lách qua những đám đông khoảng chừng 100 bước trong nửa giờ, thì cũng đã sung sướng lắm rồi”[10:12]. Chợ thường họp từ 6 giờ sáng đến 2 giờ chiều, có chợ kéo dài đến 5 giờ chiều. Thời gian họp chợ chốn kinh thành dài hơn chợ nông thôn, thường từ sáng sớm 5 giờ sáng cho tới 16 -17 giờ. Song ở Kẻ Chợ còn có các loại chợ họp theo những giờ đặc biệt, đó là chợ Hôm chuyên họp lúc chiều tối ở Nam Phố (phố Hàng Bè), lại có những chợ chỉ họp lúc tinh mơ như chợ Mơ vùng Hoàng Mai. Có một chợ Hôm khác ở làng Giáo phường, tổng Tả Nghiêm huyện Thọ Xương (phố Huế ) vốn là một chợ nhỏ cũng chỉ họp lúc chiều hôm. Sang đầu thế kỷ 20, chợ này lớn dần chỉ thua chợ Đông xuân và họp suốt ngày từ sáng sớm, bởi vậy mới có câu ca dao:
Chợ Đuổi họp lúc chiều tà
Chợ Hôm họp sáng…chợ Hàng Da họp ngày!
Sau 6 giờ chiều, các ông “khán chợ”(bảo vệ) ở chợ này đóng cổng đuổi hết mọi người khỏi chợ. Vì kế sinh nhai, dân chúng bèn kéo nhau về bãi cỏ làng Thể Giao họp chợ tiếp… Và dần dần hình thành nên chợ Đuổi còn lưu tên phố cho tới ngày nay.
Các mặt hàng ở chợ là rất đa dạng đủ các loại từ thực phẩm thịt, cá, rau xanh, trái cây cho đến các đồ gia dụng thông thường nồi niêu, dao, xoong chảo …Thật thú vị khi đồ trang sức tôn vinh cái đẹp được cho biết là rất hấp dẫn thị trường. Hàng hoá ở chợ Việt Nam từ thế kỷ 17 đã được bổ sung nhiều mặt hàng của phương Tây như gương lược, kim và các đồ dùng phụ nữ khác mang lại món lời lớn. Giáo sĩ Bori (khoảng 1618) cho biết: một hộp kim giá không quá 30 duy-ca (tiền xưa của Venize) mà lãi hơn 1000”[3:107].Các lái phương Tây giới thiệu, nhắn nhau mang những thứ như hoa tai, nhẫn, xuyến đang là các mặt hàng ăn khách đến xứ Đại Việt. Vào thế kỷ 18 các loại nồi gốm truyền thống đã bị cạnh tranh dữ dội bởi nồi niêu xoong chảo bằng gang bằng đồng của phương Tây. Thuốc bắc, thuốc nam và cả thuốc tây cũng đã có mặt từ cuối thế kỷ 17 ở các chợ Đông Kinh (Lê triều cựu điển). Chính Tuyên phi Đặng Thị Huệ của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đã từng uống thuốc dưỡng thai của Tây y. Trầu cau là một mặt hàng cực kỳ thiết yếu của dân chúng Đại Việt đương thời. Nó có mặt khắp hang cùng ngõ hẻm của Kẻ Chợ. Ta hãy nghe A.de Rhodes kể: “Họ có tục đem theo một túi con hay một bị con đầy, đeo ở thắt lưng…Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn…theo đúng phép xã giao…Người ta nói có tới 50 000 người bán lẻ và bán ở nhiều địa điểm trong thành phố”.
Từ chợ nông thôn, chợ thành thị …đến chợ chuyên doanh
Do nhu cầu xã hội tăng vọt và là trung tâm thương mại toàn Đại Việt nên các chợ đầu mối chuyên doanh đã sớm tụ họp vào thế kỷ 17 ở những nơi thuận tiện nhất. Cửa sông Tô Lịch, nơi giao tiếp với sông Hồng xuất hiện chợ chuyên doanh gạo thuộc làng Giang Nguyên (làng Nguồn Sông). Toạ lạc nơi cửa sông chợ Gạo rất thuận tiện cho các tàu thuyền lớn thu mua gạo từ các trấn khác chở về Đông Kinh xuống hàng rồi từ đây phân phối đi khắp các chợ trong vương quốc và chứng tích mong manh là cái tên phố Chợ Gạo còn mãi đến ngày nay. Thậm chí nhiều ghi chép còn lại cho thấy thương lái phương tây đã từng tham gia một cách tích cực vào nghề kinh doanh béo bở này. “…Ngày 12-6-1682 tàu Croonvogel- Hà Lan, tải cùng với hàng khác đến Đàng Ngoài 40 kiện gạo …Tháng 5-1688 tàu Gaasperdam tải đến Đàng Ngoài hơn 80 kiện gạo… được chúa Trịnh Căn để cho buôn bán được dễ dàng…..Tháng 7-1689 tàu đó lại chở đến 80 kiện gạo nữa [3:109]. Có thể đoán định rằng số lượng gạo lớn như vậy phải được phân phối chủ yếu bằng đường thuỷ qua chợ đầu mối là Chợ Gạo Giang Nguyên.
Chợ Cá ở phố Hàng Cá ở sát ngay bên sông Tô Lịch thuộc thôn Đồng Thuận tổng Hậu Túc huyện Thọ Xương. Nơi đây từng có trại “tiên ngư” (cá tươi) vốn là nơi chuyên doanh về cá của kinh thành. Hồ Tây “kho thuỷ sản” tươi sống vô tận cho chợ Cá còn nổi tiếng cho tới ngày nay bởi loại cá Chép và tôm Bạc thơm ngon . A. Rhodes từng nhận xét: “cá ở đây có bán rất nhiều và rẻ mạt, những con ngon nhất và to nhất cân nặng từ 10-12 cân anh [1:90]. Sách Thượng kinh phong vật chí cho biết: “To mà béo là cá Hồ Tây kém gì cá Lư sông Tùng, cá ngon ở hàng bính, cá chép ở sông Hà, cá mè sông Lạc”[2:90]
Chè là một mặt hàng chuyên doanh khác ở khu vực thôn Hương Mính (Chè thơm) ở phía đông bắc Hồ Hoàn Kiếm. Làng này vốn tên nôm là hàng Chè, từ năm Minh Mạng thứ 11 mới bị đổi thành tên Hán- làng Hương minh chạy từ khoảng phố Cầu Gỗ tới khu đền Bà Kiệu ngày nay. Đây là mặt hàng cao cấp của giới thượng lưu, nho sĩ, các gia đình danh gia vọng tộc chốn kinh kỳ. Thế kỷ 17-18 loại chè Mạn Hảo - đặc sản vùng trung du tây bắc Đại Việt (vùng đất này đã được nhập vào bản đồ Vân Nam theo thoả thuận Pháp Thanh cuối thế kỷ 19). Đó cũng chính là nguồn gốc danh từ “chè Mạn” còn tồn tại tới nhữmg năm cuối thế kỷ 20. Các nhà quyền quý thời này uốngtrà rất công phu, họ còn đặt hàng trước các loại chè hiệu “Chính sơn” để phô trương sự sành điệu trà nghệ của mình.
Thời phong kiến, tầng lớp nho sĩ, học trò đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội đó chính là “nguyên khí” của quốc gia. Đối với ho, giấy là mặt hàng thiết dụng tưởng còn cần hơn cả “cơm ăn nước uống”. Câu chuyện Hà Tông Huân, một danh sĩ nhà Trịnh (đỗ Bảng nhãn năm 1724) từng thưởng cho cậu học trò Phan Kính 30.000 tờ giấy viết, đến nỗi không có chỗ để ở nhà trọ phải xin thầy cho gánh dần về dùng đủ thấy lượng giấy tiêu thụ trong xã hội lớn biết nhường nào. Những nhu cầu ấy đã tạo nên cả một chợ chuyên doanh giấy bên bờ sông Tô duyên dáng vùng Dịch Vọng. Chiếc cầu “Thượng gia hạ kiều” nằm kề gần chợ thuộc địa phận làng làm giấy Thượng Yên Quyết cũng được dân chúng đặt tên là “Cầu Giấy”.
Khu phố thương mại Đông Kinh còn có một chợ chuyên doanh mặt hàng đặc biệt nữa-Chợ Yếm Lụa. Trong dân gian từng truyền tụng câu ca dao cổ:
Ước gì sông hẹp một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Hình ảnh văn chương về dải yếm đào đã phần nào nói lên vai trò quan trọng của nó trong đời sống phụ nữ Việt xưa. Yếm vốn không chỉ là một bộ phận trang phục để che đôi “Bầu mơ” mà còn như một món thời trang, trang điểm tôn vinh vẻ đẹp của phái “liễu yếu đào tơ”. Thường yếm để mộc hoặc chuội trắng.Với những cô gái trẻ thích nhuộm màu hoa đào làm đỏm, các phu nhân, mệnh phụ lại dùng màu điều đỏ thắm để tỏ cái vẻ đoan trang chững chạc với đời. Đông Kinh- Kẻ Chợ đã từng có hẳn một chợ chuyên doanh y phục phụ nữ: chợ Yếm Lụa nằm ở phường Đồng Lạc (đoạn đầu phố Hàng Đào). Gần đây người ta đã tìm thấy tấm bia gắn trên tường số nhà 38 Hàng Đào nguyên là đình Đồng Lạc. Nội dung bia khẳng định đây chính là ngôi đình “… Quyến yếm lụa thị (chợ yếm lụa) có từ xa xưa là đình của phường buôn bán yếm và y phục phụ nữ, năm nay hư hỏng nặng được trùng tu”(Bia do cử nhân Phạm Đình Viên soạn năm 1856). Phường Đồng Lạc còn có Chợ Tơ cạnh Hàng Đào chỉ chuyên bán buôn tơ lụa không bán lẻ, họp phiên vào ngày 1 và ngày 6 hàng tháng[11:106]. Thế kỷ 17,18 là thời kỳ “lên hương” của sản phẩm tơ Đại Việt. Chất lương tốt, giá thành rẻ đã đưa tơ xứ Đông Kinh trở thành một trong hai mặt hàng xuất khẩu chính theo các thương thuyền Hà lan, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây ban Nha, Nhật ngựơc xuôi trên hải trình giao thương quốc tế đương thời. Lụa Vạn Phúc là mặt hàng chủ đạo được bán buôn ở chợ Cầu Đơ (Hà Đông) và là đầu mối cung ứng hàng hoá quan trọng cho phố Hàng Lam, Hàng Đào trong kinh thành.
Các chợ chuyên doanh còn xuất hiện theo làng nghề ở các vùng quanh kinh đô. Đó là làng Đa Ngưu chuyên buôn thuốc Bắc ở Hưng Yên từ mấy trăm năm nay. Từ thế kỷ 17, Thổ Hà đã có một nơi chuyên bán đồ gốm ở chợ Tam Bảo.Tấm bia đá khắc năm Chính hoà 14 ghi rõ: “Chợ Tam bảo xã ta mỗi tháng 12 phiên cang sành giao dịch” (KTTCN Triều Nguyễn trang 95).
Chợ chuyên mua bán trâu bò năm ngày họp một phiên ở phía nam Kinh thành. Đi kèm với chợ này là nghề mổ thịt cổ truyền đem bán tại các chợ nhỏ được ghi tạc trong tấm bia dựng năm 1669: “phá xương trâu bò thì dùng búa rìu, cắt thớ thịt thì dùng dao nhọn…”. Lò mổ ở phường Hồng Mai, vùng này còn được triều đình giành cho đặc quyền giết thui trâu bò cung ứng trong các dịp lễ tết [7:54]. Một số chợ chuyên doanh khác được ghi nhận như Chợ gà vịt ở thôn Tân Lập-Tân Khai (gần phố cửa Đông), Chợ thịt chó và chó thịt ở gần thành (phố Hàng Bồ). Thương gia Dampier người Anh (1688) còn cung cấp những thông tin lý thú khác: “……người ta thấy bán ở chợ những loại hàng như lợn, khá nhiều lợn sữa(lợn giống), trứng gà vịt đủ loại to nhỏ tươi và ướp, bã mắm và nước mắm. Ở Kẻ Chợ ta còn thấy bán cả thịt chó, thịt mèo mà người ta còn nói đến cả châu chấu nữa” [8:27].
Khác với chợ ở thành thị, chợ vùng nông thôn, vùng ven kinh đô họp theo phiên nhiều ít tuỳ tình hình kinh tế từng vùng. Đặc điểm của chợ nông thôn là loại chợ tự sản tự tiêu kiểu “cây nhà lá vườn” chợ nông thôn không có hàng quán cố định, không có người thường trực. Chợ thường họp ở bãi đất rộng, đường cái, bến đò ngang. Thực sự chợ nông thôn chủ yếu là nơi đổi chác sản phẩm tự sản của cư dân địa phương phục vụ nhu cầu sinh hoạt hơn là tính thương mại thu lợi nhuận chuyên nghiệp. Người có ổ trứng gà, quầy chuối, ổ chó vv… mang bán đổi lấy miếng thịt lợn, miếng đường phên, manh quần tấm áo tạo dựng từ một hình thức thương mại sơ cấp.
Tuy nhiên dù là chợ nông thôn hay thành thị thì chủ yếu vẫn là phụ nữ tham gia. Du khách Trung quốc Phan Đỉnh Khuê có mặt ở Đông Kinh năm 1688 đã cho biết “việc buôn bán ở Kẻ Chợ bao giờ cũng do phụ nữ đảm nhiệm”. Thậm chí Domoutier còn đếm rõ”… cứ trong 100 người đi chợ, người ta đếm được 84 người là đàn bà con gái”. Chuỗi dãy tư liệu trong các tập nhật ký của Kofler, Gion Oet đều khẳng định vai trò chủ đạo của họ, cả ở việc mối lái chạy hàng với thương gia nước ngoài và một số không ít trong họ đã trở thành vợ của thương gia nước ngoài đảm đương việc gom hàng, đặt hàng khi chồng đi vắng.
Một điều hết sức thú vị là gi cả hàng hoá ở các chợ xưa rất ổn định. Trong sách “Tình hình công thương nghiệp Việt nam thời Lê mạt” của Vương Hoàng Tuyên nêu rõ: “năm1741 giá một con bò là 5 quan tiền… 61 năm sau năm1802 giá một con bò cày cũng đựoc định là 5 quan tiền…
Năm1663, 100 thùng thóc giá 3 quan tiền…Đến năm 1741, 1 quan tiền 50 bát thóc tính ra thùng thì chừng hơn 3 quan 100 thùng thóc, giá thóc đã gần như ổn định suốt gần một thế kỷ với biết bao sự biến thiên, vật đổi sao dời.. Hai thí dụ trên cho ta thấy trong suốt hàng trăm năm các mặt hàng thiết yếu của xã hội gần như không có biến động.
Ngày nay ai cũng phiền lòng về các chợ tự phát và chợ “chồm hổm” lấn áp phố phường, cản trở giao thông…song ít ai biết rằng đó là một tập quán xa xưa của người Việt. Hình ảnh này từ các thế kỷ trước đã được cc gio sĩ phương ty ghi nhận “…người thương nhân ngồi ngay xuống đất bày hàng hoá ra trước mặt họ…tất cả ngồi thành hàng quanh khu đất trống…ở giữa để chừa ra một lối đi cho người cưỡi ngựa hoặc xe bò”, “…việc thành lập một cái chợ không tốn kém gì cả mà chỉ cần đến thời tiết tốt. Người nông dân ngồi ngay xuống đất, trên đường phố, hàng hoá để trong một vuông vải hay trong một cái làn…” [2:86].
Vãn chợ Đông Kinh Kẻ Chợ xưa cho ta thấy lại cái không khí sầm uất náo nhiệt một thời của trung tâm thương mại Đông Kinh - Kẻ Chợ thủa cực thịnh. Sẽ thật có ích, nếu chúng ta có thể tìm lại dấu ấn đời sống thương mại của dân chúng Kẻ Chợ xưa góp phần dần tái hiện lại chân dung về một đô thị Thăng long – Đông Kinh trung đại đầy ký ức vàng son, một phần gương mặt của văn hóa Việt Nam.
T.Q.Dũng 11/2008
Tài liệu tham khảo:
[1] Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài. Alexandre De Rhodes. UBĐK Cơng gio 1994.
[2] Thăng Long H Nội TK 17, 18, 19. Nguyễn Thừa Hỷ. Hội Sử học Việt Nam 1993.
[3] Thương mại Việt Nam TK 17, 18, 19. Thành Thế Vĩ. Nxb. Sử học 1961.
[4] Hà Nội nửa đầu TK XX. Tập 3. Nguyễn Văn Uẩn. Nxb. Hà Nội, 1995.
[5] Vũ trung tuỳ bút. Phạm Đình Hổ. NXB Trẻ. 1989
[6] Một số văn bản pháp luật VN TK 15-18. Viện Nhà nước và Pháp luật. NXB. KHXH 1994.
[7] Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú. NXB Hà Nội 1961.
[8] Voyages and Discoveries 1688. Wiliam Dampier, London 1931.
[9] Văn hóa Việt Nam qua các bưu ảnh cổ. Hội Mỹ thuật VN. NXB Mỹ thuật 2001.
[10]Description du royaume de Tonquin. S.Baron (1680). RI 1914-1915.
[11] Trăm năm chuyện Thăng Long-Hà Nội. Siêu Hải. NXB Thanh niên 2000.
*Bài viết do tác giả Trịnh Quang Dũng gửi riêng cho Nguyễn Xuân Diện-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!
Cám ơn bác Trịnh Quang Dũng rất nhiều. Bài khảo cứu thật giá trị. Đọc mà thương và kính phục cha ông mình đã từng gầy dựng được một khung cảnh thái bình thịnh trị đến thế!
Trả lờiXóaCó nhiều chi tiết rất thú vị và hữu ích, như xuất xứ của cái tên "Chợ Đuổi"; như câu chuyện thầy thưởng cho trò đến 30 ngàn tờ giấy để giúp việc học và chuyện có hẳn một chợ chuyên doanh giấy, những dấu chứng cụ thể về sự hiếu học của dân ta; như chuyện dân số tập trung rất đông, chợ rất nhiều và giá cả hàng hóa rất ổn định trong cả thế kỷ... Đặc biệt về vai trò của phụ nữ trong "doanh nghiệp" và cả các mặt hàng làm đẹp của phái nữ đương thời...
Có hai chỗ tôi chưa hiểu:
- ...Tấm bia đá khắc năm Chính hoà 14 ghi rõ: “Chợ Tam bảo xã ta mỗi tháng 12 phiên cang sành giao dịch” (KTTCN Triều Nguyễn trang 95)...
- ...Hình ảnh văn chương về dải yếm đào đã phần nào nói lên vai trò quan trọng của nó trong đời sống phụ nữ Việt xưa. Yếm vốn không chỉ là một bộ phận trang phục để che đôi “Bầu mơ” mà còn như một món thời trang, trang điểm tôn vinh vẻ đẹp của phái “liễu yếu đào tơ”. Thường yếm để mộc hoặc chuội trắng...
Không biết "cang sành" có nghĩa là gì? Yếm "để mộc" và yếm "chuội trắng" nghĩa là sao?
Có vài chỗ lỗi đánh máy trong bài, tuy đọc vẫn hiểu nhưng hơi uổng.
Xin phép bác Dũng và bác Diện cho tôi được copy bài này và cả những bài chủ đề Tết quá hay, về "cất trong tủ" để học. Cám ơn các bác rất nhiều.
Bài thơ Chợ Tết của cố thi sĩ Đoàn Văn Cừ có lẽ là bài thơ hay nhất từ trước đến nay về chợ tết ở nước ta. Một bài thơ tả cảnh thanh bình, yên vui, đơn sơ, mộc mạc và gần gũi, ấm áp nơi thôn xóm của miền quê Việt Nam. Lạ lùng thay, chợ ngày nay ở các thành phố lớn vào dịp Tết vẫn còn hơi hướm của bài thơ ấy!
Trả lờiXóaCố thi sĩ Đoàn Văn Cừ sáng tác bài thơ này năm 1939, tác giả đã ghi lại cảnh thanh bình, êm ấm của làng quê để rồi từ ấy đất nước chiến tranh, giặc giã liên miên. Những tưởng khói súng lụi tàn thì miền quê lấy lại được cảnh yên vui ngày cũ. Nhưng không phải vậy, những người dân hiền lành chất phác bỗng biến thành dân oan không nhà không cửa ngay trên đất mẹ của mình, có người còn bị tù đày vì cố níu giữ mảnh đất của cha ông.
Biết bao giờ thấy lại quê hương có một ngày bình yên, no ấm?
_______________________
CHỢ TẾT
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
(1939)