Văn học và văn hóa tâm linh
Trần Đình Sử
.
.
Văn học và văn hóa tâm linh (mysterious culture) vốn có mối liên
hệ khăng khít trong lịch sử văn học của bất cứ dân tộc nào. Một thời
gian dài do quan niệm duy vật thô sơ, cực đoan, đồng nhất văn học với
nhận thức khoa học, với chính trị, chúng ta chẳng những bài xích các
hiện tượng hiện thượng tâm linh nói chung, xem là mê tín dị đoan, mà còn
phê phán chúng như là hiện tượng phi, phản khoa học, phi lí tính trong
đời sống và cả trong văn học. Nhưng từ thời đổi mới đến nay, khi quan
niệm ấu trĩ được khắc phục dần, lại thêm mở của giao lưu rộng rải với
văn hóa thế giới, yếu tố tâm linh lại trở về với văn học, và hôm nay trở
thành đề tài nghiên cứu khoa học. Sự đổi thay ấy hoàn toàn có cơ sở,
bởi vì con người từ thời nguyên thủy đã kí thác niềm tin của mình vào
các lực lượng siêu nhiên. Cùng với ựu phát triển của khoa học và lí trí
niềm tin siêu nhiên giảm dần, song không biến mất, bởi vì cuộc sống vẫn
tràn đầy bí ẩn, cái ngẫu nhiên vẫn ngự trị trong đời sống cá nhân và xã
hội, lí trí và mù quáng không tách rời. Khi lịch sử nhân loại vừa là
lịch sử của lí trí, vừa là lịch sử của vô thức, phi lí tính, thì cái tâm
linh vẫn còn là hiện tượng cần được xem xét cả trong thực tế lẫn trong
văn học.
1. Con người và tâm linhvà văn hóa tâm linh
Con người từ cổ sơ vốn là động vật tâm linh, trên con đường tách dần
khỏi sự phụ thuộc vào thiên nhiên đã lần lượt trải qua các hoạt động vu
thuật, tô tem, tôn giáo, đa thần, phiếm thần, thần thoại, cho dù khi
nhân loại đã bước vào thời khai sáng, khoa học kĩ thuât phát triển,
nhưng còn biết bao câu hỏi về số phận của từng người cụ thể vẫn không
thể giải thích, giải quyết được, và con người vẫn gửi gắm niềm tin vào
lĩnh vực tâm linh. Cho đến bây giờ con người vẫn tin vào tử vi, bát
quái, phong thủy, tướng số, sấm ngữ, chọn ngày lành tháng tốt để làm các
việc, tin có thế giới bên kia, tin vào sự bảo trợ của các sức mạnh siêu
nhiên, tin ác giả ác báo, tin vào anh linh người đã mất, tôn thờ gia
tiên, các tôn giáo, tín ngưỡng. Ngoài ra con người vẫn thường nằm mơ, có
giác quan thứ sáu, có trực giác đi trước nhận thức, có năng lực ngoại
cảm mà khoa học chưa thể giải thích. Giải thích mộng như Freud chỉ là
một cách quy vào bản năng tính dục, còn giải thích vô thức tập thể của
Jung chỉ là sự thừa nhận tâm linh nhân loại. Các nhà khoa học lớn vẫn
tin vào tôn giáo. Các nhà duy vật kiên định nhất thời đại ta vẫn đều đặn
đi chùa, thăm đền mỗi dịp lễ tết hoặc khi gặp sự kiện trọng đại. Người
Trung Quốc ngày nay hẳn ai cũng biết, Mao Trạch Đông trước khi làm lễ
khai sinh nước CHNDTH đã lên núi Ngũ Đài Sơn xin thẻ, xin được chữ
“thượng thượng cát” mới tổ chức linh đình ngày lễ lớn. Cứ thế mà suy
nhiều ngày lễ lớn ở nước khác hẳn cũng không bỏ qua các thủ tục tương
tự. Không thể cho rằng đó chỉ là tàn dư văn hóa thời trung đại khi ánh
sáng Khai sáng của thời Khoa học Văn minh chưa chiếu rọi khắp tâm hồn,
xã hội. Phải nói ngay rằng trong văn hóa tâm linh còn có xen lẫn nhiều
yếu tố mê tín dị đoan, phi khoa học, phản khoa học, có hại cho đời sống.
Ví dụ như chữa bệnh bằng bùa chú, trừ ma đuổi tà, uống nước thánh mà Vũ
Trọng Phụng đã giễu. Tuy nhiên mặt khác, tâm linh còn là phương thức
tồn tại của con người, bởi vì khoa học chủ yếu tìm hiểu các quy luật
chung, còn cuộc sống xã hội cũng như cuộc đời riêng của mỗi cá nhân vẫn
chủ yếu do các quy luật ngẫu nhiên chi phối, nó là sự gặp gỡ của các quy
luật chung. Nhưng các quy luật chung ấy bao giờ gặp nhau, gặp ở đâu,
không ai biết trước. Các nhân vật lỗi lạc cũng như mọi người bình thường
đều sinh ra ngẫu nhiên, chết ngẫu nhiên, các cuộc chiến tranh xảy ra
ngẫu nhiên, kết thúc ngẫu nhiên, các thời cơ xuất hiện ngẫu nhiên, theo
những khả năng mà mỗi người trong cuộc không sao nắm bắt hết. Xét từ góc
độ hiện sinh, con người cá nhân vốn là một tự do lựa chọn, nhưng, tham
số lựa chọn của nó rất hữu hạn, bản thân rất cô đơn. Xét về mặt tâm lí,
con người không phải bao giờ cũng xử sự theo lí tính, phần cảm tính,
ngẫu hứng, trong đó tâm linh là một bộ phận của phi lí tính đóng vai trò
rất to lớn. Tất nhiên phạm vi phi lí tính rộng hơn tâm linh, vì nó gồm
cả phạm vi vô thức, mặc cảm, ngộ nhận…đều không phải tâm linh. Nhiều ý
hướng tâm linh được lí tính hóa, logich hóa như âm dương ngũ hành, thiên
nhân cảm ứng, đạo Phật, đạo Thiên chúa…nhưng lõi cốt vẫn là tâm linh
phi lí tính. Cho nên ngoài nguồn thông tin do các khoa học đem lại, con
người còn muốn có thêm các thông tin bổ sung, cầu mong các lực lượng
siêu nhiên phù trợ. Như thế lịch sử nhân loại, dân tộc không chỉ do
thuần lí tính tạo nên như ta tưởng, mà phần lớn do cả phần phi lí tính,
phần vô thức, phần tâm linh trong xã hội tạo nên. Xét về góc độ nhân
loại học văn hóa tâm linh là một bình diện của văn hóa các tộc người,
gắn với phong tục tập quán, cố định trong ngôn ngữ, đúc rút thành các
motyp, các mẫu gốc thi pháp của các truyện kể truyền thống. Cho nên văn
hóa tâm linh sẽ theo suốt cuộc tồn tại của các dân tộc trên trái đất,
gắn với con người và thể hiện trong văn học nghệ thuật. Trong con người
hiện đai vẫn đan xen con người khoa học và con người tâm linh, chung
sống với nhau trong một cơ thể, một tâm hồn.
2. Tâm linh và văn học
Văn học phản ánh hiện thực thì tất nhiên phản ánh yếu tố tâm linh vào văn học. Đọc hết các tác phẩm chữ Hán như Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt thông sử, đọc Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Thánh Tông di thảo, Hoàng Lê nhất thống chí
và bao nhiêu danh tác của kho tàng văn học trung đại Việt Nam có nơi
nào con người trong đó không gắn chặt với thế giới tâm linh? Đọc sang
văn học Trung Quốc từ Li Tao, Sử kí, Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây Du kí, đến Hồng Lâu mộng, có tác phẩm nào không thấm nhuần văn hóa tâm linh? Các truyện nôm như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa…
có tác phẩm nào là không gắn với văn hóa tâm linh? Tác phẩm văn học
đương đại như của G. Marquez và Mạc Ngôn đều đậm chất tâm linh. Tâm
linh ở đó là một phần của cuộc sống con người trong đó. Thiếu yếu tố tâm
linh sự miêu tả văn học sẽ thiếu chân thục.
Tâm linh trong văn học gắn với ước mơ khát vọng cuộc sống hạnh phúc,
tốt đẹp, trường thọ, giàu có, mạnh mẽ, uy lực, khả nắng vượt qua mọi trở
lực, vượt lên thế giới hữu hạn.
Tuy nhiên vị trí của yếu tố tâm linh trong văn học có tính chất lịch
sử. Vào thời cổ đại, trung đại, khi tư tưởng khái sáng chưa chiếu rọi
yếu tố tâm linh chiếm địa vị chủ đạo. Bởi tất cả mọi người đương thời
chỉ tồn tại trong thế giới tâm linh, mang giá trị tâm linh, được thể
hiện trong diễn ngôn tâm linh của thời đại. Nghiên cứu văn học trung đại
mà bỏ qua diễn ngôn tâm linh, bản thể tâm linh, chỉ giải thích hoàn
toàn theo quan niệm chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa duy vật hiện đại là
sai lầm căn bản của học thuật một thời, tưởng đã đến lúc cần phải dứt
khoát thay đổi. Ông Trần Đình Hượu đã từng có nhận xét rất sâu sắc:
“Hướng vào thực tại bằng tâm chí không dắt văn học đến con đường hiện
thực.”[1]
Ông nhấn mạnh đến vai trò của thế giới quan tâm chí. Tuy nhiên trong
công trình của mình Trần Đình Hượu chỉ tập trung phân tích truyền thống
nho giáo, chứ chưa xem xét vấn đề ở bản thể tâm linh. Ngược lại, văn học
một khi đã phản ánh hiện thực thì không tránh khỏi phản ánh tâm linh
con người.
Bước vào thời hiện đại, ảnh hưởng của quan niệm khoa học khai sáng
phương Tây khiến cho truyền thống văn hóa tâm linh bị coi là mê tín dị
đoan, phản khoa học. Đối với khoa học, tâm linh là lĩnh vực của những
điều chưa thể chứng minh bằng khoa học. Nhưng đối với văn hóa, đó là
lĩnh vực của “phong tục”(Phan Kế Bính), là “nếp cũ” (Toan Ánh), thấm
sâu trong tiềm thức con người. Ý thức văn học hiện đại, do ảnh hưởng của
khoa học đã hướng về thực tại khách quan, thu hẹp phạm vi của thế giới
quan tâm linh. Nhưng con người thực tế vẫn duy trì một một khoảng tâm
linh trong tâm hồn, thế giới tâm linh vẫn là một thực tế, và vẫn là đối
tượng của sự miêu tả văn học. Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa và hiện
thực chủ nghĩa thuộc giai đoạn 1932 – 1945 vừa có thế giới quan khoa
học, vừa có yếu tố văn hóa tâm linh, vẫn miêu tả con người mang tâm linh
ấy. Ví dụ như Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời và nhiều bài
tùy bút khác. Trong văn học cách mạng thời kháng chiến chống Pháp thì
yếu tố tâm linh vẫn đang có vị trí. Nhà thơ Tố Hữu, trong khi tuyên bố:
“Trời không có thiên thần, Đất không có thánh nhân, Chỉ có nhân dân thần
thánh”, thì trong một số bài thơ miêu tả quần chúng, đã có yếu tố tâm
linh. Bà Bủ: “Đêm đêm bà bủ nằm mơ khấn thầm.” Trong bài Sáng tháng Năm
có yếu tố tâm linh mới: “Anh chị em ơi có phải, Mỗi khi lòng ta xao
xuyến rung rinh, Môi ta thầm kêu Hồ Chí Minh, Và mỗi trận mỗi mùa vui
thắng lợi.” “Thầm kêu” ở đây có ý nghĩa như là khấn, cầu và “cái tên yêu
Hồ Chí Minh” như một phép mầu khiến cho mỗi trận mỗi mùa vui thắng lợi.
Trong truyện ngắn Làng rất nổi tiếng của Kim Lân có chi tiết ông
Hai cảm thấy nhục khi có tin đồn cả làng ông theo Tây, ông khóc thầm và
nghĩ, Cụ Hồ trên đầu trên cổ sẽ hiểu thấu cho bố con ông. Nhưng sang
giai đoạn sau năm 1954 theo nhận xét sơ bộ của tôi, yếu tố tâm linh hầu
như không có nữa. Một mặt, chủ nghĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa, quan
niệm miêu tả đời sống theo quan niệm phản ánh duy vật không cho phép,
mặt khác, các hiên tượng tâm linh bị đồng nhất với mê tín dị đoan, dễ
“làm sống lại trong đầu óc người đọc bình thường những quan điểm phản
khoa học lỗi thời”[2]
Trong suốt thời kì này song song với phong trào chống mê tín dị đoan,
xây dựng đời sống văn hóa mới, người ta cho phá hoại nhiều đền miếu,
đình làng, nhà thờ họ ở các địa phương. Cho đến những năm 80 các hiện
tượng tâm linh như ông Chưởng Cần, công trình nghiên cứu của giáo sư
Nguyễn Hoàng Phương đều bị cấm đoán, thậm chi không cho phép ông ấy đi
nói chuyện tại các cơ quan đơn vị.
Tuy vậy, từ sau 1975, các yếu tố tâm linh ngày càng thâm nhập vào văn
học. Đặc biệt từ thời đổi mới sáng tác mang yếu tố tâm linh ngày cang
nhiều. Các sáng tác của các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Hòa
Vang, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh…ngày càng được bạn đọc yêu chuộng,
thích thú. Một mặt, tâm linh là hiện tượng tự nhiên trong đời sống,
trong văn học truyền thống, nay dùng làm chất liệu sáng tạo mới, khiến
người đọc thích thú. Mặt khác hiện thực được hiểu như là những giấc mơ,
huyền thoại của con người, kì lạ, bất tận, trong đời sống có Chúa, có
Phật, cũng có ma có quỷ, và tất nhiên có cả niềm tin cái siêu nhiên. Tâm
linh đã trở lại với văn học, không chỉ có tác dụng miêu tả đời sống
trong phương thức tồn tại tâm linh, mở rộng khái niệm hiện thực do diễn
ngôn tâm linh kiến tạo, góp phần kích thích trí tưởng tượng, thích thú
cái kì ảo, mà còn nuôi dưỡng tinh thần con người, đi sâu vào những miền
mà khoa học chưa thể giải thích, mà cũng không nhất thiết đều phải giải
thích của đời sống. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều hiện tượng đối thoại
với thế giới quan tâm linh, thần bí. Miêu tả đời sống tâm linh và mê tin
là hai chuyện khác nhau.
3. Tâm linh và diễn ngôn/ ngôn ngữ nghệ thuật
Tâm linh là niềm tin vào thế giới bên kia, vào các sức mạnh siêu
nhiên chi phối thực tế, hoặc các khả năng biến đổi số phận con người
hoặc giải đáp trạng thái nhân sinh hiện hữu. Niềm tin ấy thể hiện trong
thế giới quan, được kiến tạo bởi các kí hiệu và diễn ngôn tâm linh. Thế
giới ấy có thần , Phật, Chúa Trời, ma, quỷ, Xa tăng, tức là các biểu
tượng, các siêu kí hiệu, bên dưới có vô vàn các kí hiệu bậc thấp, các mô
hình tự sự, các mô típ, các mẫu gốc lặp đi lặp lại. Ví như, một môtip
“Mộng” thì trong văn học đã có biết bao nhiêu mộng. Đầu tiên là báo
mộng, Thần nhân qua mộng báo tin cho người, nhưng trong các truyện ở Việt điện u linh.
Sau là mộng sang thế giới khác, như mộng đế vương, mộng quốc sự, mộng
làm tình, mộng sinh thực (mộng đầu thai hoặc tái sinh), mộng hôn nhân,
mộng chết, mộng sinh, mộng gặp hạn, mộng quan chức, mộng đỗ đạt, mộng
gặp thần nhân, gặp tiên, mộng thấy ma quỷ, mộng gặp oan hồn, mộng hóa
thân như Trang Chu mộng bướm, mộng du lịch như Lí Bạch “Mộng du Thiên Mụ
ngâm lưu biệt”, mộng Hầu Trời như Tản Đà, mộng xuống địa ngục, mộng
kiện, xử kiện nơi địa phủ của Diêm Vương… Một chữ mông mà sinh ra không
biết bao nhiêu truyện. Mộng là chiếc cầu nối thế giới này với thế giới
“bên kia”. Mộng là siêu thoát khỏi đời thực. Mộng là tình huống triết
lí giúp ngộ ra bản chất cuộc đời. Trong tập thơ văn xuôi Cỏ dại
của Lỗ Tấn cả chục lần ông nằm mơ, mở ra một thế giới biểu tượng hư
huyễn nhưng lại cho thấy những suy tư triết lí và ước mơ thầm kín sâu
thẳm. Trang Chu mộng bướm là câu chuyện triết lí. Có mộng thì có tỉnh
mộng. Tỉnh mộng lại cũng là một môtip văn học. Tỉnh mộng là trở về thực
tại, suy tư về thực tại, có cội nguồn từ Phật giáo. Phật giáo là một tôn
giáo thế tục, được đại chúng tiếp nhận. Bất cứ ai, hễ có tâm hướng
thiện, đều có thể đạt tới chính quả, lập tức thành Phật. Phật là người
thức tỉnh, nhìn lại thấy đời chỉ là bể khổ, là giấc mộng sắc sắc không
không. Tu tiên, lên tiên, gặp tiên là môtip kéo dài của mộng, thể hiện
khát vọng trường sinh bất lão, bất tử và tự do hưởng thụ của con người.
Nhưng người tiên mulên tiên rồi thất vọng trở về. Mộng/Thật, Mộng/Tỉnh,
Tiên/Phàm là những cặp kí hiệu đối lập để con người tư duy về cuộc đời.
Đằng sau chúng là cặp nghĩa Thật/Giả, Vĩnh cữu/Tạm bợ, Nhầm lẫn/Giác
ngộ. Môtip “hóa” như người hóa đá, hóa thú, hóa chim, hóa cây, hóa vật
và ngược lại, vật hóa người, thú hóa người, hóa ma. Trong thế giới mọi
vật có thể chuyển hóa, không có ranh giới cố định. Cái ngôn ngữ “hóa”
này có thể biểu hiện biết bao chuyển hóa trong cuộc đời thực mà bề ngoài
khó thấy. Hóa/Thường là cặp đối lập cho ta thấy cái bên ngoài và bên
trong, các khả năng biến hóa vô tận. Các kiểu truyện như cao tăng và mĩ
nữ (Tây du kí, truyện nàng Điểm Bích…), kiểu truyện nhân quả báo ứng, như Truyện Kiều, Bút máu…), kiểu truyện tiên bị đày xuống hạ giới (như Hồng Lâu mộng,
…), kiểu truyện người ngộ đạo thành tiên, kiểu truyện cứu thế hàng yêu,
kiểu truyện tình yêu giữa người và yêu quái, kiểu truyện sinh hạ diệu
kì hoặc tướng mạo kì dị, kiểu truyện hiến tế người đẹp cho yêu quái để
được bình yên… đều thể hiện niềm tin tâm linh và cách cấu tạo diễn ngôn
tâm linh. Mối quan hệ đan xen, phối hợp của chúng tạo ra vô vàn biến thể
của các truyện tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể.
Trong Truyện Kiều, có môtip thiên nhân cảm ứng (Lòng hiếu bán
mình chuộc cha của Kiều đã động đến trời, tự tử có người cứu), nhân quả
báo ứng (Bọn Tú Bà, Mã Giám sinh, Sở Khanh, Ưng Khuyển đều bị ác báo),
các nhân vật đưa tin của thế giới bên kia (Đạm Tiên, Tam Hợp đạo cô, Vải
Giác Duyên, khi hoàn thành sứ mệnh đưa tin họ tự biến mất). Có thể nói,
tâm linh là thế giới mở rộng, nhân đôi theo các khả năng tín ngưỡng và
kì ảo.
4. Tâm linh như một diễn ngôn quyền lựctrong văn học
Văn học hiện đại cũng không thể rời bỏ bản thể con người tâm linh. Trong tiểu thuyết mang tính luận đề Cõi người rung chuông tận thế,
nhà văn Hồ Anh Thái đã nêu những nhận xét thú vị. nhân vật nữ trong
truyện “cho đến khi chuyển từ thân phận vô sản sang thân phận người có
sở hữu, lúc nào cũng lo mất của, sợ hao hụt. Lo nhiều đâm ra mê tín,
thôi thì vái cả bốn phương tám hướng, có thờ có thiêng, có kiêng có
lành.” Khi đang là vô sản, chưa có của nả gì, người ta có thể không tin
thần phật, đập phá lăng, đình không ghê tay, nhưng khi đã có chút tài
sản như cái khách sạn, thì người ta bắt đầu tin bói toán, tin tử vi, thờ
thần tài. Cũng vậy, người có chức càng to thì càng tin tâm linh, chuyên
cần cúng lễ. Có những tên kẻ cướp trước khi đi phạm tội cũng thành tâm
lên chùa xin được phù hộ. Mặt khác, giữa người sống và người chết có
nhiều mối ràng buộc vô hình. Sự báo mộng, ngoại cảm, nhập hồn giúp Mai
Trừng tìm được hài cốt bố mẹ giữa Trường Sơn. Tâm linh là một phương
thức tồn tại của con người, nhưng không phải là duy nhất. Chỉ một chiều
tâm linh sẽ đưa ta xã rời thực tại. Cuộc đời vẫn rất vật chất. Nhân vật
xưng “tôi” trong truyện nếu không tập võ từ trước, hẵn đã chết vì mũi
dao của kẻ thủ ác. Một tiểu thuyết chương nào cũng có cái chết. Nhà văn
cảnh báo lối sống hận thù kéo theo một chuỗi hận thù, cái chết đòi trả
bằng cái chết, sẽ đưa cõi người đến ngày tận thế, và khuyên theo lời
Phật dạy hãy giác ngộ, từ bỏ hận thù, bạo lực. Một tư tưởng có vẻ như cũ
nhưng không hề cũ. Văn học không nhất thiết phải tìm những tư tưởng gì
xa xôi, văn học có thể chỉ đào xới những tư tưởng sâu sắc đã có lâu đời.
Văn học hiện đại có cách tiếp cận tâm linh theo hướng khác. Đỗ Minh Tuấn trong Thần thánh và bươm bướm đã chế nhạo các tâm linh, ngoại cảm và hũ tục, bóc trần các thứ giả tâm linh trục lợi.
Tâm linh trong văn học hiện đại là một ngôn ngữ nghệ thuật. Chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo chính là sự khai thác truyền thống tâm linh của dân
tộc. Đó là con đường đã đưa G. Marquez đến thành công, cũng là con đường
đưa Mạc Ngôn đến thành công, và ở Việt Nam cũng đã đưa nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo đến thành công. Tâm
linh là một diễn ngôn quyền lực, nhân danh sự huyền bí nhiệm mầu để nói
những lời nguyền, lời sám hối, lời cầu khấn, lời lên án các hiện tượng
xấu xa, bạc ác trong hiện thực mà con người chưa có điều kiện trừ khử.
[1] Trần Đình Hượu. Thực tại, cái thực, và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trung cận đại, trong sách Văn học và hiện thực, nxb. KHXH, Hà Nội, 1990, tr. 25.
[2] Trần Thanh Mại. Những câu chuyện thần linh ma quái (Nhân đọc Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái). Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2 – 1961,
Nguồn: Blog Trần Đình Sử.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét