LUẬT PHÁP QUỐC TẾ VÀ CHỦ QUYỀN
HOÀNG SA - TRƯỜNG SA(*)
HOÀNG SA - TRƯỜNG SA(*)
Thái Văn Cầu
Diễn Đàn
Trong cuộc gặp bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân vào cuối tháng 3 năm 2014 ở The Hague, Hà Lan, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kêu gọi Mỹ “nên có thái độ công bằng và khách quan, phân rõ phải trái và cần làm nhiều hơn để tìm ra giải pháp thích hợp và cải thiện tình hình” trong tranh chấp Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Đáp lại,
Tổng thống Mỹ Barack Obama “nhấn
mạnh việc tìm kiếm giải
pháp cho các vấn đề này
dựa trên đối thoại và
luật pháp quốc tế và
bày tỏ Mỹ tiếp tục ủng hộ
cho nỗ lực này.”[1]
Cuộc gặp
giữa lãnh đạo hai nước mạnh
hàng đầu thế giới, tuy ngắn ngủi,
nói lên tính chất nghiêm trọng
trong tranh chấp lãnh hải giữa các
nước thành viên ASEAN, Nhật Bản
với Trung Quốc.
Mục đích
của bài nghiên cứu này nhằm xét
đến một số góc cạnh then chốt
của luật pháp quốc tế, qua đó
liên hệ đến nỗ lực bảo vệ
chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của
Việt Nam.
Cơ chế quốc
tế để giải quyết tranh chấp trên
đất liền hay trên biển giữa các
nước là Toà án Quốc tế
(ICJ), Toà án Quốc tế về Luật
Biển (ITLOS), Toà án Trọng tài theo
Phụ lục VII của Công ước Liên
hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và
Toà án Trọng tài Đặc biệt
theo Phụ lục VIII của UNCLOS.
ICJ hiện hữu
từ năm 1946; ba Toà án còn lại
hình thành sau khi UNCLOS có hiệu lực
năm 1994. ICJ và ITLOS đòi hỏi mọi
bên trong tranh chấp đồng ý tham gia
vào quá trình thưa kiện.
1. Việt Nam đánh mất chủ quyền quần đảo Hoàng Sa dưới thời thực dân Pháp ?
Dựa vào hoạt động của chính quyền Quảng Đông vào những năm đầu thế kỷ XX, Marwyn S. Samuels, sử gia Mỹ, cho rằng Trung Quốc hành xử chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, hay ít nhất là ở đảo Phú Lâm, thuộc Hoàng Sa, hơn 10 năm trước khi Pháp tuyên bố chủ quyền.[2]
1. Việt Nam đánh mất chủ quyền quần đảo Hoàng Sa dưới thời thực dân Pháp ?
Dựa vào hoạt động của chính quyền Quảng Đông vào những năm đầu thế kỷ XX, Marwyn S. Samuels, sử gia Mỹ, cho rằng Trung Quốc hành xử chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, hay ít nhất là ở đảo Phú Lâm, thuộc Hoàng Sa, hơn 10 năm trước khi Pháp tuyên bố chủ quyền.[2]
Lập luận
trên phạm các sai lầm nghiêm trọng
sau:
a. Theo chứng cứ lịch sử của phương
Tây và của Việt Nam, trong hơn 200 năm,
trước khi bị Pháp áp đặt
chế độ thuộc địa, Việt Nam
hành xử chủ quyền ở Hoàng Sa
đúng theo những tiêu chuẩn của
luật pháp quốc tế ở thời điểm
trước Công ước Berlin hay như quy
định trong Công ước này năm
1885: nơi chiếm hữu phải là đất
vô chủ (terra nullius) hay đất bị từ
bỏ (terra derelicta), bộ phận chiếm hữu
thuộc cơ chế quốc gia, và sự
chiếm hữu được thông báo.[3]
Sau khi ký kết
Hiệp ước Thiên Tân với nhà
Thanh năm 1885, Pháp hoàn tất chế độ
thuộc địa ở Việt Nam, và nắm
quyền đại diện cho Việt Nam trong quan
hệ quốc tế.
Trong những năm
đầu thế kỷ XX khi người Tàu
hay người Nhật hiện diện ở Hoàng
Sa, Hoàng Sa không còn là đất
vô chủ, như công ty Nhật Mitsui Bussan
Kaisha hoạt động ở đảo Phú
Lâm trong thập niên 1920 thừa nhận:
“Khi được
thẩm vấn, người Nhật Bản cầm
đầu doanh nghiệp này nói rằng
đại diện của công ty Mitsui Bussan
Kaisha của họ đâu dám tự tiện
tiến hành việc khai thác vào cuối
năm 1920 mà không thông báo trước
cho Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, và
vị tư lệnh này, đứng về quan
điểm quân sự, đã không thấy
cần thiết ra lệnh cấm đoán...
chính quyền Pháp đã thấy không
cần thiết phải hủy bỏ sự cho phép
hầu như chính thức mà tư lệnh
Hải quân đã cung cấp một cách
hơi dễ dãi, (vì) người Nhật
đã hành xử đúng phép tắc
đối với nhà chức trách Pháp
và họ không hề phủ nhận quyền
của Pháp đối với các đảo
Hoàng Sa."[4]
Sau khi Quốc gia
Việt Nam được hình thành năm
1949, Pháp trao trả cho Việt Nam quyền hạn
trong quan hệ quốc tế. Khi cơ hội đến,
phái đoàn Quốc gia Việt Nam chính
thức tuyên bố chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa là của Việt Nam trước
sự hiện diện của 51 nước tham dự
Hội nghị San Francisco năm 1951.[5]
b. Theo luật pháp quốc tế, sự kiện
triều đình nhà Nguyễn hay thực
dân Pháp không thường xuyên hay
tích cực hành xử chủ quyền
Hoàng Sa trong một thời gian không cấu
thành yếu tố quần đảo Hoàng
Sa, một phần hay toàn phần, bị Việt
Nam từ bỏ chủ quyền.
Trong vụ kiện
Tây Sahara, ICJ đề cập đến đặc
tính của một vùng đất có
thể gây ảnh hưởng đến đời
sống, hoạt động xã hội và
chính trị trong vùng đất ấy.[6]
Trong vụ kiện
giữa Hà Lan và Mỹ về đảo
Palmas, Max Huber, chuyên gia Thụy Sĩ về luật
pháp quốc tế, có ý kiến cho
rằng khi một nhóm đảo hình thành
một đơn vị, số phận của các
đảo chính quyết định số phận
các đảo còn lại. Nói một
cách khác, hành xử chủ quyền ở
một nhóm đảo, như một đơn
vị, không đòi hỏi hành xử
chủ quyền ở từng đảo riêng
biệt trong nhóm đảo đấy.
Monique
Chemillier-Gendreau, chuyên gia Pháp về luật
pháp quốc tế, đề cập đến
quan điểm của Max Huber khi nói về hành
xử chủ quyền của Pháp ở Trường
Sa, và quan điểm này cũng ứng
dụng trong hành xử chủ quyền ở
Hoàng Sa.[7]
Trong vụ kiện
giữa Cameroon và Nigeria, ICJ nhận xét, "từ
khi giành được độc lập,
Cameroon có hoạt động, qua đó, rõ
ràng cho thấy là nước này không
cách nào từ bỏ chủ quyền vùng
Bakassi". ICJ quyết định trao chủ quyền
vùng Bakassi cho Cameroon.[8]
Sir Robert Yewdall
Jennings, chuyên gia Anh về luật pháp quốc
tế, đưa ý kiến về nguyên tắc
từ bỏ chủ quyền (abandonment), “quốc
gia có chủ quyền chỉ cần chứng
minh là không có ý từ bỏ chủ
quyền hay không chấp nhận đòi hỏi
chủ quyền của quốc gia khác”.[9]
Monique
Chemillier-Gendreau nêu ý kiến, “Triều
đình Việt Nam bị suy yếu bởi cuộc
chinh phục và bởi chính sách của
Pháp nhanh chóng biến đổi quy chế
bảo hộ thành thuộc địa, (nên)
tiếng nói của họ về biển đảo
gần như không được nghe đến.
Tuy nhiên khi có cơ hội, họ vẫn
lên tiếng.”[10]
Tóm lại,
phán xử của ICJ, quan điểm của
chuyên gia luật pháp quốc tế, và
chứng cứ lịch sử của Việt Nam và
của phương Tây cho thấy Việt Nam đã
không đánh mất chủ quyền biển
đảo, một phần hay toàn phần, như
Marwyn S. Samuels hay các tác gỉả khác
lập luận một cách sai lầm, trong giai
đoạn từ đầu thập niên 1850
cho đến giữa thập niên 1920, khi Toàn
quyền Đông Dương chính thức
tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa-Trường
Sa.[11]
2. Nguyên tắc “quieta non movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”
Trong nhiều năm qua, quan chức, học giả Việt Nam có ý kiến cho rằng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa là vấn đề lâu dài, kéo đến đời con, đời cháu, hay ngay cả hàng trăm năm.[12]
2. Nguyên tắc “quieta non movere” hay “không làm xáo trộn sự ổn định”
Trong nhiều năm qua, quan chức, học giả Việt Nam có ý kiến cho rằng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa là vấn đề lâu dài, kéo đến đời con, đời cháu, hay ngay cả hàng trăm năm.[12]
Ý kiến như
trên không phản ánh thực tế Việt
Nam phải đối diện trước luật
pháp quốc tế.
Trong giải quyết
tranh chấp giữa hai nước, ICJ vẫn sử
dụng nguyên tắc “quieta non movere” hay
“không làm xáo trộn sự ổn
định”. ICJ có thể đưa phán
xét thuận lợi cho nước đang chiếm
giữ một vùng đất, vùng biển,
mặc dù chủ quyền ban đầu không
thiết lập rõ ràng, nhưng có
hành xử thích hợp trong một thời
gian.[13]
Trong vụ kiện
giữa Norway và Sweden, nguyên tắc này
là một trong những yếu tố khiến
Sweden nhận được quyết định
thuận lợi về Grisbadarna Banks.[14]
Trong vụ kiện
giữa Bahrain và Qatar, nguyên tắc này
cũng là một trong những yếu tố
khiến Bahrain nhận được quyết định
thuận lợi về quần đảo Hawar.[15]
Nguyên tắc
“quieta non movere” không được giới
nghiên cứu trong nước biết đến
nhiều, nhưng Giản Quân Ba, một học
giả Trung Quốc, từng gián tiếp nói
về nguyên tắc này hơn ba năm
trước:
“Nếu
Bắc Kinh không thể giải quyết vấn
đề tranh chấp và xác lập chủ
quyền ở những hòn đảo và
vùng lãnh hải trước năm 2020, đây
sẽ là một thách thức lớn đối
với Trung Quốc, bởi
vì theo một nguyên tắc của luật
quốc tế, nếu
một quốc gia chiếm đóng một vùng
đất thành công trong hơn 50 năm,
vùng đất đó có thể trở
thành một phần của lãnh thổ
nước này. Nhưng với điều kiện
tiên quyết là việc chiếm đóng
đó không bị các nước khác
phản bác.”[16]
Theo Wu Shicun, Giám
đốc học viện nghiên cứu Biển
Đông cấp quốc gia duy nhất của
Trung Quốc, tranh chấp Biển Đông bắt
đầu trở nên căng thẳng vào
đầu thập niên 1970.[17]
Mặc dù
chưa thấy hiện hữu bằng chứng hỗ
trợ con số 50 năm như một đòi
hỏi cho nguyên tắc “quieta non movere”,
một số điểm nên ghi nhận:
Suốt gần 20
năm, sau khi hai nước bình thường
hoá quan hệ, trong khi Việt Nam thiếu quan
tâm đúng mức về vấn đề
Hoàng Sa-Trường Sa, Trung Quốc tận dụng
thời gian để xây dựng lực lượng
cho tham vọng độc chiếm Biển Đông:
Trung Quốc hiện có quan toà đại
diện trong hai cơ chế luật pháp quốc
tế ICJ và ITLOS; Trung Quốc hoàn tất
hàng trăm luận án tiến sĩ, hội
thảo về đề tài Biển Đông
trong thập niên 2000, hải quân Trung Quốc
lớn mạnh và hiện diện rộng khắp
trên Biển Đông, v.v.[18]
Hậu quả là
sự hiện hữu một khoảng cách giữa
Việt Nam và Trung Quốc trong nỗ lực
nghiên cứu luật pháp quốc tế
cũng như trong các lãnh vực khác
liên hệ đến Biển Đông.
Việt Nam và
Trung Quốc thường xuyên phản đối
hành động của nước đối
tác liên quan đến Biển Đông
và khẳng định chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa (hay Tây Sa-Nam Sa, theo cách
gọi của Trung Quốc).[19]
Trong vụ kiện
giữa Nicaragua và Honduras trong Biển Caribbean,
ICJ nhận định rằng sự liên tục
khẳng định chủ quyền vùng biển
liên hệ của Nicaragua là không đầy
đủ so với cách hành xử chủ
quyền của Honduras. Khiếm khuyết này
của Nicaragua trở thành một trong những
yếu tố khiến Honduras nhận được
quyết định thuận lợi.[20]
Quyết định
trên của ICJ cho thấy rằng phản đối
hành vi xâm phạm chủ quyền là
điều kiện cần trong luật pháp
quốc tế, nhưng nó không phải là
điều kiện đủ để bảo vệ
chủ quyền đất nước.
Theo M. Taylor Fravel,
chuyên gia Mỹ về quan hệ quốc tế,
từ khi thành lập CHNDTH năm 1949 cho đến
nay, trong tổng số 23 cuộc tranh chấp lãnh
thổ hay lãnh hải giữa Trung Quốc với
các nước láng giềng, Trung Quốc
giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán 17 lần và sử dụng vũ lực
6 lần. Trong đó, 3 lần sử dụng vũ
lực là với Việt Nam: Tại Hoàng
Sa năm 1974, khu vực biên giới cực Bắc
năm 1979, và Trường Sa năm 1988. Ba lần
còn lại là với Đài Loan, Ấn
Độ và Liên Xô.[21]
Hiến chương
Liên hiệp quốc có Chương I, Điều
2, Khoản 4, ngăn cấm thành viên của
tổ chức Liên hiệp quốc đe doạ
hay sử dụng vũ lực chống toàn vẹn
lãnh thổ hay độc lập chính trị
của thành viên khác.
Hiến chương
Liên hiệp quốc cũng có Chương
VII, Điều 51, đề cập đến quyền
tự vệ cá nhân hay quyền tự vệ
tập thể khi thành viên bị tấn
công vũ trang.[22]
Trong hơn 30 năm
nay, học giả Trung Quốc và một số
học giả phương Tây có quan điểm
thuận lợi cho Trung Quốc, trực tiếp hay
gián tiếp, bóp méo hay làm lu mờ
sự thật khi lập luận Trung Quốc đã
thực hiện “quyền tự vệ” hay
bảo vệ “toàn vẹn lãnh thổ”
trong xung đột biển đảo với Việt
Nam.[23]
Mặc dù
nguyên tắc “quieta non movere” chưa thấy
được ICJ nêu lên trong trường
hợp sử dụng vũ lực chiếm đóng
bất hợp pháp, nhưng Trung Quốc khôn
khéo kết hợp nguyên tắc “quieta
non movere” và thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt của họ để thúc đẩy
cán cân thuận lợi trong chứng cứ
lịch sử và pháp lý về chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt
Nam trong hàng thế hệ qua nghiêng dần
về phía Trung Quốc.
Qua chiến thuật
kéo dài thời gian giải quyết tranh
chấp Hoàng Sa-Trường Sa, Trung Quốc
từng bước buộc Việt Nam phải đối
diện với thực tế về sự chiếm
đóng vĩnh viễn quần đảo của
Việt Nam, và từ vị trí chiến
lược của Hoàng Sa-Trường Sa, Trung
Quốc từng bước tăng cường sức
mạnh cho đòi hỏi “đường
lưỡi bò” của họ trên Biển
Đông.[24]
3. Vai trò của chứng cứ lịch sử và mức độ chính xác cần thiết
Trước luật pháp quốc tế, chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý là yếu tố thuyết phục nhất.
3. Vai trò của chứng cứ lịch sử và mức độ chính xác cần thiết
Trước luật pháp quốc tế, chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý là yếu tố thuyết phục nhất.
Tuy nhiên, chuyên
gia luật pháp quốc tế cũng nhận
định, trong giải quyết tranh chấp lãnh
thổ, trên đất liền hay trên biển,
khả năng để các bên có
chứng lý lịch sử có giá trị
pháp lý không cao.
Theo Nuno Sergio
Marques Antunes, chuyên gia Bồ Đào Nha về
tranh chấp hàng hải quốc tế, “tranh
chấp dựa duy nhất trên lập luận
pháp lý ... tương đối hiếm.
Tuyệt đại đa số các cuộc
tranh chấp lãnh thổ thiếu lập luận
pháp lý có ý nghĩa. Trong phần
lớn các trường hợp, những lập
luận không mang tính pháp lý nổi
bật hơn”.[25]
Mỗi bên
trong tranh chấp lãnh thổ phải tận
dụng tất cả chứng cứ nghiêm túc,
bất kể hình thức, như Brian Taylor
Sumner, chuyên gia Mỹ về luật pháp
quốc tế, khẳng định, bao gồm 9
loại khác nhau, trong đó có chứng
cứ lịch sử.[26]
Chứng cứ
lịch sử về chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa của Trung Quốc, dựa vào
cổ sử hay ngay cả dựa vào các
sự kiện xảy ra trong 60 năm qua, chứa
đựng nhiều sai lầm, lắm lúc với
chủ đích để đánh lừa
dư luận.
Trong khi một số
học giả phương Tây, do dựa vào
một phần hay toàn phần cổ sử của
Trung Quốc, để đưa quan điểm
thuận lợi cho nước này, giới
nghiên cứu của Việt Nam đã phân
tích những thiếu sót nghiêm trọng
trong cổ sử Trung Quốc về chủ quyền
Hoàng Sa-Trường Sa của Trung Quốc.[27]
Trong tác phẩm
tiếng Anh xuất bản cuối năm 2013, Wu
Shicun sử dụng các lập luận sau cho
đòi hỏi chủ quyền biển đảo
trên Biển Đông: Trung Quốc là
nước khám phá, nước đặt
tên các đảo thuộc quần đảo
Hoàng Sa-Trường Sa, nước nhận
triều cống từ phong kiến Việt Nam,
VNDCCH từng công nhận chủ quyền Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc, CHXHCNVN chỉ
kế thừa duy nhất từ VNDCCH, v.v.[28]
Lập luận
cho rằng Trung Quốc, do là nước khám
phá hay nước đặt tên các
đảo thuộc quần đảo Hoàng
Sa-Trường Sa, nên có chủ quyền
Hoàng Sa-Trường Sa, không thỏa mãn
các tiêu chuẩn của luật pháp
quốc tế về quyền chiếm hữu đề
cập trong phần #1 ở trên.
Lập luận
cho rằng Trung Quốc, do là nước nhận
triều cống từ phong kiến Việt Nam cho
đến năm 1885, nên có chủ quyền
Hoàng Sa-Trường Sa, bị bác bỏ,
dựa trên chứng cứ lịch sử và
dựa trên vụ kiện giữa Pháp và
Anh về khu vực Minquiers-Ecrehos.[29]
Lập luận
cho rằng, do VNDCCH từng công nhận chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung
Quốc, và do CHXHCNVN chỉ kế thừa duy
nhất từ VNDCCH, nên Trung Quốc có chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa, bị bác
bỏ, dựa trên sự không thích ứng
của nguyên tắc ngăn chặn (estoppel),
quyền kế thừa của quốc gia theo luật
pháp quốc tế và chứng cứ lịch
sử trong quan hệ quốc tế của Việt
Nam trong giai đoạn 1954-1976.[30]
Ngoài thoả
mãn hai tiêu chuẩn của luật pháp
quốc tế trước thời điểm của
Công ước Berlin, chứng cứ lịch sử
về chủ quyền Hoàng Sa của Việt
Nam trong tư liệu cổ phương Tây,
trong hơn 200 năm, từ đầu thế kỷ
XVII đến cuối thế kỷ XIX đặc
biệt thoả mãn tiêu chuẩn nêu lên
trong Công ước năm 1885 về nhận
thức của cộng đồng thế giới
đối với chủ quyền biển đảo
của Việt Nam.[31]
Trái lại,
cho đến ngày nay, Trung Quốc không
trình bày được chứng cứ
lịch sử nào thuận lợi cho đòi
hỏi chủ quyền của họ từ nguồn
tư liệu cổ phương Tây trước
thế kỷ XX.
Trung Quốc đề cập đến hai sự
kiện: Kuo Sung-tao, Đại sứ Trung Hoa đầu
tiên ở Anh vào khoản năm 1876-1877
tuyên bố Hoàng Sa thuộc Trung Hoa, và
Trung Hoa phản đối và ngăn chặn
đoàn khảo sát Đức thực hiện
công tác đo đạc ở Hoàng Sa
và Trường Sa năm 1883.
Bên cạnh
không có tư liệu độc lập
kiểm chứng tính chính xác về
tuyên bố của Kuo Sung-tao, thực tế cho
thấy năm 1885, Đức phổ biến bản
đồ chi tiết khu vực Hoàng Sa mà
họ đã khảo sát trong các năm
1881-1883.[32]
So sánh với
Trung Quốc, chứng cứ lịch sử về
chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của
Việt Nam rõ ràng, vững chắc hơn.
Tuy nhiên, do sự
gián đoạn gần 20 năm trong nỗ lực
nghiên cứu chủ quyền và giới
thiệu nghiên cứu chủ quyền trước
dư luận thế giới, và nhằm đảm
bảo tính khoa học và nghiêm túc
của nó, hồ sơ chứng cứ chủ
quyền của Việt Nam còn cần sự
quan tâm của giới chuyên gia và nghiên
cứu, như người viết đề nghị
năm 2011:
“Để
khắc phục thiếu sót trong quá khứ,
và để loại bỏ lỗ hổng trong
lập luận chủ quyền Hoàng Sa, Trường
Sa, nhà nước Việt Nam nên khẩn
trương hỗ trợ giới nghiên cứu
(độc lập cũng như trực thuộc
bộ máy chính quyền), thúc đẩy
tham khảo tư liệu ở Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia và từ các nguồn
khác (kể cả ngoài nước), chuyển
dịch những nghiên cứu đúng đắn
từ tiếng Việt sang tiếng nước
ngoài (cụ thể như tiếng Anh, tiếng
Hoa), tư vấn chuyên gia ở ngoài nước
về giải quyết tranh chấp lãnh thổ,
đào tạo lớp người trẻ với
chuyên môn nghiệp vụ cao, v.v.”[33]
4. Các kịch bản trong tranh chấp Biển Đông
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẫn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau.[34]
4. Các kịch bản trong tranh chấp Biển Đông
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẫn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau.[34]
Sau gần 40 năm,
cuộc tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa vẫn
chưa được giải quyết.
Năm
kịch bản
cho tranh chấp Biển Đông trong 10 năm
tới:
1. Trung Quốc sử dụng vũ lực để đánh
chiếm một phần hay toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhằm “giải quyết vấn đề
tranh chấp và xác lập chủ quyền ở những hòn đảo và vùng lãnh hải trước
năm 2020” như học giả Trung Quốc khẳng định và các nguồn thông tin khác
cho biết.[35].
Trong tranh chấp biển đảo, Trung Quốc
từng sử dụng vũ lực với Đài
Loan vào thập niên 1950, và sử dụng
vũ lực với Việt Nam vào thập niên
1970 và thập niên 1980.
Cuộc phiêu lưu quân sự mới của
Trung Quốc ở Trường Sa, nhằm kiểm
soát toàn bộ các đảo, đá
trong phạm vi “đường lưỡi bò”,
sẽ gây mất an ninh, ổn định trên
Biển Đông, ảnh hưởng đến
lưu thông hàng hải của Mỹ, Nhật,
Ấn Độ, v.v.
Không ai ngạc nhiên với nhận định
là Trung Quốc đã theo sát diễn
biến ở Ukraine và Crimea để đánh
giá phản ứng và biện pháp đối
phó của Mỹ và Liên hiệp Châu
Âu đối với Nga.
Tuy nhiên, do khác biệt lớn với sự
sáp nhập của Crimea vào Nga, kịch bản
này đưa đến hậu quả kinh tế,
quân sự, chính trị, v.v. có khả
năng cao nằm ngoài mức dự đoán
của lãnh đạo Trung Quốc.
2. Trung Quốc đồng ý để các toà án
quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Do sự yếu kém của Trung Quốc trong
chứng cứ lịch sử và pháp lý
về chủ quyền, do hành động sử
dụng vũ lực năm 1974 và 1988 để
chiếm đóng các đảo, đá
ở Hoàng Sa-Trường Sa của Việt
Nam, và do chưa hội đủ điều
kiện thuận lợi cho nguyên tắc “quieta
non movere”, Trung Quốc phản đối luật
hoá hay quốc tế hóa vấn đề
biển Đông, kiên trì với chủ
trương “đàm phán song phương”,
“gác tranh chấp, cùng khai thác”.
Hơn ai hết, Trung Quốc hiểu rõ rằng
họ mất nhiều hơn được khi phải
đối diện với các toà án
quốc tế.
3. Trung Quốc không sử dụng vũ lực
nhưng tiếp tục chiến thuật kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp Biển
Đông.
Dựa trên các nguyên tắc đã
nêu lên trong luật pháp quốc tế,
Trung Quốc củng cố vị trí của họ
trên Biển Đông nhằm chiếm đóng
vĩnh viễn các đảo hiện đang
kiểm soát bất hợp pháp. Đây
là kịch bản thuận lợi cho Trung Quốc
và bất lợi cho Việt Nam, nếu Việt
Nam không sử dụng luật pháp quốc
tế để giải quyết tranh chấp với
Trung Quốc trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy Trung Quốc đã
thành công trong hơn 20 năm qua khi áp
lực nước có tranh chấp với Trung
Quốc thực hiện “đối thoại
hoà bình”, cho đến khi Philippines
chính thức khởi kiện Trung Quốc ra Toà
án Trọng tài theo Phụ lục VII của
UNCLOS đầu năm 2013.
4. Trung Quốc đẩy mạnh chiến thuật
“tằm ăn dâu” trên Biển Đông: tiếp tục hành xử chủ quyền ở các khu vực
đang chiếm đóng bất hợp pháp, biến khu vực không tranh chấp thành khu
vực tranh chấp, áp lực nước có tranh chấp với Trung Quốc thực hiện “đối
thoại hoà bình” hay đi theo chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”
ở khu vực “tranh chấp” mới.
Kịch bản này giúp cho Trung Quốc mở
rộng ranh giới “đường lưỡi
bò” nhưng họ không thể dự
đoán được mọi phản ứng,
bao gồm khả năng xung đột quân sự
có giới hạn, với thành viên
khối ASEAN, với Mỹ hay các đồng
minh khác của Mỹ.
Kịch bản này bất lợi trên nhiều
mặt cho Việt Nam: Việt Nam có bờ biển
dài hơn 3.200 km để kiểm soát,
các đảo của Việt Nam hiện đang
bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp
pháp sẽ trở thành vĩnh viễn của
Trung Quốc, khu vực thuộc EEZ của Việt
Nam, trở thành khu vực “tranh chấp”
với Trung Quốc, nếu Việt Nam không sử
dụng luật pháp quốc tế để
giải quyết tranh chấp với Trung Quốc
trong thời gian tới.
5. Trung Quốc đàm phán nghiêm chỉnh
với Việt Nam (và với các nước ASEAN có tranh chấp biển đảo với Trung
Quốc) để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Đây là kịch bản thuận lợi
nhất cho Việt Nam và các nước khác nhưng bất lợi cho tham vọng độc
chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Các sự
kiện liên quan đến Biển Đông
từ đầu năm 2013 cho đến hôm
nay cho thấy tình hình không cho phép
Việt Nam chần chờ, trì hoãn trong nỗ
lực giải quyết tranh chấp biển đảo
với Trung Quốc tận gốc rễ.
5. Biến chuyển quan trọng ảnh hưởng đến tranh chấp Biển Đông
Từ trong khu vực:
5. Biến chuyển quan trọng ảnh hưởng đến tranh chấp Biển Đông
Từ trong khu vực:
Philippines:
Sau một thời
gian đối thoại hoà bình để
giải quyết tranh chấp, trước lập
trường không thay đổi của Trung
Quốc, vào cuối tháng 1 năm 2013,
Philippines quyết định khởi kiện Trung
Quốc ra Toà án Trọng tài theo Phụ
lục VII UNCLOS. Vào cuối tháng 2 năm
2014, Francis Jardeleza, luật sư phụ trách tư
vấn cho chính phủ Philippines về vụ
kiện, kêu gọi Việt Nam và Malaysia
tham gia vào vụ kiện. Một tháng sau
lời kêu gọi, Philippines chính thức
trình hồ sơ pháp lý gần 4.000
trang lên Toà án Trọng tài theo đúng
quy trình.[36]
Malaysia:
Vào tháng
3 năm 2013, các tàu chiến Trung Quốc
lần đầu tiên xuất hiện ở bãi
cạn James, sâu vào trong EEZ của Malaysia,
cách bờ biển bang Sarawak chỉ 43 hải
lý. Đây là điểm cực Nam
trong “đường lưỡi bò”
của Trung Quốc. Trong khoản 6 tháng sau,
Malaysia triển khai kế hoạch thành lập
một căn cứ hải quân mới ở
thị trấn lớn nhất của bang Sarawak để
đối phó với đe doạ của Trung
Quốc.[37]
Indonesia:
Từ đầu
thập niên 1990 cho đến gần đây,
do là nước không có tranh chấp
biển đảo với Trung Quốc, Indonesia giữ
vị thế trung lập và đóng vai trò
trung gian trong hoà giải giữa các bên.
Sau khi ký kết “Tuyên bố về ứng
xử” (DOC) với những giới hạn của
nó năm 2002, trong gần một thập niên
qua, Indonesia cùng các nước ASEAN khác
soạn thảo "Bộ quy tắc ứng xử
trên Biển Đông" (COC) mang tính
ràng buộc hơn là DOC. Nỗ lực này
không gặp đáp ứng tích cực
của Trung Quốc.
Vào giữa
tháng 4 năm 2014, Indonesia thay đổi vị
thế trung lập khi tuyên bố nước
này quyết định tăng cường lực
lượng quân sự ở quần đảo
Natuna trước sự kiện “đường
lưỡi bò” của Trung Quốc bao gồm
cả lãnh hải của Indonesia.[38]
Việt
Nam:
Từ đầu
thập niên 2000 cho đến nay, Trung Quốc
hàng năm ngang nhiên tuyên bố lệnh
cấm đánh cá trên vùng biển
của Việt Nam. Không những thế, Trung
Quốc còn liên tục gây thiệt hại
tài sản và ngay cả thiệt hại
nhân mạng cho ngư dân của Việt
Nam.[39]
Vào đầu
tháng 10 năm 2011, trước chứng kiến
của lãnh đạo hai đảng, Việt
Nam và Trung Quốc ký kết thỏa thuận
nhằm giải quyết vấn đề trên
biển “thông qua đàm phán và
hiệp thương hữu nghị”.[40]
Vào cuối
tháng 11 năm 2011, lãnh đạo chính
phủ Việt Nam lần đầu tiên đề
cập đến sự kiện Trung Quốc sử
dụng vũ lực đánh chiếm toàn
bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974.[41]
Trước sự
leo thang gây hấn, khiêu khích, và vi
phạm nghiêm trọng luật pháp quốc
tế của Trung Quốc, vào cuối tháng
4 năm 2013, lãnh đạo Việt Nam cũng
lần đầu tiên đề cập đến
luật pháp quốc tế như một công
cụ để giải quyết tranh chấp với
Trung Quốc.[42]
Vào đầu
tháng 5 năm 2014, khi ngang nhiên đặt
giàn khoan HD-981 sâu vào trong EEZ của
Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền của Việt Nam, Trung Quốc chính
thức cho Việt Nam và quốc tế biết
rằng các cam kết của Trung Quốc với
Việt Nam, bao gồm thoả thuận ký năm
2011, về giải quyết tranh chấp biển đảo
trên Biển Đông bằng “đối
thoại hoà bình” hoàn toàn
không có giá trị.[43]
Trong gần 40 năm
nay, Việt Nam không ngừng kêu gọi Trung
Quốc đối thoại hoà bình để
giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường
Sa.
Theo Wang Hanling
(Vương Hàn Lĩnh), học giả Trung
Quốc, quan điểm của Trung Quốc là:
“Không
có gì để đàm phán cả…
Chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa của Trung Quốc chưa bao giờ là
đề tài tranh chấp và Việt Nam đã
thừa nhận điều này trong quá
khứ. Thảo luận về nỗ lực hợp
tác bảo vệ tài nguyên, tìm
kiếm cứu nạn và các việc khác
là một chuyện, chủ quyền của
Trung Quốc là một chuyện khác”.
Lập trường
của Trung Quốc về Hoàng Sa không thể
nào dứt khoát hay rõ ràng hơn:
Hoàng Sa là của Trung Quốc. Họ còn
ngang ngược đề nghị Việt Nam “gác
tranh chấp, cùng khai thác” ở Trường
Sa, ở khu vực biển đảo của Việt
Nam.[44]
Từ ngoài khu vực:
Vào cuối năm 2011, Mỹ đề cập đến chiến lược mang tên “xoay trục”, hay còn gọi là “tái cân bằng” tại Châu Á-Thái Bình Dương.
Từ ngoài khu vực:
Vào cuối năm 2011, Mỹ đề cập đến chiến lược mang tên “xoay trục”, hay còn gọi là “tái cân bằng” tại Châu Á-Thái Bình Dương.
Trong hai năm qua,
có nhiều bàn thảo, tranh luận, ý
kiến về chính sách này. Một số
điểm nên ghi nhận:
- Do chiến lược tái cân bằng đến từ một quá trình chuẩn bị tích cực trong hai thập niên dưới chính quyền Clinton và Bush, thuộc đảng Dân chủ và Cộng hoà, chiến lược này được hậu thuẫn của hai đảng và không ngừng lại ở chính quyền Obama.
-
Với 10 tàu chở máy bay đang hoạt động (so với 1 cho Nga và 1 cho Trung Quốc), và hai tàu chở máy bay, với kỹ thuật hiện đại nhất, Ford-class, được thêm vào trước cuối thập niên này, hải quân Mỹ tiếp tục đứng ở vị trí hàng đầu so với hải quân các nước khác trong ít nhất là 20 năm tới.
-
Trước cuối năm 2020, Mỹ sẽ hoàn tất chuyển sang Châu Á-Thái Bình Dương, 60% lực lượng hải quân, 60% căn cứ không quân ở nước ngoài, 60% khả năng đối phó của không quân trong không gian và thế giới ảo.
-
Yếu tố không thể thiếu trong chiến lược tái cân bằng là tiến triển trong quan hệ chính trị, ngoại giao và kinh tế của Mỹ với khu vực: Mỹ hiện có hiệp ước quân sự với 5 nước, là đối tác chiến lược với 7 nước khác; Mỹ là thành viên Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, có đại sứ trong ASEAN; Mỹ hoàn tất hay đang trong quá trình đàm phán với một số nước, trong đấy có Việt Nam, về các hiệp ước để thúc đẩy thương mại, v.v.[45]
Trong thời gian
gần đây, trước sự kiện giàn
khoan HD-981, lãnh đạo các nước
công nghiệp G7, Liên minh Châu Âu EU,
Nhật, Australia, Anh, Pháp, v.v., đã có
tuyên bố mạnh mẽ và thuận lợi
cho Việt Nam, bao gồm lời kêu gọi chống
sử dụng vũ lực và sự ủng hộ
giải quyết tranh chấp qua cơ chế toà
án quốc tế.[46]
6. Bước đột phá trong tranh chấp Biển Đông
Với diện tích hơn 3.5 triệu km2, Biển Đông là một phần của Biển Thái Bình Dương, tiếp cận với lãnh hải của Việt Nam, Trung Quốc, Taiwan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Singapore.
6. Bước đột phá trong tranh chấp Biển Đông
Với diện tích hơn 3.5 triệu km2, Biển Đông là một phần của Biển Thái Bình Dương, tiếp cận với lãnh hải của Việt Nam, Trung Quốc, Taiwan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Singapore.
Trong thời đại
toàn cầu hoá kinh tế, Biển Đông
không những quan trọng với các nước
tiếp cận mà còn cực kỳ quan
trọng với nhiều nước đã và
đang phát triển khác trên thế
giới.
Hàng năm có
hơn 5.300 tỷ dollars mậu dịch quốc tế
đi ngang qua Biển Đông trong đấy
1.200 tỷ dollars mậu dịch là của Mỹ.
Số lượng mậu dịch này đóng
góp vào con số thâm hụt thương
mại của Mỹ với Trung Quốc, với
gần 320 tỷ dollars trong năm 2013, chiếm 3,5%
GDP của Trung Quốc hay gấp đôi GDP của
Việt Nam trong cùng năm.[47]
Do vị thế
chiến lược của hai quần đảo
này, Việt Nam nên năng động, tích
cực trình bày cho thế giới thấy
rõ rằng, Hoàng Sa-Trường Sa đóng
vai trò then chốt trong “đường
lưỡi bò” của Trung Quốc trên
Biển Đông.
Khi sử dụng
luật pháp quốc tế để giải
quyết tranh chấp Biển Đông với
Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải
quyết vấn đề chủ quyền lãnh
hải giữa riêng hai nước mà còn
giúp mang lại an ninh và ổn định
cho tất cả các nước phụ thuộc
vào giao thông hàng hải ngang qua một
khu vực quan trọng hàng đầu thế
giới và có diện tích rộng bằng
một phần ba diện tích nước Mỹ.
Cách hành
xử như trên chứng minh mạnh mẽ cho
thế giới thấy rằng Việt Nam là
một nước tôn trọng luật pháp
và có trách nhiệm với cộng
đồng quốc tế.
Để tạo
đột phá trong bế tắc và để
tranh thủ thuận lợi hiện có, xét
từ góc độ luật pháp quốc
tế, chứng cứ lịch sử và tình
hình khu vực như đề cập trong bài,
Việt Nam, trong thời gian sớm nhất, nên
hoặc tự mình, trong trường hợp
Hoàng Sa, hoặc cùng Philippines, Malaysia,
Indonesia, hay Brunei, trong trường hợp Trường
Sa, hoặc một kết hợp khéo léo
của cả hai phương án, công khai
kêu gọi Trung Quốc đồng ý để
các toà án quốc tế giải quyết
tranh chấp Biển Đông.
Bên cạnh
đấy, do điều kiện đảo, đá,
do nhu cầu giảm thiểu mức độ xung
đột, tranh thủ ủng hộ của quốc
tế, và do nhu cầu vô hiệu hoá
“đường lưỡi bò” của
Trung Quốc, Việt Nam nên chủ trương
quy định ngay cả đảo lớn nhất
thuộc Hoàng Sa-Trường Sa có lãnh
hải 12 hải lý và không có vùng
đặc quyền kinh tế hay thềm lục
địa.
Trung Quốc có
quan toà đại diện trong Toà án
Quốc tế và Toà án Luật Biển;
Trung Quốc luôn luôn khẳng định
trước dư luận thế giới là họ
có đầy đủ bằng chứng lịch
sử và pháp lý hậu thuẫn cho
đòi hỏi chủ quyền “đường
lưỡi bò” nói chung và quần
đảo Hoàng Sa-Trường Sa nói riêng.
Nếu Trung Quốc
muốn chứng minh họ cũng là nước
tôn trọng luật pháp và có
trách nhiệm với cộng đồng quốc
tế, nếu khẳng định của Trung Quốc
về chủ quyền dựa trên cơ sở
sự thật, khó có bất cứ lý
do chính đáng nào khác cho Trung
Quốc viện dẫn để từ chối vai
trò giải quyết tranh chấp giữa các
nước mà Toà án Quốc tế
hành xử hữu hiệu trong hơn 60 năm
nay.[48]
Việt Nam đang
thật sự đối diện với một
trách nhiệm to lớn mà lịch sử
giao phó: sử dụng luật pháp quốc
tế để duy trì hoà bình trong
một khu vực trọng yếu của thế
giới.
Thái Văn
Cầu
Chuyên gia Khoa
học Không gian, Hoa Kỳ
Nguồn
(*) Tham luận
tại Hội thảo quốc tế với chủ
đề “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự
thật lịch sử” từ ngày
19-21/6/2014 tại Tp. Đà Nẵng, do Đại
học Phạm Văn Đồng phối hợp
với Đại học Đà Nẵng đồng
tổ chức.
Bản do tác giả gửi Diễn Đàn. Mọi
hình
ảnh sử dụng trong bài là từ
nguồn tư liệu cổ, bản gốc, của
người viết.
________________Chú thích:
1. “Trung Quốc
yêu cầu Mỹ ‘công bằng’
ở Biển Đông”, 2014
http://soha.vn/quoc-te/trung-quoc-yeu-cau-my-cong-bang-o-bien-dong-20140325165830053.htm
“Xi tells Obama
to adopt 'fair' attitude on China's maritime disputes”, 2014
http://www.reuters.com/article/2014/03/25/us-china-usa-xi-idUSBREA2O04M20140325
“Obama, Xi Meet
at Nuclear Security Summit”, 2014
http://thediplomat.com/2014/03/obama-xi-meet-at-nuclear-security-summit/
2. Marwyn S. Samuels,
“Contest for the South China Sea”, 1982, tr. 67
Vũ Quang Việt,
“Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi
tìm giải pháp hòa bình và
công lý dựa trên chứng cứ lịch
sử và luật pháp quốc tế”,
2010
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_VuQuangViet.htm
3. Từ Đặng
Minh Thu, “Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”, 2007
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
Trong tiếng Việt,
hai từ “nhà nước” và “quốc
gia” đồng nghĩa với nhau, và đã
được sử dụng trong một số
nghiên cứu về luật pháp quốc tế
và chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa.
Trong tham luận này, khi nói về “states”,
như quy định trong Công ước
Montevideo, người viết sử dụng từ
quốc gia, thay vì từ nhà nước,
để có sự thống nhất trong giới
nghiên cứu Biển Đông.
Từ nhà
nước, khi sử dụng, giới hạn vào
Điều 1, Khoản c, trong Công ước
Montevideo.
“Montevideo
Convention on the Rights and Duties of States”, 1933
http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897
(Xem thêm “Đại
Nam Quấc âm Tự vị” của Huình-Tịnh
Paulus Của, tập II, in năm 1896, tr. 236, hay “Từ
điển Tiếng Việt”, Văn Tân chủ
biên, in lần thứ hai năm 1977, tr. 643.)
Chứng
cứ
Việt Nam hành xử chủ quyền biển
đảo trên Biển Đông trong hơn
300 năm qua được tư liệu cổ
phương Tây ghi nhận chi tiết và rõ
ràng:
Tư liệu cổ
Hà Lan, “Dagh-Register gehouden int Casteel Batavia vant
Passerende daer ter plaetse als over geheel Nederlandts-India”,
(Nhật ký Batavia của Công ty Hà
Lan-Đông Ấn), [1634], 1898, tr. 434-435, đề
cập đến một tai nạn đắm tàu
của công ty ở Hoàng Sa năm 1633 và
quan chức địa phương của Chúa
Nguyễn đã tịch thu trái phép
hàng hoá từ chiếc tàu này.
Duijcker (hay Duycker), đại diện của Toàn
quyền Batavia, liên lạc với Đàng
Trong (hay Quinam, theo cách gọi của Hà
Lan), yêu cầu giải quyết. Chúa Nguyễn
Phúc Lan cho biết là quan chức có
hành động sai trái này đã
bị xử chém. Thay vì bồi thường
hàng hoá, Chúa Nguyễn cho phép Hà
Lan hưởng một số đặc quyền
thương mại.
Xem
thêm:
Bộ Ngoại
giao VNCH, “White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa
(Spratly) Islands”, 1975, tr. 18-19
Hoàng Anh Tuấn, “Silk for Silver: Dutch-Vietnamese
Relations, Tonkin 1637-1700”, 2007, tr. 63-66
John Kleinen, “Lion
and Dragon: Four Centuries of Dutch-Vietnamese Relations”,
2008, tr. 24-28
Báo Pháp
Le Monde, số 2060 ngày 9-10 tháng 9 năm
1951, đưa tin trưởng phái đoàn
Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu khẳng
định chủ quyền Hoàng Sa-Trường
Sa là của Việt Nam trước 51 nước
tham dự Hội nghị San Francisco.
4. P.A. Lapicque, “A propos de
iles Paracels”, Extreme-Asie - Revue Indochinoise illustrée
#38, 1929, tr. 605-616
Bộ Ngoại giao VNCH, đd.,
tr. 36-37
Monique Chemillier-Gendreau, đd.,
tr. 100
5. Monique Chemillier-Gendreau, đd.,
tr. 87
“Conference for
the Conclusion and Signature of the Treaty of Peace with Japan”,
(I&II),
1951&1952, tr. I-261-263
Nguyen Huu Tru, “Quelques
problèmes de succession d'États concernant le
Viêt-Nam”, 1970, tr. 280-290
6. Toà án Quốc
tế, “Western Sahara”, 1975, tr. 41
http://www.icj-cij.org/docket/files/61/6195.pdf
Trong vòng 50 năm, từ
năm 1850 đến 1900, nhiều tai nạn đắm
tàu ở Hoàng Sa được báo
chí phương Tây ghi nhận:
“Wreck of the
"Douro" steam-ship (on the Paracel in the China Sea)
[5/24/1854]”, the
Illustrated London
News, #696, Vol. XXV, 8/05/1854, tr. 115-116
“The loss of the
gun-boat “Slaney” (at the Paracel islands) [5/09/1870]”,
the Illustrated
London News, #1603,
Vol. LVII, 7/16/1870, tr. 66
“Searching for
the missing gunboat “Wasp” on the Paracel coral reefs,
China Sea”, the
Graphic Illustrated
Weekly Newspaper, #943, Vol. XXXVI, 12/24/1887, tr. 681, 686
Monique
Chemillier-Gendreau, (về hai tai nạn đắm tàu
vào năm 1895 và năm 1896), đd., tr. 40
Theo Monique
Chemillier-Gendreau, trong hai tai nạn đắm tàu
của tàu Đức Bellona và tàu Nhật
Imezi Maru ở Hoàng Sa, hàng hoá của
tàu bị ngư dân Tàu đánh
cắp. Khi công ty bảo hiểm Anh liên lạc
với chính quyền Quảng Đông yêu
cầu giải quyết, chính quyền Quảng
Đông chối bỏ trách nhiệm, cho
rằng Hoàng Sa là vùng đất
hoang, “không thuộc Tàu, không thuộc
An Nam”.
Cách hành
xử của chính quyền Quảng Đông
trong hai trường hợp này, ở cuối
thế kỷ XIX, hoàn toàn khác biệt
với cách hành xử của Chúa
Nguyễn Phúc Lan trong tai nạn đắm tàu
của công ty Hà Lan-Đông Ấn ở
Hoàng Sa hơn 250 năm trước đấy.
(Xem chú thích #3).
7. Monique
Chemillier-Gendreau, đd., tr. 105-106
Đi trước
quan điểm pháp lý của Max Huber hơn
100 năm, Jacobus Van Wijk Roelandszoon, nhà địa
lý học Hà Lan, trong bộ từ điển
“Algemeen aardrijkskundig woordenboek”, gồm 11
cuốn, xuất bản lần đầu tiên
năm 1821, viết, “Hoàng Sa, nhóm đảo
trong Biển Nam Trung Hoa, thuộc An Nam ... Các đảo
chính là đảo Cây, Phú Lâm,
Đá, An Vĩnh, Lincoln, Hoàng Sa, v.v.”,
mặc dù chưa hẳn là Chúa Nguyễn
hay triều đình nhà Nguyễn đã
hành xử chủ quyền ở mọi đảo
của quần đảo Hoàng Sa.
8. Toà án
Quốc tế, “Land and Maritime Boundary between
Cameroon and Nigeria (Cameroon v. Nigeria: Equatorial Guinea
intervening)”, 2002
http://www.icj-cij.org/docket/index.php?sum=495&code=cn&p1=3&p2=3&case=94&k=74&p3=5
9. R. Y. Jennings, “The
acquisition of territory in international law”, 1963, tr. 30
10. Monique Chemillier-Gendreau,
đd., tr. 93, 174
Nguyen Huu Tru, đd,
tr. 44, 50
11. Dieter Heinzig,
“Disputed Islands in the South China Sea: Paracels, Spratlys,
Pratas, Macclesfield Bank”, 1976, tr. 21-25
Greg Austin, “China's
Ocean Frontier: International Law, Military Force and National
Development”, 1998, tr. 112-115
Stein Tonnesson, “The
Paracels: The other South China Sea dispute”, 2001
12. Nguyễn Nhã,
“Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến
tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại
quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa: nguyên nhân và giải pháp”,
2008
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nhan-thuc/2467-nguyen-nha-hoan-canh-lich-su-dan-den-tranh-chap-chu-quyen-cua-viet-nam-tai-quan-dao-hoang-sa-va-truong-sa-nguyen-nhan-va-giai-phap.html
Trung tướng
Nguyễn Văn Hiến, “Đời con, cháu
phải tiếp tục khẳng định chủ
quyền Hoàng Sa”, 2009
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2009-10-28-doi-con-chau-phai-tiep-tuc-khang-dinh-chu-quyen-hoang-sa-
13. Nuno Sergio Marques
Antunes, “Towards the conceptualisation of maritime
delimitation: legal and technical aspects of a political process”,
2003, tr. 48
14. Toà án
Trọng tài Thường trực, “The
Grisbadarna Case between Norway and Sweden Decided October 23, 1909”,
1909, tr. 130-132
http://dspace.hil.unb.ca:8180/bitstream/handle/1882/995/PhaseII_NL_Memorial_AnnexOfAuthorities_Volume1_Tab3.pdf?sequence=3
Nuno Sergio Marques
Antunes, “Estoppel, Acquiescence and Recognition in Boundary
Dispute Settlement”, 2000, tr. 8
https://www.dur.ac.uk/ibru/publications/view/?id=215
15. Toà án
Quốc tế, “Maritime Delimitation and Territorial
Questions between Qatar and Bahrain (Qatar v. Bahrain)”, 2001,
tr. 70-75
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7027.pdf
Toà án
Quốc tế, “Dissenting Opinion of Judge Torres
Bernárdez”, 2001, tr. 267
http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7047.pdf
16. Giản Quân
Ba, “Vì sao Trung Quốc coi biển Đông
là ‘mối quan tâm chủ đạo’?”,
2010
http://www.voatiengviet.com/content/south-china-sea-core-interests-99451964/875010.html
“Ngư dân
bất chấp Trung Quốc ngược ngạo”,
2013
http://plo.vn/plo/ngu-dan-bat-chap-trung-quoc-nguoc-ngao-374545.html
17. Wu Shicun, “Solving
Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China
Sea: A Chinese Perspective”, 2013, tr. 4, 8
18. Thái Văn
Cầu, “Tranh chấp Biển Đông và
vai trò của VN”, 2014
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/03/140314_vietnam_role_scs_conflict.shtml
Toà án
Quốc tế, “Judge Xue Hanqin”, 2014
http://www.icj-cij.org/court/index.php?p1=1&p2=2&p3=1&judge=170
Toà án
Quốc tế về Luật Biển, “Judge
Zhiguo Gao”, 2014
http://www.itlos.org/index.php?id=92&L=true
Xue Hanqin là
quan toà trong ICJ từ năm 2010; Zhiguo Gao là
quan toà trong ITLOS từ năm 2008. Hai quan toà
Trung Quốc có nhiều nghiên cứu về
luật pháp quốc tế phổ biến trên
các tạp chí quốc tế.
Hoàng Việt,
“Tổng lực nghiên cứu chủ quyền
Biển Đông”, 2011
http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tong-luc-nghien-cuu-chu-quyen-bien-dong-tong-luc-nghien-cuu-chu-quyen-bien-dong-2195341/
Theo tác giả
bài này, trong giai đoạn 1999-2010, Trung
Quốc có 238 luận án tiến sĩ và
516 hội thảo về đề tài Biển
Đông.
“PLA Navy
amphibious task force reaches Malaysia 'to defend South China sea'”,
2013
http://www.scmp.com/news/asia/article/1200564/pla-navy-amphibious-task-force-reaches-james-shoal-near-malaysia
“Tham vọng
viễn dương của Hải quân Trung
Quốc”, 2014
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/phan-tich/tham-vong-vien-duong-cua-hai-quan-trung-quoc-2950804.html
19. “Phản
đối Trung Quốc bắn cháy tàu cá
Việt Nam tại Hoàng Sa”, 2013
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/539692/phan-doi-trung-quoc-ban-chay-tau-ca-viet-nam-tai-hoang-sa.html
“China urges
Vietnam to stop illegal fishing in Xisha Islands”, 2013
http://english.peopledaily.com.cn/90883/8183680.html
20. Toà án
Quốc tế, “Territorial and Maritime Dispute between
Nicaragua and Honduras in the Caribbean Sea (Nicaragua v. Honduras)”,
2007
http://www.icj-cij.org/docket/index.php?p1=3&p2=1&k=14&case=120&code=nh&p3=4
Pieter Bekker & Ana
Stanic, “The ICJ Awards Sovereignty over Four Caribbean Sea
Islands to Honduras and Fixes a Single Maritime Boundary between
Nicaragua and Honduras”, 2007
http://www.asil.org/insights/volume/11/issue/26/icj-awards-sovereignty-over-four-caribbean-sea-islands-honduras-and
21. M. Taylor Fravel,
“Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in
China's Territorial Disputes”, 2008, tr. 46-47
22. “Charter of
the United Nations”, 1945
https://www.un.org/en/documents/charter/index.shtml
“Hiến
chương Liên hiệp quốc”, 1945
http://luatgialong.com.vn/upload/hien-chuong-lien-hop-quoc-nam-1945.pdf
23. Marwyn S. Samuels, đd., tr.
100-101
Greg Austin, đd.,
tr. 73-77
Stein Tonnesson, đd.,
tr. 5, 11
Wu Shicun, đd.,
tr. 60
24. Nguyễn Văn
Thơ, Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc,
“Chúng ta luôn xác định biển
Đông là vấn đề phức tạp,
lâu dài”, 2013
http://laodong.com.vn/doi-ngoai/chung-ta-luon-xac-dinh-bien-dong-la-van-de-phuc-tap-lau-dai-166084.bld
Nguyễn Văn
Thơ, “S. China Sea dispute won't be solved overnight:
Vietnamese ambassador”, 2014
http://www.globaltimes.cn/content/848089.shtml#.U1QlmqJNWSo
25. Nuno Sergio Marques
Antunes, “Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial
and Boundary Dispute Settlement”, 2000, tr. 5
https://www.dur.ac.uk/ibru/publications/view/?id=215
26. Brian Taylor
Sumner, “Territorial Disputes at the International Court of
Justice”, 2004, tr. 1781-1782
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=665304
27. Marwyn S. Samuels, đd., tr.
31-42
Greg Austin, đd., tr. 98-112
Hồ Bạch Thảo,
“Phản biện lập luận của nhà
nghiên cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh
vực sử địa cổ có liên quan
đến Biển Đông được đề
cập trong tác phẩm Ngã Quốc Nam Hải
Chư Đảo Sử Liệu Hối Biên”,
2010
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_HoBachThao.htm
Phạm Hoàng Quân,
“Những ghi chép liên quan đến
Biển Đông của Việt Nam trong Chính
sử Trung Quốc”, 2011
http://www.seasfoundation.org/research-documents/historical-and-legal-arguments/china-arguments/728-nhng-ghi-chep-lien-quan-n-bin-ong-vit-nam-trong-chinh-s-trung-quc
28. Wu Shicun, đd., tr. 38, 58,
60, 86, 94
29. Monique Chemillier-Gendreau,
đd., tr. 74-78
Toà án
Quốc tế, “Minquiers and Ecrehos (France/United
Kingdom)”, 1953
http://www.icj-cij.org/docket/index.php?sum=88&code=fuk&p1=3&p2=3&case=17&k=19&p3=5
30. Monique Chemillier-Gendreau, đd,
tr. 122
Từ Đặng Minh Thu,
“Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”, 2007
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
Nguyễn Hồng
Thao, “Vietnam's Position on the Sovereignty over the Paracels
& the Spratlys: Its Maritime Claim”, 2012
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2123861
Duy Tân Joële
Nguyễn, “Nhìn lại Công hàm Phạm
Văn Đồng 1958”, 2012
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/09/120914_phamvandong_note.shtml
Tạ Văn Tài,
“Trung Quốc không có lý gì khi
viện dẫn công thư 1958”, 2014
http://thegioi.baotintuc.vn/phan-tichnhan-dinh/ts-ta-van-tai-trung-quoc-khong-co-ly-gi-khi-vien-dan-cong-thu-1958-20140525092032611.htm
Thái Văn
Cầu, “Hai Nhà nước Việt Nam và
Chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”,
2013. (Xem chú thích #3).
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/hai-nha-nuoc-viet-nam-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa
Thái Văn
Cầu, “Quyền kế thừa của nhà
nước và chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa”, 2014
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140116/quyen-ke-thua-cua-nha-nuoc-va-chu-quyen-hoang-sa-truong-sa.aspx
31. M. Andreu, “Compendio de
geografia moderna”, Tomo II, Capitulo XIV, 1829, tr. 87
Jean Louis Taberd,
“Note on the Geography of Cochin China”, Journal of the
Asiatic Society of Bengal, India, Vol. VI, #69, 9/1837, tr. 737-745
32.
“China's
Indisputable Sovereignty Over the Xisha and Nansha Islands: Document
of the Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China,
January 30, 1980”, tr. 7
Marwyn S. Samuels, đd., tr. 52
Wu Shicun, đd.,
tr. 51
Mer de Chine - Les Paracels d'après
les levés des Officiers Allemands de la Freya et de l'Iltis
(1881-83), 1885
33. Thái Văn Cầu,
“Hướng đi tới cho tranh chấp
HS-TS”, 2011
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2011/12/111201_hoangsa_opinion.shtml
Việt Nam sử dụng
một số thông tin không chính xác
về chứng cứ lịch sử, cụ thể
như cho rằng “nhật ký trên tàu
Amphitrite xác nhận Paracels là một quần
đảo thuộc về nước An Nam năm
1701”.
Tư liệu cổ phương
Tây, bản gốc, cho thấy chi tiết chủ
quyền được thêm vào trong phần
phụ chú khi sách in năm 1843; người
viết đã chia sẻ thông tin này
với một số người có liên
hệ.
Nguyễn Nhã, “Trường
Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam”,
2007, tr.17
http://biendong.tuoitre.vn/dia-ly-chu-quyen/232745/Truong-Sa-va-Hoang-Sa-la-cua-Viet-Nam.html
Bộ Ngoại giao CHXHCNVN,
“La Souverainete du Viet Nam sur les archipels Hoang Sa et
Truong Sa”, 1979, tr. 51
L. Aimé-Martin, “Lettres
édifiantes et curieuses concernant l'Asie, l'Afrique et
l'Amérique, avec quelques relations nouvelles des missions et
des notes géographiques et historiques”, Volume III,
1843, tr. 38
34. Bộ Ngoại giao
CHXHCNVN, đd., tr. 55
35. Giản Quân
Ba, đd.
Vasily Kashin, “AirSea
Battle - concept of US defeat in war with China?”, 2013
http://voiceofrussia.com/2013_12_27/AirSea-Battle-concept-of-US-defeat-in-war-with-China-4942/
“Taiwan think
tank on China’s territorial ambitions and decisive military
superiority by 2020”, 2014
http://cofda.wordpress.com/2014/03/04/taiwan-think-tank-on-chinas-territorial-ambitions-and-decisive-military-superiority-by-2020/
“Philippines:
Trung Quốc sẽ xâm lược, đánh
chiếm Trường Sa vào năm 2020”,
2014
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/Philippines-Trung-Quoc-se-xam-luoc-danh-chiem-Truong-Sa-vao-nam-2020-post141853.gd
36. “Philippines
đưa tranh chấp biển đảo với
Trung Quốc ra tòa án LHQ”, 2013
http://dantri.com.vn/diem-nong/philippines-dua-tranh-chap-bien-dao-voi-trung-quoc-ra-toa-an-lhq-688179.htm
“Philippines
trình hồ sơ 4.000 trang tài liệu kiện
Trung Quốc”, 2014
http://vov.vn/The-gioi/Philippines-trinh-ho-so-4000-trang-tai-lieu-kien-Trung-Quoc/318271.vov
“Philippines
Seeks Arbitration at U.N. Over China's Claims in South China Sea”,
2014
http://online.wsj.com/news/articles/SB10001424052702304157204579470951200661852
37. “Malaysia
ngăn Trung Quốc ở biển Đông”,
2013
http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/malaysia-ngan-trung-quoc-o-bien-dong-20131019101718341.htm
“Malaysia “rắn”
với Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông”,
2014
http://vov.vn/The-gioi/Quan-sat/Malaysia-ran-voi-Trung-Quoc-trong-tranh-chap-Bien-Dong/312698.vov
“Malaysia to
establish marine corps, naval base close to James Shoal”, 2013
http://www.janes.com/article/28438/malaysia-to-establish-marine-corps-naval-base-close-to-james-shoal
38. “Indonesia
hành động trước mối đe dọa
Trung Quốc ở Biển Đông”, 2014
http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/indonesia-hanh-dong-truoc-moi-de-doa-trung-quoc-o-bien-dong-3002480/
“Indonesia đổi
thái độ về biển Đông”,
2014
http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/indonesia-doi-thai-do-ve-bien-dong-20140418142844282.htm
“China's
Dismaying New Claims in the South China Sea”, 2014
http://online.wsj.com/news/articles/SB10001424052702304279904579515692835172248
“Indonesia Draws
a Line in the Sea”, 2014
http://www.asiasentinel.com/politics/indonesia-draws-line-sea/
39. “Trung Quốc
lại ngang ngược cấm đánh bắt
trên Biển Đông” 2014
http://dantri.com.vn/the-gioi/trung-quoc-lai-ngang-nguoc-cam-danh-bat-tren-bien-dong-877402.htm
“Phản đối
Trung Quốc đánh đập ngư dân
Việt Nam”, 2014
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phan-doi-trung-quoc-danh-dap-ngu-dan-viet-nam-708195.tpo
“Tàu Trung
Quốc bắn chết ngư dân Việt Nam”,
2005
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-Trung-Quoc-ban-chet-ngu-dan-Viet-Nam/20367005/157/
40. “Việt-Trung
thỏa thuận nguyên tắc giải quyết
vấn đề trên biển”, 2011
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/viet-trung-thoa-thuan-nguyen-tac-giai-quyet-van-de-tren-bien-2207907.html
41. “Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng: Đòi
chủ quyền Hoàng Sa bằng biện pháp
hòa bình”, 2011
http://plo.vn/chinh-tri/thu-tuong-nguyen-tan-dung-doi-chu-quyen-hoang-sa-bang-bien-phap-hoa-binh-91884.html
42. “Chủ
tịch nước khẳng định lập
trường về chủ quyền biển đảo”,
2013
http://vov.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=259432
43. “Việt
Nam không đổi chủ quyền lấy hữu
nghị viển vông”, 2014
http://vneconomy.vn/20140522015857486P0C9920/viet-nam-khong-doi-chu-quyen-lay-huu-nghi-vien-vong.htm
“Việt Nam
đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút
giàn khoan”, 2014
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/viet-nam-da-20-lan-yeu-cau-trung-quoc-rut-gian-khoan-2993408.html
44. “TQ 'không
đàm phán về Hoàng Sa'”, 2011
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/08/110824_china_paracels.shtml
Tôn Quốc
Tường, Đại sứ Trung Quốc ở
Việt Nam ,“Gác lại tranh chấp Biển
Đông, chờ điều kiện chín
muồi”, 2010
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/gac-lai-tranh-chap-bien-dong-cho-dieu-kien-chin-muoi-182662.tpo
Greg Torode, “Vietnam
fails to bring China into Paracels talks”, 2011
http://www.scmp.com/article/977002/vietnam-fails-bring-china-paracels-talks
“Chủ quyền
Tây Sa của Trung Quốc không tồn
tại tranh cãi-việc trục xuất
tàu cá đánh bắt trái phép
của Việt Nam là chính đáng
và hợp pháp”, 2012
http://vietnamese.cri.cn/421/2012/03/01/1s169063.htm
“Tập Cận
Bình: Chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác
tranh chấp cùng hợp tác”, 2013
http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Tap-Can-Binh-Chu-quyen-thuoc-Trung-Quoc-gac-tranh-chap-cung-hop-tac-post125139.gd
45. “U.S.
Following Through on Pacific Rebalance, Hagel Says”, 2013
http://www.defense.gov/news/newsarticle.aspx?id=120186
Kurt M. Campbell &
Ely Ratner, “Far Eastern Promises. Why Washington Should Focus
on Asia”, 2014
http://www.foreignaffairs.com/articles/141241/kurt-m-campbell-and-ely-ratner/far-eastern-promises
46. “G7 yêu
cầu ‘thượng tôn pháp luật’
Biển Đông, Hoa Đông”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/179189/g7-yeu-cau--thuong-ton-phap-luat--bien-dong--hoa-dong.html
“G7 Leaders’
Communiqué, June 2014 – Foreign Policy”, 2014
http://europa.eu/rapid/press-release_IP-14-637_en.htm?locale=en
“Pháp quan
ngại trước leo thang căng thẳng ở
Biển Đông”, 2014
http://dantri.com.vn/the-gioi/phap-quan-ngai-truoc-leo-thang-cang-thang-o-bien-dong-884360.htm
“Úc 'kịch
liệt phản đối' hành động đơn
phương trên biển Đông”, 2014
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140604/uc-kich-liet-phan-doi-hanh-dong-don-phuong-tren-bien-dong.aspx
“Tony Abbott
issues clear signal to China saying government 'strongly discourages'
unilateral actions in the region”, 2014
http://www.smh.com.au/federal-politics/political-news/tony-abbott-issues-clear-signal-to-china-saying-government-strongly-discourages-unilateral-actions-in-the-region-20140604-39hyp.html
Shangri-La Dialogue,
“Keynote Address: Shinzo Abe”, 2014
https://www.iiss.org/en/events/shangri%20la%20dialogue/archive/2014-c20c/opening-remarks-and-keynote-address-b0b2/keynote-address-shinzo-abe-a787
“EU lo ngại
về tình hình Biển Đông”,
2014
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/eu-lo-ngai-ve-tinh-hinh-bien-dong-2997541.html
“UK speaks in
support of EU statement on tensions in South China Sea”, 2014
https://www.gov.uk/government/news/uk-speaks-in-support-of-eu-statement-on-tensions-in-south-china-sea
47. Bonnie S. Glaser,
“Armed Clash in the South China Sea”, 2013
http://www.cfr.org/world/armed-clash-south-china-sea/p27883?cid=rss-internationalpeaceandsecuri-armed_clash_in_the_south_china-041112
“Trade in Goods
with China”, 2014
http://www.census.gov/foreign-trade/balance/c5700.html
"Năm 2014 GDP
của Trung Quốc sẽ lần đầu
tiên đột phá mức 10 nghìn
tỷ đô-la Mỹ", 2014
http://vietnamese.cri.cn/621/2014/03/10/1s196435.htm
“Thủ tướng:
GDP bình quân đầu người năm
2013 đạt 1.960 USD”, 2013
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/thu-tuong-gdp-binh-quan-dau-nguoi-nam-2013-dat-1960-usd-811231.htm
48. Ngô Vĩnh
Long, “Việt Nam nên kiện Trung Quốc ra
Tòa án quốc tế”, 2014
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/174731/-viet-nam-nen-kien-trung-quoc-ra-toa-an-quoc-te-.html
Dương Danh
Huy, “Việt Nam cần kiện ra tòa quốc
tế”, 2014
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/606498/viet-nam-can-kien-ra-toa-quoc-te.html
Thái Văn
Cầu, “Việt Nam nên sớm đưa
vấn đề Biển Đông ra trước
tòa án quốc tế”, 2014
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140315-viet-nam-nen-som-dua-van-de-bien-dong-ra-truoc-toa-an-quoc-te
Nguồn:Diễn Đàn.
Những chiếc vòi rồng đến lăm le vùng trời biển quê ta
Trả lờiXóaKhông phải của con rồng thiêng trong truyền thuyết
Mà là con rồng đen ác ma hiện hình kẻ cướp
Đang hung hăng phun nước ở biển Đông
Những chiếc vòi rồng đang phun về phía các anh
Những người lính biển
Tàu dẫu lắc lư các anh bám trụ
Sang sảng tiếng loa dẫu không một tiếng trả lời
Thông điệp hoà bình Tổ quốc ta chúng coi chẳng ra gì
Ngang nhiên coi sân người khác là chỗ mình giương oai múa võ
Con rồng đen mọc những chiếc vòi quái gỡ
Chiếc cắm xuống biển đang sục sạo bể dầu
Chiếc phun vào người Việt khắp năm châu
Chứ đâu phải chống lại những con tàu đang trấn biển
Này con Rồng đen giả dạng người hùng
Ta chẳng tha mi khi ta đã đồng lòng
Băng khơi xa, cưỡi trên sóng biếc
Dẫu hi sinh vì Tổ quốc mình chúng tao đâu có tiếc
Sẽ lật mặt mi bộ mặt giả nghĩa nhân
Người Việt khắp năm châu
Há phải non sông đang gặp nạn
Hoạ xâm lăng từ khúc nước biển Đông
Với con rồng đen này xin hãy vót sắc chông
Cắm vào yết hầu để nó biết thế nào là gục ngã
Khi nó chết nó sẽ hoá thành tường đá
Thức tỉnh giấc mộng dài mang bộ mặt Trung Hoa
Đảo chìm đảo nổi của ta, dậy hồn thiêng sông núi
Giăng lưới quây chặt đứt nọc con rồng
Để ác long không còn mảy may xâm lấn biển Đông
Để biển Việt mãi thanh bình rì rào sóng vỗ
Hỡi trên núi cao, Hùng Vương Quốc tổ
Tụ về nơi này trợ giúp cháu con mình
Những người hậu sinh
Thà phải chết chứ không bao giờ để thêm một lần mất nước
HN 16.5.2014
Phạm Xuân Giang Hoàng
http://vietnamnet.vn/vn/ban-doc-phap-luat/175845/chat-dut-voi-rong-den-gay-hoa.html#