TS. Đinh Hoàng Thắng
Bài đăng trên báo Văn Nghệ: http://baovannghe.com.vn/noi-vong-tay-lon-kien-tao-cac-moi-quan-he-chien-luoc-dai-han-18191.html Phiên bản gốc bị báo Văn Nghệ cắt-đục-bỏ hai chỗ quan trọng: (1) “Ba đặc khu” là OBOR trá
hình, bị chữa thành “Thận trong với mô hình cũ”; (2) “Ta càng nhân nhượng, kẻ muốn
ăn thịt ta càng lấn tới” (lấy ý từ lời kêu gọi của Hồ Chí Minh). Sau cách mạng
Tháng Tám là như vậy, từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay lại càng như vậy!
Câu này bỉ đục-bỏ hoàn toàn! Điều này chứng tỏ: (1) Chính quyền rất ngại người
dân biết “Ba đặc khu” nằm trong “Sáng kiến Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung
Quốc, nên báo Văn Nghệ phải đổi cái subtitle này! (2) “Hội nghị Thành Đô” vẫn còn
là một “từ khoá” đầy huý kỵ trong từ điển chính trị đương đại ở Việt Nam. Lộ ra
câu chuyện Thành Đô thì dù có trích lời từ Hồ Chí Minh cũng bị xoá bỏ!
Những ngày “Tết Độc
lập” năm nay, cả nước tuy được tưới tắm các giá trị của hòa bình thật đấy,
nhưng dấu ấn của bất định và bất toàn vẫn còn đeo đẳng khôn nguôi. Từ Hội nghị Ngoại
giao lần trước (tháng 8/2016), Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã khái quát các điều
kiện quốc tế của ta: “Ở bên ngoài, môi trường chiến lược của nước ta đã và đang
nổi lên nhiều thách thức chưa từng có, tác động trực tiếp đến các lợi ích an
ninh và phát triển”[1]. Tại Hội nghị Ngoại giao lần
này (tháng 8/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đánh giá, trước đây
ta nhận định tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp,
khó lường, cho đến nay nhận định ấy vẫn giữ nguyên giá trị; môi trường đối ngoại
trong những năm tới sẽ còn phức tạp, sẽ còn khó lường. Tổng Bí thư chỉ thị cho
đội ngũ làm công tác đối ngoại “cần thường xuyên theo dõi sát các diễn biến và
dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình bên ngoài và nhất là đánh giá
thật kỹ các tác động đến Việt Nam, để không bị động, bất ngờ và có đối sách
đúng”[2].
Vòng tròn định mệnh…
Mãi mãi về sau,
các thế hệ người Việt sẽ còn nhắc lại cái thời khốn khó, cái thế đứng chông
chênh của những ngày tháng Tám năm ấy… “Ôn cố tri tân” cũng là cách để góp phần
giải bài toán hiện tại. Lịch sử ngoại giao Việt Nam ghi nhận tầm nhìn xuyên
không—thời gian của “những năm tháng không thể quên” ấy khi chúng ta khẳng định
chính sách ngoại giao của nước Việt Nam mới là thân thiện với tất cả các nước.
Riêng đối với Trung Hoa và Mỹ, chúng ta có mối cảm tình đặc biệt. Trung Hoa là
nước gần gũi ta nhất về địa thế, về sinh hoạt, kinh tế cũng như về văn hoá. Còn
Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc
đánh bại kẻ thù của ta nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt[3].
Lịch sử cũng đã ghi nhận“Tạm ước
14/9/1946” vào thời điểm bấy giờ là một giải pháp chính trị linh hoạt, tài
tình nhằm cứu vãn Hội nghị Phôngtennơblô và kéo dài thêm khoảng thời gian hòa
bình quý giá, để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến trường kỳ của dân tộc. Giai đoạn tiếp sau đó, Hồ Chí Minh còn viết tới 8
lá thư gửi Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ mà nội dung chủ yếu là yêu cầu Mỹ ủng
hộ tinh thần cho nền độc lập mới thu hồi của Việt Nam, nhưng rồi tất cả đều rơi
vào im lặng. Hồ Chí Minh buộc phải tìm một chọn lựa khác…
73 năm trôi qua,
lịch sử lởn vởn cái nguy cơ lặp lại “vòng xoáy định mệnh” tháng 8/1945. Đọc kỹ “Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam”
của James Burnham, chuyên gia phân tích từ Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS),
tiền thân của CIA ngày nay, có thể chiêm nghiệm thêm cái “điềm báo” bất ổn năm
nào. Hồi bấy giờ, Burnham từng coi chiến tranh Việt Nam là một phần của cuộc
tranh hùng để giành quyền kiểm soát Đông Nam Á và chiếm thế thượng phong tại
Tây Thái Bình Dương. Trong một báo cáo đề ngày 20/11/1964, ông nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề
địa phương, không phải là vấn đề cục bộ. Đó là một trận chiến quan trọng trong
cuộc tranh giành châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”[4]. Hơn nửa thế kỷ
sau, Biển Đông lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” đã được thay thế.
Trung Quốc từ chỗ “chống lưng” cho Việt Nam (trong kháng chiến) mà mục đích tối
hậu cũng là mượn đường xuống Đông Nam Á, thì nay vẫn kiên định mục tiêu bá quyền
ấy, nhưng đã bước lên vũ đài trong một tâm địa khác xưa. Với “giấc mộng Trung
Hoa”, Trung Quốc quyết vượt đại dương để “ăn thua” với Hoa Kỳ, về lâu dài nhằm
thay đổi “Trật tự quốc tế” hiện nay. Điều trớ trêu là Việt Nam luôn nằm trên
con đường hành tiến của người Trung Quốc. Nói bang giao Việt—Mỹ là quan trọng,
nhưng nó luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là nhìn nhận từ cái lăng kính địa—chính
trị khắc nghiệt ấy.
Và giờ đây, kịch
bản cũ hoàn toàn có thể xẩy ra, nếu Việt Nam không nhanh chóng hoá giải được điều
mà Tổng bí thư cũng nhấn mạnh tại Hội nghị Ngoại giao năm nay: “Trong quan hệ với các đối tác quan trọng,
nhất là các nước lớn, có những ‘điểm nghẽn’ nào cần tháo gỡ hoặc khâu ‘đột phá’
nào cần mở ra?”[5]
Tổng bí thư nêu vấn đề một cách khá sát sườn : “Các khuôn khổ quan hệ đã ký kết có tạo được hiệu quả tương xứng với
tên gọi hay còn mang nặng tính hình thức? Có giúp xử lý một cách hiệu quả các vấn
đề phát sinh không?”[6] Đặt ra câu hỏi
cũng là một cách trả lời. Thực tế vừa qua, khi Trung Quốc ép Việt Nam không được
khai thác các giếng dầu ngay trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
mình, ấy vậy mà không một đối tác chiến lược (ĐTCL) nào trong hơn hai chục ĐTCL
đứng ra “chống lưng” góp phần giúp Việt Nam “xử lý một cách hiệu quả” các vấn đề
phát sinh ấy. Rõ ràng, tình hình thật đáng đáng phải báo động.
Thời đại cuốn màn sương…
Ảnh Ban nhạc Hạm đội 7 đang biễu
diễn bài “Nối vòng tay lớn”:
"Rừng núi giang tay nối lại biển xa…” Ban nhạc Hạm đội 7 Hoa Kỳ “phiêu” cùng người dân Đà Nẵng dưới chân cầu Rồng. Một đêm nhạc không thể nào xúc động hơn… được tổ chức trong không gian mở là khu vực hoạt động văn hóa đã thu hút hàng trăm người dân cỗ võ cho một tương lai mới mẻ đang hé chào. Những giọt nước mắt tràn đầy hạnh phúc nhưng cũng thật cay đắng… Không biết khi sáng tác ca từ này, “người hát rong” họ Trịnh thuở ấy có nghĩ rằng, rồi một ngày… “Nối vòng tay lớn” sẽ được những người bạn từ bên kia Thái Bình Dương, trình diễn ngay tại thành phố Đà Nẵng “có cứng mới đứng đầu gió” này — một biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, vì sự hội nhập toàn diện của Việt Nam bung ra với thế giới?
Lịch sử sẽ còn nhắc
lại tuyên bố nổi tiếng của Donald Trump tại Đà Nẵng (tháng 11/2017): “Tôi rất vinh dự được có mặt tại Việt Nam — vùng
trung tâm của khu vực Ấn Thái Dương để phát biểu trước người dân và các lãnh đạo
doanh nghiệp nơi này”[7] (FOIP). Từ cột mốc
đáng nhớ ấy, các hành động và phản-hành động đã liên tục diễn ra giữa hai nước
lớn Trung Mỹ, tình hình ngày một cẳng thẳng và chưa có điểm dừng. Liệu xung đột
thương mại Mỹ—Trung tới đây có lan ra Biển Đông hay không? Theo một nghiên cứu
của Deutsche Bank, nếu Mỹ thực hiện đến cùng việc đánh thuế 10% nhằm vào hàng
xuất khẩu trị giá 200 tỷ USD từ Trung Quốc, thì tăng trưởng GDP hàng năm của đại
lục sẽ giảm từ 0,2— 0,3%. Tình trạng bất ổn của xã hội Trung Quốc sẽ gia tăng. Chủ
tịch Tập Cận Bình cho đến nay vẫn giữ im lặng, thay vào đó, đẩy Lý Khắc Cường ra
“đứng mũi chịu sào”. Ông Tập, theo giới phân tích, đang “ủ mưu” cho cuộc chiến
cùng lúc trên cả hai mặt trận: đối phó với các vấn nạn thương mại—công nghiệp—tài
chính với Mỹ, đồng thời đối phó với làn sóng chỉ trích, thậm chí chống lại tệ sùng
bái cá nhân ông trong xã hội. Nếu cùng đường, khó loại trừ khả năng Tập sẽ mở rộng
xung đột với các nước trên Biển Đông như một hướng “giải toả”, nhằm “chữa trị”
các bấn loạn trong nước.
Mà các xung đột về
ngoại thương—công nghiệp—tài chính nói trên giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng có thể
lan ra Biển Đông theo một vec-tơ ngược lại. Theo những tin tức mới nhất, các cuộc
đàm phán thương mại Mỹ—Trung vừa qua nặng về chi tiết nhưng không đạt được mấy
tiến bộ. Khi các nhà đàm phán Mỹ nêu ra những trường hợp nhiều công ty Mỹ bị tổn
hại bởi các tập tục của Trung Quốc thì Trung Quốc lập luận rằng họ đã tuân thủ
các nghĩa vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hai ngày đàm phán ở
Washington do các quan chức cấp thứ trưởng dẫn đầu chẳng làm được gì mấy để giải
quyết tranh chấp thương mại—công nghiệp—tài chính ngày càng trầm trọng giữa hai
nền kinh tế lớn nhất thế giới. Các cuộc thương thuyết kết thúc vào ngày 23/8 mà
không ra được thông cáo chung. Cuộc đàm phán lần thứ tư này được nối lại vào
lúc hai bên tiếp tục thực hiện lời đe dọa áp đặt thuế quan lên hàng hóa của
nhau. Bắc Kinh đã đệ đơn khiếu nại lên WTO về thuế quan của Mỹ. Trong đàm phán,
các nhà thương thuyết Trung Quốc nhiều lần viện dẫn điều mà họ nói là Bắc Kinh
tuân thủ các qui định của WTO, một lập luận chẳng mấy gây ấn tượng đối với phía
Mỹ. Một trong các nguồn tin mô tả phản ứng của Mỹ: “Chúng tôi không quan tâm đến
WTO chừng nào quí vị còn cho phép tình trạng dư thừa sản lượng, phá hoại các
ngành công nghiệp và đánh cắp tài sản trí tuệ. Chúng tôi sẽ không chịu bó tay
đâu”.
Tất nhiên, thương
mại không phải là nguồn gốc duy nhất dẫn đến sự căng thẳng giữa Washington và Bắc
Kinh. Trung Quốc gần đây đã tự thừa nhận các hoạt động quân sự hoá của mình
trên Biển Đông và Hoa Kỳ vẫn chưa có một chiến lược ngăn chặn hiệu quả. Đạo luật
về chi tiêu quốc phòng năm 2019 (mang tên TNS John Sidney McCain III vừa qua đời
sáng 26/8/2018), đã được Tổng thống Trump phê duyệt, là một trong những nỗ lực
mới nhất của Mỹ ngăn chặn các hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.
Liệu chính quyền Trump có kết nối các vấn đề thương mại với các biện pháp hữu
hiệu hơn nhằm góp phần chống lại sự bành trướng trên các vùng biển đảo mà Bắc
Kinh cưỡng chiếm của Việt Nam hay không? Bởi vì, theo đạo luật mới, Bộ Quốc phòng
Mỹ sẽ công bố nhiều hơn các hành vi bức hiếp của Bắc Kinh ở Biển Đông. Các hoạt
động quân sự và bồi đắp đảo của Trung Quốc trong khu vực cũng phải được thông
báo ngay lập tức cho Quốc hội Mỹ và công bố rộng rãi để nắm rõ hơn về hoạt động
của Trung Quốc.
Tuy nhiên, vấn đề
then chốt hơn, nghiêm trọng hơn trong thời gian tới, chính là sư va chạm giữa
hai quyết tâm chiến lược: “Sáng kiến Vành
đai, Con đường” của Bắc Kinh (BRI), mà danh xưng lúc đầu là “Nhất đới nhất lộ” (OBOR) và “Chiến lược Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” của “Bộ tứ Kim cương” (OFIP từ Nhật—Mỹ—Ấn—Úc).
Phân tích về của cuộc đối đầu giữa BRI (hay OBOR) với OFIP này, Ngoại trưởng Đức
Gabriel tuyên bố tại Hội nghị An ninh toàn cầu ở Munich ngày 17/2/2018: “Trung Quốc đang dùng OBOR để gây ra cuộc chiến giữa chế độ dân chủ và độc tài”.
Còn Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris thì khẳng định: “Khu vực
OFIP đang ở vào bước ngoặt lớn khi chứng kiến cuộc cạnh tranh địa-chính trị giữa tự do và áp bức”[8]. Trong một hàm ý gửi
tới các quốc gia hay các tổ chức muốn hưởng ứng, như một “thành viên sau hậu
trường” (shadow member) đối với OFIP, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis mới đây
tuyên bố: “Hoa Kỳ không gợi ý bất kỳ nước nào phải chọn giữa Mỹ hay Trung Quốc… Hoa Kỳ
đề nghị mối quan hệ “đối tác chiến lược”,
chứ không phải lệ thuộc về chiến lược”; và ông Bộ trưởng tiếp tục: “Chỉ khi các
quốc gia trở nên độc lập, không bị chi phối và trở nên vững mạnh thì mới giúp đỡ
được nước khác, mới hỗ trợ được các quốc gia khác”. Giúp bạn cũng là tự giúp
mình! Nguyên tắc này chẳng mấy xa lạ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam,
đang đặt ra cho Việt
Nam những nghĩa vụ và trách nhiệm mới trong tương lai không thể thoái thác.
“Ba đặc khu”
là OBOR trá hình
Trong khi Mỹ ngày
càng tỏ ra không ngán đối đầu với sự bành trướng của
Trung Quốc trên
Biển Đông và nhiều nước, điển
hình mới đây nhất là Malaysia của Dr. Mahathir không còn muốn tham gia vào OBOR
của Trung Quốc thì ở nước ta, mùa hè qua, rộ lên câu chuyện “Ba đặc khu”. Theo
đánh giá của các chuyên gia trong nước, sự phát triển của cách mạng công nghiệp
4.0 chẳng những sẽ mang lại các công nghệ mới trong sản xuất, liên kết và kinh
doanh, xây dựng nên những mạng dịch vụ chưa từng có, mà còn tạo ra những kết nối,
tái cấu trúc các chuỗi cung ứng, dịch vụ, các công cụ và phương thức trong huy động – phân bổ
các nguồn lực; bởi vậy mà vòng đời của sản phẩm thời CMCN 4.0 sẽ ngày càng ngắn
lại và càng sớm bị thay thế. Nói cách khác, CMCN 4.0 đang loại bỏ gần như hoàn toàn mô hình các đặc
khu như đang dự định hình thành. Đòi hỏi hàng đầu của Việt Nam hôm nay không phải
là kéo thêm lực từ bên ngoài vào bằng mọi giá! Nhất là khi tình hình của ta và
của khu vực đang tiềm ẩn nhiều mối nguy khó lường, vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát rất yếu kém hiện nay của đội ngũ quản trị quốc gia. Cho nên đi vào mô hình
đặc khu là mắc bẫy OBOR, hay BRI trá hình, rất nguy hiểm và đầy thảm hoạ[9].
Để bắt đầu một tuần
lao động mới, chúng ta nên xem lại các kinh nghiệm về xây dựng đặc khu của quốc
đảo Singapore nổi tiếng. Đừng quên một chi tiết nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Nguyên
Bộ trưởng Bộ tài chính Singapore là người đã từng làm cố vấn cho Trung Quốc về
việc xây dựng các đặc khu kinh tế. Là nước phát triển kinh tế thị trường chậm
hàng nửa thế kỷ so với thế giới, tất cả các chính sách kinh tế-tài chính mà Việt
Nam áp dụng đều đã được hàng trăm quốc gia trên thế giới thực hiện rồi, tại sao
còn phải lo thực nghiệm? Và hãy cùng nhau đọc lại phiên bản tiếng Việt cuốn “Hồi ký Lý Quang Diệu”. Bởi vì, thật hiếm
nguyên thủ quốc gia nào có thể cho bạn thấy nhiều góc khuất đến thế của thế giới,
thấy cả một giai đoạn rục rịch chuyển giao của các nhà nước, qua giọng văn
không kiêng nể. Thứ trưởng Ngoại giao Đặng Đình Quý cho rằng, ông Lý Quang Diệu
là nhà lãnh đạo huyền thoại của châu Á, là nhân vật lập quốc của Singapore hiện
đại. Rất nhiều lãnh đạo Việt Nam, từ Tổng bí thư Đỗ Mười, cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt và các nhà lãnh đạo khác sau này đều coi Lý Quang Diệu là người bạn chân
thành, sâu sắc của bản thân các lãnh đạo và của Việt Nam nói chung. Theo các
nhà quan sát ở ta, trong tất cả các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Việt Nam từ những
lần đầu tiên vào những năm 1992 đến đầu những năm 2000, ông Lý Quang Diệu đều
đưa ra những nhận xét rất thẳng thắn, mà đến giờ đọc lại những lời góp ý đó vẫn
còn thấy giật mình.
Ông Lý Quang Diệu
từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á
phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên
nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “con hổ ở châu Á”; càng vì có vấn đề Trung Quốc, Việt Nam
càng phải trưởng thành lên như thế… Nhưng đáng tiếc ngày nay, năng suất
lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, 1/5 của người
Malaysia, 2/5 của người Thái. Theo ông Lý, sự thành công của một quốc gia ngày
nay bao gồm ba yếu tố chính là: (i) điều kiện tự nhiên, như vị trí chiến lược
và tài nguyên thiên nhiên, (ii) con người và (iii) thời cơ; nhưng căn bản nhất vẫn
là yếu tố con người… Cũng do vậy, Lý Quang Diệu đã rất lấy làm hối tiếc, vì Việt
Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam phần lớn
đã định cư ở nước ngoài hết rồi.
*
* *
Cục diện khu vực và thế giới ngày nay đang đi vào một bước
ngoặt lớn; một dạng trật tự mới đang hình thành giống như cái bước ngoặt đã từng
xẩy ra sau chiến tranh thế giới thứ hai. Bước ngoặt sau năm 1945 là mâu thuẫn
“bất cộng đới thiên” giữa một bên là chủ nghĩa tư bản và một bên là chủ nghĩa cộng
sản. Bước
ngoặt 2018 hôm nay là xung đột quyền lực “một mất một còn” chi phối thế
giới thế kỷ 21 giữa Trung Quốc và Mỹ. Sự giống nhau của hai “bước
ngoặt” này là nguy cơ xuất hiện từ tình huống “trâu bò húc nhau ruồi muỗi
chết”. Sự khác nhau giữa thời 2018 so với thời sau năm 1945 là các nước “bên thứ
ba” hôm nay có nhiều khả năng làm chủ tình hình hơn, nếu ý thức được đầy đủ về
quốc gia-dân tộc mình, về vai trò của đất nước mình trong cái trật tự đang hình
thành ngày càng rõ nét. Liên quan đến Việt Nam, đất nước đã có quá nhiều trải
nghiệm xương máu của cái thời bước ngoặt sau 1945 cho đến tận hôm nay, chúng ta
càng phải thấm thía bài học khắc cốt ghi xương: “Ta càng nhân nhượng, kẻ muốn ăn thịt ta càng lấn tới” (lấy
ý từ lời kêu gọi của Hồ Chí Minh). Sau cách mạng Tháng Tám là như vậy, từ sau Hội
nghị Thành Đô đến nay lại càng như vậy! Điều hoàn toàn khác với thời
1945 là: Việt Nam hôm nay không phải là một nước nhược tiểu! Điều Việt Nam hôm
nay cần làm và làm ngay: Phải ý thức được về chính mình, về sức mạnh của mình, của
cộng đồng mà mình là thành viên, ý chí quyết sống, ý thức về vai trò và trách
nhiệm của mình đối với khu vực, đối với thời đại!
Hết
[2]
http://baoquocte.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-ngoai-giao-30-7.html
[4]
http://thediplomat.com/2015/02/the-geopolitics-of-the-vietnam-war/ “The Geopolitics of the Vietnam War”
[5]
&
[6]
ttp://baoquocte.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-ngoai-giao-30-7.html
Xin trân trọng cảm ơn Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng ! Ba đặc khu kinh tế : Vân Đồn-Bắc Vân Phong-Phú Quốc là ba điểm tựa cực kỳ quan trọng để Trung Cộng thực hiện thắng lợi Kế hoạch xâm lược mền xuống Đông-Nam châu Á với mưu đồ làm chủ Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương : MỘT VÀNH ĐAI-MỘT CON ĐƯỜNG ! Không phải vô duyên, vô cớ và không hề khách quan khi Đào Nhất Đào, cố vấn đặc biệt của họ Tập trong việc hoạch định "MỘT VÀNH ĐAI MỘT CÔN ĐƯỜNG "lại hỗ trợ đắc lực về trí tuệ " cho những người anh em Việt Nam-tác giả của Ba đặc khu kinh tế" nói trên .
Trả lờiXóaXin cảm ơn TỄU Blog !