Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ trong ký ức hai con
Bài viết nhân 20 năm ngày mất của thi sĩ Xuân Quỳnh và nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ,
29/8/1988 - 29/8/2008.
Đoan Trang
20 năm trôi qua không đủ để xóa hết nỗi đau trong lòng những người ở lại mỗi khi nhớ về đôi vợ chồng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ. Điều ấy càng hằn rõ với hai người con Lưu Tuấn Anh và Lưu Minh Vũ.Lâu nay, cả Tuấn Anh và Minh Vũ đều không muốn nhắc lại chuyện của 20 năm về trước. Nhưng trong những ngày này, hai anh đã mở lòng để kể lại cho chúng tôi nghe về ký ức của “một thời rất đẹp”, trước ngày định mệnh 29 tháng 8 năm 1988.
Lưu Tuấn Anh là con trai của nhà thơ Xuân Quỳnh và người chồng trước của bà - nghệ sĩ violin Lưu Tuấn. Anh sinh năm 1966, lớn tuổi nhất trong ba người con trai của gia đình. Hiện anh là giám đốc kinh doanh của một công ty thiết kế đồ họa - in ấn - quảng cáo ở Hà Nội.
Lưu Minh Vũ (sinh năm 1970) có phần nổi tiếng hơn, anh là biên tập viên của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam, cũng là MC chương trình Hãy chọn giá đúng. Minh Vũ là con của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ và người vợ trước - diễn viên Tố Uyên.Thời thơ ấu, họ cùng sống ở 96A phố Huế (Hà Nội), tập thể của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Minh Vũ ở cùng mẹ và bố dượng tại tầng hai. Tuấn Anh và bố ở tầng bốn. Còn Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ và con trai chung của hai người - Lưu Quỳnh Thơ (sinh năm 1975) - thì ở tầng ba. Tuy nhiên, ba anh em cực kỳ thân thiết, không khác nào anh em ruột thịt. Như Lưu Minh Vũ có nói, thời gian anh sống với “má Quỳnh” nhiều hơn thời gian anh sống với "mẹ Uyên". Nói về thời thơ ấu, anh có nhiều kỷ niệm với má Quỳnh hơn là với mẹ. Do nghệ sĩ Tố Uyên thường phải đi xa, bận bịu với công việc diễn xuất, việc chăm sóc Minh Vũ gần như do Xuân Quỳnh đảm nhận.
Ký ức thời thơ ấu của cả Tuấn Anh và Minh Vũ đều tràn ngập hình ảnh một gia đình hạnh phúc: Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và ba con trai. Cả ba anh em cũng đã là khuôn mẫu ngoài đời cho rất nhiều nhân vật trong các truyện ngắn dành cho thiếu nhi của nhà thơ Xuân Quỳnh.
* * *
Lưu Minh Vũ:
“Tại sao cuộc sống ngày ấy có thể thanh bình đến thế?”
Hồi ấy chúng tôi ở chung một tập thể với nhiều văn nghệ sĩ, như Nguyễn Văn Tý, Phan Huỳnh Điểu, Ngô Huỳnh… Ba anh em không cùng cha mẹ, đúng là một trường hợp điển hình “con anh, con tôi, con chúng ta” đấy, nhưng chúng tôi thân nhau như anh em ruột, do được dạy dỗ rất kỹ. Bố và má luôn giáo dục các con phải nhường nhịn, không được đánh nhau.
Ngày ấy cả xã hội đều nghèo, văn nghệ sĩ cũng vậy, vất vả lắm. Cũng phải tem phiếu, xếp hàng như ai. Bố tôi làm phóng viên cho tạp chí Sân Khấu, do không có bằng cấp gì nên xét theo bậc thì lương của ông chỉ hơn lao công. Thời gian đầu, ông còn không có lương, chỉ có nhuận bút. Sống bằng nhuận bút thì cực lắm, vì có phải lúc nào cũng viết ra bài đều chằn chặn như đan rổ đâu. Nhưng cũng thời gian làm phóng viên ấy khiến ông quen nhiều nghệ sĩ sân khấu và hiểu họ, hiểu tính cách, điệu bộ, kỹ thuật diễn và nói chung là cái “chất” của họ. Sau này, khi viết kịch, có những vở ông viết theo đơn đặt hàng, và các nhân vật gần như được ông thiết kế dành riêng cho một diễn viên nào đấy. Tôi lấy ví dụ như vai ông Quých trong "Tôi và chúng ta", ông viết gần như chỉ để cho diễn viên Trần Kiếm đóng. Sau này, không diễn viên nào thể hiện được cái chất Quých ấy nữa, vai đó đã được đo ni đóng giày cho Trần Kiếm rồi.
Nói riêng về vật chất thì chúng tôi đã sống một thời kỳ khó khăn, trong cái khó khăn chung của đất nước. Bữa cơm thường có những món rất “kinh điển” như lạc, nhộng. Có thịt thì quý lắm lắm. Về sau, bố tôi bắt đầu sáng tác kịch và nổi tiếng, cuộc sống khá hẳn lên. Thỉnh thoảng cả gia đình lại đưa nhau đi ăn tươi.
Bố tôi tính rộng rãi, thoáng đạt, thậm chí bốc đồng. Nhiều khi má nấu cơm rồi, thức ăn có rồi, nhưng ông lại hứng chí đi mua ít thịt gà cho con. Nhìn các con ăn là bố thấy hạnh phúc. Tôi nhớ mãi cái ngày ba anh em được đưa ra bến Phà Đen chơi. Hôm đó bố tôi vừa lĩnh một khoản nhuận bút lớn, khao cả nhà một bữa thịt chó ở phố Lê Quý Đôn. Tôi cầm nguyên cái đùi mà ăn, sung sướng lắm. Cả ba đứa đều sung sướng. Chi tiết xuống bến Phà Đen chơi được má tôi đưa vào truyện ngắn nổi tiếng của bà, “Bến tàu trong thành phố”. Nhân vật Trung Hà và Hưng là anh Tuấn Anh và tôi.
Bố má tôi thương con vô cùng, không bao giờ đánh con dù chỉ một lần. Bác Tuấn (nghệ sĩ violin Lưu Tuấn, bố đẻ Tuấn Anh - NV) cũng yêu quý thằng Mí (tên thân mật của Lưu Quỳnh Thơ - NV), coi nó như con ruột.
Bây giờ nghĩ lại, đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Tại sao ngày ấy cuộc sống lại có thể thanh bình đến thế? Yên ấm, đầy đủ, rất đầy đủ, không phải về vật chất mà là về tình cảm. Đùng một cái, việc dữ xảy ra. Bố má tôi và Mí đi chơi xa… rồi không bao giờ trở về nữa.
Tôi còn nhớ mấy ngày ấy trời Hà Nội cũng mưa nhiều. Tôi vừa có tin đỗ đại học (Minh Vũ học chuyên ngành quay phim, Đại học Sân khấu Điện ảnh - NV) với tổng điểm cao nhất trường, có chỉ tiêu du học. Bố, má và em đi chơi, tôi ở Hà Nội cũng đi chơi suốt ngày, vui lắm.
Tin báo về, tôi không hề biết vì lúc đó có ở nhà đâu. Buổi chiều tôi đi bộ ngang qua nhà diễn viên Kim Oanh ở phố Trần Nhân Tông, thấy cô Oanh chạy ra hốt hoảng hỏi: “Bố có bị làm sao không cháu?”. “Không, cháu chả biết”. Một cái gì đó như linh tính nổi lên, tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Nghe loáng thoáng có tiếng người bên đường bảo: “Thằng Kít (tên thân mật của Minh Vũ - NV) nó về rồi kia kìa”.
Tới nhà, tôi được báo tin bố má và em bị tai nạn, mà cũng chưa biết là cả ba đã mất. Tôi đòi xuống Hải Dương thăm, người nhà giữ lại không cho đi, ấn tôi ngồi xuống, bảo: “Kít ngồi đây. Không đi đâu cả!”. Lúc đó tôi mang máng hiểu. Từ phút ấy, tôi không nhớ gì nữa. Cả một cơn mê. Một cơn ác mộng.
Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Sau cái tang lớn, cả tôi và anh Tuấn Anh đều sa vào khủng hoảng. Ai cũng khuyên bảo tôi cố gắng lên, vực dậy đi, vươn lên mà sống, nhưng nghĩ lại, lúc đó tôi biết vươn lên kiểu gì? Cú sốc quá lớn.
Trước ngày ấy, cuộc sống của tôi như thể thiên đường. 18 tuổi, chuẩn bị đi học nước ngoài, bao nhiêu ước mơ sắp thực hiện – du học, trở thành nhà quay phim. Đời đẹp lắm. Thế rồi hẫng một cái. Tôi vẫn đi Nga, rồi sang Đức học, nhưng bị cảm giác chán chường đè nặng. Chán đến không chịu nổi. Được bốn năm, tức là đến năm 1993, tôi bỏ dở, quay về Việt Nam. Tôi không theo nghề quay phim nữa, chuyển sang học báo chí. Năm 1997, tôi ra trường và vào công tác tại Đài Truyền hình Việt Nam cho đến nay.
Nếu không có sự cố đó, chắc chắn cuộc đời tôi đã khác rất nhiều. Biết đâu tôi có thể ở lại nước ngoài chẳng hạn? Hay là tôi sẽ làm nghề khác chứ không làm MC và biên tập viên truyền hình. Điều chắc chắn là từ sau cú sốc ấy, tôi thay đổi nhiều về tính cách. Tôi không còn hồn nhiên và yêu đời được như xưa.
Đồng nghiệp có người bảo tôi lên hình trông buồn, ít cười quá. Không hiểu có phải mặt tôi đã buồn từ hồi bố má và em mất không. Cũng có thể do tôi không thích vừa nói vừa cười khi dẫn chương trình. Có lý do gì để cười nhỉ? Phụ nữ cười để cho xinh, chứ mình cười thì làm gì?
Bây giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng mơ tới những ngày thơ ấu. Tôi mơ thấy bố, má tôi, thấy ngôi nhà 96A phố Huế. Tôi đã lấy vợ, sinh con, chuyển đến nhà mới 10 năm rồi, nhưng không một lần mơ thấy nhà mới. Tôi chỉ mơ thấy tập thể 96A phố Huế và ký ức thời xa xưa của tôi, lẫn lộn, mơ hồ, như một đám mây.
Lưu Tuấn Anh: “Mẹ mãi là người phụ nữ tuyệt vời nhất
Ngày ấy cả xã hội đều nghèo, văn nghệ sĩ cũng vậy, vất vả lắm. Cũng phải tem phiếu, xếp hàng như ai. Bố tôi làm phóng viên cho tạp chí Sân Khấu, do không có bằng cấp gì nên xét theo bậc thì lương của ông chỉ hơn lao công. Thời gian đầu, ông còn không có lương, chỉ có nhuận bút. Sống bằng nhuận bút thì cực lắm, vì có phải lúc nào cũng viết ra bài đều chằn chặn như đan rổ đâu. Nhưng cũng thời gian làm phóng viên ấy khiến ông quen nhiều nghệ sĩ sân khấu và hiểu họ, hiểu tính cách, điệu bộ, kỹ thuật diễn và nói chung là cái “chất” của họ. Sau này, khi viết kịch, có những vở ông viết theo đơn đặt hàng, và các nhân vật gần như được ông thiết kế dành riêng cho một diễn viên nào đấy. Tôi lấy ví dụ như vai ông Quých trong "Tôi và chúng ta", ông viết gần như chỉ để cho diễn viên Trần Kiếm đóng. Sau này, không diễn viên nào thể hiện được cái chất Quých ấy nữa, vai đó đã được đo ni đóng giày cho Trần Kiếm rồi.
Nói riêng về vật chất thì chúng tôi đã sống một thời kỳ khó khăn, trong cái khó khăn chung của đất nước. Bữa cơm thường có những món rất “kinh điển” như lạc, nhộng. Có thịt thì quý lắm lắm. Về sau, bố tôi bắt đầu sáng tác kịch và nổi tiếng, cuộc sống khá hẳn lên. Thỉnh thoảng cả gia đình lại đưa nhau đi ăn tươi.
Bố tôi tính rộng rãi, thoáng đạt, thậm chí bốc đồng. Nhiều khi má nấu cơm rồi, thức ăn có rồi, nhưng ông lại hứng chí đi mua ít thịt gà cho con. Nhìn các con ăn là bố thấy hạnh phúc. Tôi nhớ mãi cái ngày ba anh em được đưa ra bến Phà Đen chơi. Hôm đó bố tôi vừa lĩnh một khoản nhuận bút lớn, khao cả nhà một bữa thịt chó ở phố Lê Quý Đôn. Tôi cầm nguyên cái đùi mà ăn, sung sướng lắm. Cả ba đứa đều sung sướng. Chi tiết xuống bến Phà Đen chơi được má tôi đưa vào truyện ngắn nổi tiếng của bà, “Bến tàu trong thành phố”. Nhân vật Trung Hà và Hưng là anh Tuấn Anh và tôi.
Bố má tôi thương con vô cùng, không bao giờ đánh con dù chỉ một lần. Bác Tuấn (nghệ sĩ violin Lưu Tuấn, bố đẻ Tuấn Anh - NV) cũng yêu quý thằng Mí (tên thân mật của Lưu Quỳnh Thơ - NV), coi nó như con ruột.
Bây giờ nghĩ lại, đó là khoảng thời gian đẹp nhất cuộc đời tôi. Tại sao ngày ấy cuộc sống lại có thể thanh bình đến thế? Yên ấm, đầy đủ, rất đầy đủ, không phải về vật chất mà là về tình cảm. Đùng một cái, việc dữ xảy ra. Bố má tôi và Mí đi chơi xa… rồi không bao giờ trở về nữa.
Tôi còn nhớ mấy ngày ấy trời Hà Nội cũng mưa nhiều. Tôi vừa có tin đỗ đại học (Minh Vũ học chuyên ngành quay phim, Đại học Sân khấu Điện ảnh - NV) với tổng điểm cao nhất trường, có chỉ tiêu du học. Bố, má và em đi chơi, tôi ở Hà Nội cũng đi chơi suốt ngày, vui lắm.
Tin báo về, tôi không hề biết vì lúc đó có ở nhà đâu. Buổi chiều tôi đi bộ ngang qua nhà diễn viên Kim Oanh ở phố Trần Nhân Tông, thấy cô Oanh chạy ra hốt hoảng hỏi: “Bố có bị làm sao không cháu?”. “Không, cháu chả biết”. Một cái gì đó như linh tính nổi lên, tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Nghe loáng thoáng có tiếng người bên đường bảo: “Thằng Kít (tên thân mật của Minh Vũ - NV) nó về rồi kia kìa”.
Tới nhà, tôi được báo tin bố má và em bị tai nạn, mà cũng chưa biết là cả ba đã mất. Tôi đòi xuống Hải Dương thăm, người nhà giữ lại không cho đi, ấn tôi ngồi xuống, bảo: “Kít ngồi đây. Không đi đâu cả!”. Lúc đó tôi mang máng hiểu. Từ phút ấy, tôi không nhớ gì nữa. Cả một cơn mê. Một cơn ác mộng.
Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Sau cái tang lớn, cả tôi và anh Tuấn Anh đều sa vào khủng hoảng. Ai cũng khuyên bảo tôi cố gắng lên, vực dậy đi, vươn lên mà sống, nhưng nghĩ lại, lúc đó tôi biết vươn lên kiểu gì? Cú sốc quá lớn.
Trước ngày ấy, cuộc sống của tôi như thể thiên đường. 18 tuổi, chuẩn bị đi học nước ngoài, bao nhiêu ước mơ sắp thực hiện – du học, trở thành nhà quay phim. Đời đẹp lắm. Thế rồi hẫng một cái. Tôi vẫn đi Nga, rồi sang Đức học, nhưng bị cảm giác chán chường đè nặng. Chán đến không chịu nổi. Được bốn năm, tức là đến năm 1993, tôi bỏ dở, quay về Việt Nam. Tôi không theo nghề quay phim nữa, chuyển sang học báo chí. Năm 1997, tôi ra trường và vào công tác tại Đài Truyền hình Việt Nam cho đến nay.
Nếu không có sự cố đó, chắc chắn cuộc đời tôi đã khác rất nhiều. Biết đâu tôi có thể ở lại nước ngoài chẳng hạn? Hay là tôi sẽ làm nghề khác chứ không làm MC và biên tập viên truyền hình. Điều chắc chắn là từ sau cú sốc ấy, tôi thay đổi nhiều về tính cách. Tôi không còn hồn nhiên và yêu đời được như xưa.
Đồng nghiệp có người bảo tôi lên hình trông buồn, ít cười quá. Không hiểu có phải mặt tôi đã buồn từ hồi bố má và em mất không. Cũng có thể do tôi không thích vừa nói vừa cười khi dẫn chương trình. Có lý do gì để cười nhỉ? Phụ nữ cười để cho xinh, chứ mình cười thì làm gì?
Bây giờ, tôi vẫn thỉnh thoảng mơ tới những ngày thơ ấu. Tôi mơ thấy bố, má tôi, thấy ngôi nhà 96A phố Huế. Tôi đã lấy vợ, sinh con, chuyển đến nhà mới 10 năm rồi, nhưng không một lần mơ thấy nhà mới. Tôi chỉ mơ thấy tập thể 96A phố Huế và ký ức thời xa xưa của tôi, lẫn lộn, mơ hồ, như một đám mây.
Lưu Tuấn Anh: “Mẹ mãi là người phụ nữ tuyệt vời nhất
Tuổi thơ của tôi không thể gọi là yên bình vì tôi đã nghe tiếng bom gầm ở Hà Nội năm 1972, phải đi sơ tán và rồi chứng kiến bố mẹ tôi chia ly. Nhưng tôi lại không phải xa mẹ chút nào. Ngược lại, tôi có một gia đình thứ hai - gia đình mẹ và bố dượng tôi.
Tôi đã có những ngày thật đầm ấm bên mẹ, chú Vũ và các em. Tôi vẫn nhớ như in cái không khí của một gia đình tràn đầy tình yêu thương và nghệ thuật. Tôi nhớ ánh mắt mẹ và chú Vũ trìu mến khi thấy các con sum vầy. Tôi nhớ căn phòng của mẹ và bố dượng đầy sách, các bản thảo và các bức vẽ trên tường. Những bữa ăn có đủ cả nhà thì chẳng bao giờ thiếu chuyện, dẫu chỉ là cơm rau.
Còn những buổi tối cả nhà đi xem kịch của chú Vũ nữa, sao mà vui thế. Anh em chúng tôi luôn ríu rít bên nhau mặc dù không cùng cha cùng mẹ. Minh Vũ hồi đó béo tròn và rất thích chơi những trò tai quái. Tôi cũng nghịch ngợm chẳng kém, nhưng ít nói và lầm lì hơn.
Em trai út Lưu Quỳnh Thơ có tên ở nhà là Mí. Mí dễ thương lắm; da trắng, môi đỏ, mắt to mà tóc để dài như con gái. Mí rất thông minh, học cái gì cũng giỏi và nhanh tới mức kinh ngạc. Ở trường, nó thường ở trong nhóm 5 học sinh đứng đầu lớp.
Mí có năng khiếu bẩm sinh về hội họa. Trẻ ba tuổi thường cầm bút chưa vững, thế mà Mí đã vẽ thành thạo bằng cả bút chì lẫn màu nước. Ba tuổi rưỡi, nó được giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi vẽ quốc tế do UNESCO tổ chức với chủ đề “Năm 2000 em sống như thế nào”. Nó vẽ một cậu bé cưỡi ngựa đang bồng bềnh trong một vườn hoa trông như cái hồ sen. Bức tranh ấy bây giờ Minh Vũ vẫn giữ. Trong số các cuốn thơ “Bầu trời trong quả trứng” của mẹ từng xuất bản, có một cuốn do Mí tự minh họa.
Mí ít tuổi như vậy nhưng nó sống tình cảm và và rất biết quan tâm tới bố mẹ và các anh. Hồi đó nhà tập thể tôi chỉ có nước máy ở tầng một. Tôi và Minh Vũ có nhiệm vụ xách nước lên tầng ba cho mẹ nấu cơm và rửa bát. Mí mới 10 tuổi không phải làm việc nặng nhưng lại tự xung phong xách nước cho mẹ. Nó thương mẹ, sợ mẹ phải xách nước khi các anh mải chơi mà không làm. Nghĩ lại cảnh Mí nhỏ vậy mà cố xách hai cái bình nước bằng nhựa lớn đi lên cầu thang là tôi lại xót xa.
Hồi đó, tôi còn trẻ con, rất vô tư, ham chơi và chẳng nghĩ gì nhiều về gia đình. Tôi thấy mọi người khen mẹ làm thơ hay nhưng chẳng bao giờ đọc kỹ một bài thơ của mẹ. Điều quan trọng nhất với tôi là được mẹ thương yêu, còn thơ của mẹ ra sao thì chẳng phải chuyện tôi quan tâm. Tôi được bao bọc trong tình thương của mẹ và gia đình.
Với niềm tin của một đứa trẻ, tôi cứ nghĩ những ngày đầm ấm đó sẽ kéo dài mãi. Thế rồi cái ngày 29 tháng 8 định mệnh đó đến, thế giới quanh tôi sụp đổ hoàn toàn. Bỗng chốc tôi không còn mẹ, không còn bố dượng và không còn đứa em út. Lúc đó tôi mới hiểu rằng chẳng có điều gì trên đời này là vĩnh cửu, kể cả người thân và những niềm hạnh phúc.
Tôi khi đó đã tốt nghiệp đại học và đang làm biên tập viên cho Thông tấn xã Việt Nam. Mang tiếng là người lớn và đã đi làm, nhưng tôi vẫn còn quá trẻ con để chịu đựng một sự mất mát nghiệt ngã như vậy. Sau cái ngày đó, tôi ốm và suy sụp hoàn toàn. Tôi thay đổi hẳn và không còn là tôi trước đó nữa. Sự vô tư trong con người tôi biến mất, thay vào đó là sự suy tư và bất cần. Mọi thứ với tôi đều trở nên trống rỗng và vô nghĩa. Lần đầu tiên trong đời, tôi đặt câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.
Tôi ngơ ngác tự hỏi: “Cuộc sống tại sao lại bất công như vậy? Tại sao những người, tài năng, nhân hậu và có ích cho đời lại phải chết? Vậy thì ta phấn đấu vì những điều tốt đẹp để làm gì? Mất bao nhiêu năm tháng để một ngày lại ra đi vô lý như thế ư? Em Mí của tôi chỉ là một đứa trẻ. Nó có tội tình gì? Nó ngoan hiền thế mà trời nỡ lòng nào bắt nó đi?”.
Mất nhiều tháng sau, tôi sống trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh với những ý nghĩ luẩn quẩn và bi quan. Tôi nghỉ làm, ở nhà giở thơ của mẹ và bố dượng và đọc từng bài. Đọc bằng hết, điều trước đây tôi chưa từng làm. Lúc đó tôi mới thực hiểu mẹ hiểu bố dượng và sự lớn lao trong tâm hồn của cả hai người. Mỗi lần đọc thơ là một lần tôi khóc. Tôi trách mình vô tâm với mẹ và chú Vũ quá và thật khó để tự tha thứ. Rồi sau bao dằn vặt, cũng đến lúc tôi tự nhủ mình: “Nếu mẹ, chú Vũ và em Mí còn sống, chắc chắn không ai muốn thấy mình chán nản và mất niềm tin như thế này”.
Vậy là tôi bắt đầu dùng lý trí để lấy lại thăng bằng. Tôi cố gắng sống vì mẹ tôi, bố dượng tôi, và em Mí. Tôi cố gắng sống vì những người thân yêu còn lại của tôi, trong đó có Minh Vũ - người bây giờ với tôi còn hơn em ruột. Tôi phục hồi dần dần.
Trong con mắt tôi, mẹ là một người phụ nữ vẹn toàn. Ngoài tài năng thơ, cho tới giờ mẹ tôi luôn là một hình mẫu sống cho tôi về lòng nhân ái và các giá trị làm người. Ngay từ những năm tôi còn rất bé, tôi đã nghe mẹ nói về trách nhiệm của người viết văn đối với xã hội. Mẹ nói với tôi rằng cuộc sống có cái thiện và cũng có nhiều cái ác. Nhưng mẹ chỉ viết về cái thiện mà tránh nói nhiều tới những điều xấu xa của cuộc sống.
Mẹ bảo tôi, một tác phẩm tốt phải khiến người đọc yêu và trân trọng cuộc sống hơn, hướng thiện hơn. Nếu đề cập quá nhiều tới những điều tiêu cực, kể cả đó là sự thật, nhà văn có thể làm người đọc mất niềm tin và nhìn đời một cách méo mó. Những truyện thiếu nhi của mẹ tôi thường có bóng dáng của ba anh em, như “Quà tặng chú hề” là về cu Mí đấy. Truyện nào cũng hướng tới giáo dục cho thiếu nhi tình yêu thương, bắt đầu từ yêu thương những người gần gũi nhất của các em trong gia đình là ông bà, bố mẹ hay anh em rồi tới bạn bè, hàng xóm, thầy cô giáo.
Thơ của mẹ tôi cũng phản ánh con người bà. Nó trong sáng, dung dị và chan chứa tình thương, tình yêu thiên nhiên, con người. Các bài thơ của mẹ có thể buồn nhưng không u ám, không bao giờ cay đắng và oán trách. Mẹ tôi là thế, hy sinh nhiều, chịu thiệt thòi rất nhiều nhưng tấm lòng vẫn luôn rộng mở và bao dung. Bởi bà có một niềm tin đặc biệt mãnh liệt vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống và trong mỗi con người.
Thú thật, tôi không để ý nhiều tới ngôn từ trong các tác phẩm của mẹ hay số lượng tác phẩm. Tôi nghĩ cái quý giá hơn cả là những giá trị nhân văn mà mẹ tôi để lại trong các tác phẩm đó. Chưa nói tới tác động xã hội, mà những gì mẹ tôi viết ra có tác động ngay trong gia đình chúng tôi. Đọc truyện "Bến tàu trong thành phố", tôi suy nghĩ nhiều lắm. Tôi bắt đầu có ý thức làm anh rõ ràng hơn với các em và biết nhường nhịn các em hơn. Tôi hiểu qua câu chuyện ấy, mẹ tôi muốn anh em chúng tôi yêu mến và gắn bó với nhau.
Nói về chú Vũ thì phần nhiều công chúng biết chú ấy qua các vở kịch với tư cách là người viết kịch. Nhưng không phải ai cũng biết chú ấy là một nhà thơ tầm cỡ. Có một số người trong giới văn đánh giá chú là tài năng thơ lớn và thuộc loại hiếm. Tôi cho rằng họ nói như vậy là rất có cơ sở chứ không phóng đại. Vấn đề là thơ của chú Vũ kén độc giả và không phải ai đọc cũng hiểu. Có thể vì vậy mà nó không mang tính đại chúng cao. Để cảm nhận được thơ của chú ấy thì độc giả phải là người có nội tâm khá đặc biệt.
Tôi thích thơ của chú Vũ vì cái tính lạ lùng vừa phóng khoáng vừa sâu thẳm của nó. Bài thơ khiến tôi xúc động nhất và cũng ám ảnh tôi nhiều nhất là “Bài hát ấy vẫn còn là dang dở”. Đọc đi đọc lại, tôi có cảm giác nó dường như là linh cảm của chú Vũ về ngày từ biệt. Nó vừa da diết luyến tiếc cuộc sống quá ngắn ngủi vừa mang sự mãn nguyện của một người đã làm xong nhiều việc lớn.
"Nắng đã tắt dần trên lá im
Chiều đã xẫm màu xanh trong mắt tối
Đường đã hết trước biển cao vời vợi
Tay đã buông khi vừa dứt cung đàn
Gió đã dừng nơi cuối chót không gian
Mưa đã tạnh ở trong lòng đất thẳm
Người đã sống hết tận cùng năm tháng
Sau vô biên sẽ chỉ có vô biên..."
Chú Vũ ra đi khi đang sung sức sáng tác nhưng cũng đã kịp hoàn thành rất nhiều tác phẩm. Chú ấy đi trong mãn nguyện sau khi để lại cho đời rất nhiều, đúng như câu kết của bài thơ vậy: “Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt”.
20 năm qua rồi. Tất cả những gì gợi nhớ chuyện ngày ấy đều làm cho tôi buồn. Tôi tránh đọc thơ và không muốn xem kịch, vì sợ những kỷ niệm ngày xưa quay về. Tôi không theo nghề báo mà đi làm công tác nhân đạo rồi chuyển sang kinh doanh. Cái thế giới thực tế của kinh doanh phần nào giúp tôi vượt qua cảm xúc của mình và vững vàng trong thực tại.
Tôi cũng đã có có gia đình yên ấm riêng của mình với nhiều niềm vui mới. Mỗi lần gia đình tôi và gia đình Minh Vũ tới thăm nhau, anh em tôi ngồi ngắm lũ trẻ chơi đùa trong cái cảm giác được chia sẻ và bù đắp. Nhưng sự thật là dù 20 năm có trôi qua và tôi đã có quá nhiều thay đổi, nỗi đau vẫn không mất đi. Mãi mãi không mất.
*Xin cảm ơn Nhà báo Đoan Trang đã vui lòng cho phép Tễu-Blog đăng tải bài viết này.
-------------
Thời sinh viên, có đôi lần tôi đã đạp xe từ Thượng Đình (Ngã Tư Sở) xuống Văn Điển, để viếng mộ Nguyễn Tuân, Xuân Diệu và gia đình Lưu Quang Vũ. Từ đó đến nay, mỗi lần có dịp đến Văn Điển (viếng tang, viếng mộ, thanh minh) tôi đều đến bên mộ gia đình Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh - Lưu Quỳnh Thơ. Có khi đến viếng mà trên tay không mang theo hương hoa, nhưng tôi tin là gia đình họ đã chứng giám tấm lòng ngưỡng mộ và thương nhớ của tôi - dù chưa một lần gặp mặt.
Tôi đã có những ngày thật đầm ấm bên mẹ, chú Vũ và các em. Tôi vẫn nhớ như in cái không khí của một gia đình tràn đầy tình yêu thương và nghệ thuật. Tôi nhớ ánh mắt mẹ và chú Vũ trìu mến khi thấy các con sum vầy. Tôi nhớ căn phòng của mẹ và bố dượng đầy sách, các bản thảo và các bức vẽ trên tường. Những bữa ăn có đủ cả nhà thì chẳng bao giờ thiếu chuyện, dẫu chỉ là cơm rau.
Còn những buổi tối cả nhà đi xem kịch của chú Vũ nữa, sao mà vui thế. Anh em chúng tôi luôn ríu rít bên nhau mặc dù không cùng cha cùng mẹ. Minh Vũ hồi đó béo tròn và rất thích chơi những trò tai quái. Tôi cũng nghịch ngợm chẳng kém, nhưng ít nói và lầm lì hơn.
Em trai út Lưu Quỳnh Thơ có tên ở nhà là Mí. Mí dễ thương lắm; da trắng, môi đỏ, mắt to mà tóc để dài như con gái. Mí rất thông minh, học cái gì cũng giỏi và nhanh tới mức kinh ngạc. Ở trường, nó thường ở trong nhóm 5 học sinh đứng đầu lớp.
Mí có năng khiếu bẩm sinh về hội họa. Trẻ ba tuổi thường cầm bút chưa vững, thế mà Mí đã vẽ thành thạo bằng cả bút chì lẫn màu nước. Ba tuổi rưỡi, nó được giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi vẽ quốc tế do UNESCO tổ chức với chủ đề “Năm 2000 em sống như thế nào”. Nó vẽ một cậu bé cưỡi ngựa đang bồng bềnh trong một vườn hoa trông như cái hồ sen. Bức tranh ấy bây giờ Minh Vũ vẫn giữ. Trong số các cuốn thơ “Bầu trời trong quả trứng” của mẹ từng xuất bản, có một cuốn do Mí tự minh họa.
Mí ít tuổi như vậy nhưng nó sống tình cảm và và rất biết quan tâm tới bố mẹ và các anh. Hồi đó nhà tập thể tôi chỉ có nước máy ở tầng một. Tôi và Minh Vũ có nhiệm vụ xách nước lên tầng ba cho mẹ nấu cơm và rửa bát. Mí mới 10 tuổi không phải làm việc nặng nhưng lại tự xung phong xách nước cho mẹ. Nó thương mẹ, sợ mẹ phải xách nước khi các anh mải chơi mà không làm. Nghĩ lại cảnh Mí nhỏ vậy mà cố xách hai cái bình nước bằng nhựa lớn đi lên cầu thang là tôi lại xót xa.
Hồi đó, tôi còn trẻ con, rất vô tư, ham chơi và chẳng nghĩ gì nhiều về gia đình. Tôi thấy mọi người khen mẹ làm thơ hay nhưng chẳng bao giờ đọc kỹ một bài thơ của mẹ. Điều quan trọng nhất với tôi là được mẹ thương yêu, còn thơ của mẹ ra sao thì chẳng phải chuyện tôi quan tâm. Tôi được bao bọc trong tình thương của mẹ và gia đình.
Với niềm tin của một đứa trẻ, tôi cứ nghĩ những ngày đầm ấm đó sẽ kéo dài mãi. Thế rồi cái ngày 29 tháng 8 định mệnh đó đến, thế giới quanh tôi sụp đổ hoàn toàn. Bỗng chốc tôi không còn mẹ, không còn bố dượng và không còn đứa em út. Lúc đó tôi mới hiểu rằng chẳng có điều gì trên đời này là vĩnh cửu, kể cả người thân và những niềm hạnh phúc.
Tôi khi đó đã tốt nghiệp đại học và đang làm biên tập viên cho Thông tấn xã Việt Nam. Mang tiếng là người lớn và đã đi làm, nhưng tôi vẫn còn quá trẻ con để chịu đựng một sự mất mát nghiệt ngã như vậy. Sau cái ngày đó, tôi ốm và suy sụp hoàn toàn. Tôi thay đổi hẳn và không còn là tôi trước đó nữa. Sự vô tư trong con người tôi biến mất, thay vào đó là sự suy tư và bất cần. Mọi thứ với tôi đều trở nên trống rỗng và vô nghĩa. Lần đầu tiên trong đời, tôi đặt câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.
Tôi ngơ ngác tự hỏi: “Cuộc sống tại sao lại bất công như vậy? Tại sao những người, tài năng, nhân hậu và có ích cho đời lại phải chết? Vậy thì ta phấn đấu vì những điều tốt đẹp để làm gì? Mất bao nhiêu năm tháng để một ngày lại ra đi vô lý như thế ư? Em Mí của tôi chỉ là một đứa trẻ. Nó có tội tình gì? Nó ngoan hiền thế mà trời nỡ lòng nào bắt nó đi?”.
Mất nhiều tháng sau, tôi sống trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh với những ý nghĩ luẩn quẩn và bi quan. Tôi nghỉ làm, ở nhà giở thơ của mẹ và bố dượng và đọc từng bài. Đọc bằng hết, điều trước đây tôi chưa từng làm. Lúc đó tôi mới thực hiểu mẹ hiểu bố dượng và sự lớn lao trong tâm hồn của cả hai người. Mỗi lần đọc thơ là một lần tôi khóc. Tôi trách mình vô tâm với mẹ và chú Vũ quá và thật khó để tự tha thứ. Rồi sau bao dằn vặt, cũng đến lúc tôi tự nhủ mình: “Nếu mẹ, chú Vũ và em Mí còn sống, chắc chắn không ai muốn thấy mình chán nản và mất niềm tin như thế này”.
Vậy là tôi bắt đầu dùng lý trí để lấy lại thăng bằng. Tôi cố gắng sống vì mẹ tôi, bố dượng tôi, và em Mí. Tôi cố gắng sống vì những người thân yêu còn lại của tôi, trong đó có Minh Vũ - người bây giờ với tôi còn hơn em ruột. Tôi phục hồi dần dần.
Trong con mắt tôi, mẹ là một người phụ nữ vẹn toàn. Ngoài tài năng thơ, cho tới giờ mẹ tôi luôn là một hình mẫu sống cho tôi về lòng nhân ái và các giá trị làm người. Ngay từ những năm tôi còn rất bé, tôi đã nghe mẹ nói về trách nhiệm của người viết văn đối với xã hội. Mẹ nói với tôi rằng cuộc sống có cái thiện và cũng có nhiều cái ác. Nhưng mẹ chỉ viết về cái thiện mà tránh nói nhiều tới những điều xấu xa của cuộc sống.
Mẹ bảo tôi, một tác phẩm tốt phải khiến người đọc yêu và trân trọng cuộc sống hơn, hướng thiện hơn. Nếu đề cập quá nhiều tới những điều tiêu cực, kể cả đó là sự thật, nhà văn có thể làm người đọc mất niềm tin và nhìn đời một cách méo mó. Những truyện thiếu nhi của mẹ tôi thường có bóng dáng của ba anh em, như “Quà tặng chú hề” là về cu Mí đấy. Truyện nào cũng hướng tới giáo dục cho thiếu nhi tình yêu thương, bắt đầu từ yêu thương những người gần gũi nhất của các em trong gia đình là ông bà, bố mẹ hay anh em rồi tới bạn bè, hàng xóm, thầy cô giáo.
Thơ của mẹ tôi cũng phản ánh con người bà. Nó trong sáng, dung dị và chan chứa tình thương, tình yêu thiên nhiên, con người. Các bài thơ của mẹ có thể buồn nhưng không u ám, không bao giờ cay đắng và oán trách. Mẹ tôi là thế, hy sinh nhiều, chịu thiệt thòi rất nhiều nhưng tấm lòng vẫn luôn rộng mở và bao dung. Bởi bà có một niềm tin đặc biệt mãnh liệt vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống và trong mỗi con người.
Thú thật, tôi không để ý nhiều tới ngôn từ trong các tác phẩm của mẹ hay số lượng tác phẩm. Tôi nghĩ cái quý giá hơn cả là những giá trị nhân văn mà mẹ tôi để lại trong các tác phẩm đó. Chưa nói tới tác động xã hội, mà những gì mẹ tôi viết ra có tác động ngay trong gia đình chúng tôi. Đọc truyện "Bến tàu trong thành phố", tôi suy nghĩ nhiều lắm. Tôi bắt đầu có ý thức làm anh rõ ràng hơn với các em và biết nhường nhịn các em hơn. Tôi hiểu qua câu chuyện ấy, mẹ tôi muốn anh em chúng tôi yêu mến và gắn bó với nhau.
Nói về chú Vũ thì phần nhiều công chúng biết chú ấy qua các vở kịch với tư cách là người viết kịch. Nhưng không phải ai cũng biết chú ấy là một nhà thơ tầm cỡ. Có một số người trong giới văn đánh giá chú là tài năng thơ lớn và thuộc loại hiếm. Tôi cho rằng họ nói như vậy là rất có cơ sở chứ không phóng đại. Vấn đề là thơ của chú Vũ kén độc giả và không phải ai đọc cũng hiểu. Có thể vì vậy mà nó không mang tính đại chúng cao. Để cảm nhận được thơ của chú ấy thì độc giả phải là người có nội tâm khá đặc biệt.
Tôi thích thơ của chú Vũ vì cái tính lạ lùng vừa phóng khoáng vừa sâu thẳm của nó. Bài thơ khiến tôi xúc động nhất và cũng ám ảnh tôi nhiều nhất là “Bài hát ấy vẫn còn là dang dở”. Đọc đi đọc lại, tôi có cảm giác nó dường như là linh cảm của chú Vũ về ngày từ biệt. Nó vừa da diết luyến tiếc cuộc sống quá ngắn ngủi vừa mang sự mãn nguyện của một người đã làm xong nhiều việc lớn.
"Nắng đã tắt dần trên lá im
Chiều đã xẫm màu xanh trong mắt tối
Đường đã hết trước biển cao vời vợi
Tay đã buông khi vừa dứt cung đàn
Gió đã dừng nơi cuối chót không gian
Mưa đã tạnh ở trong lòng đất thẳm
Người đã sống hết tận cùng năm tháng
Sau vô biên sẽ chỉ có vô biên..."
Chú Vũ ra đi khi đang sung sức sáng tác nhưng cũng đã kịp hoàn thành rất nhiều tác phẩm. Chú ấy đi trong mãn nguyện sau khi để lại cho đời rất nhiều, đúng như câu kết của bài thơ vậy: “Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt”.
20 năm qua rồi. Tất cả những gì gợi nhớ chuyện ngày ấy đều làm cho tôi buồn. Tôi tránh đọc thơ và không muốn xem kịch, vì sợ những kỷ niệm ngày xưa quay về. Tôi không theo nghề báo mà đi làm công tác nhân đạo rồi chuyển sang kinh doanh. Cái thế giới thực tế của kinh doanh phần nào giúp tôi vượt qua cảm xúc của mình và vững vàng trong thực tại.
Tôi cũng đã có có gia đình yên ấm riêng của mình với nhiều niềm vui mới. Mỗi lần gia đình tôi và gia đình Minh Vũ tới thăm nhau, anh em tôi ngồi ngắm lũ trẻ chơi đùa trong cái cảm giác được chia sẻ và bù đắp. Nhưng sự thật là dù 20 năm có trôi qua và tôi đã có quá nhiều thay đổi, nỗi đau vẫn không mất đi. Mãi mãi không mất.
*Xin cảm ơn Nhà báo Đoan Trang đã vui lòng cho phép Tễu-Blog đăng tải bài viết này.
-------------
Thời sinh viên, có đôi lần tôi đã đạp xe từ Thượng Đình (Ngã Tư Sở) xuống Văn Điển, để viếng mộ Nguyễn Tuân, Xuân Diệu và gia đình Lưu Quang Vũ. Từ đó đến nay, mỗi lần có dịp đến Văn Điển (viếng tang, viếng mộ, thanh minh) tôi đều đến bên mộ gia đình Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh - Lưu Quỳnh Thơ. Có khi đến viếng mà trên tay không mang theo hương hoa, nhưng tôi tin là gia đình họ đã chứng giám tấm lòng ngưỡng mộ và thương nhớ của tôi - dù chưa một lần gặp mặt.
Hai bài viết thật cảm động của 2 người con của Xuân quỳnh và Lưu Quang Vũ . Đọc mà thấy rưng rưng vì tiếc thương cho 3 tài năng đã ra đi quá sớm . Rất mong vợ chồng nhà thơ Xuân Quỳnh và bé Mí yên nghỉ thật thanh thản chốn vĩnh hằng .
Trả lờiXóa