ĐIẾU VĂN
ĐỌC TẠI LỄ TANG HỌA SĨ LÃO THÀNH TRẦN DUY
Hà Nội, 21/03/2014
Họa sĩ TRẦN DUY, họ tên thật
là Trần Quang Tăng,
qua đời ngày 14/03/2014 tại
nhà riêng, 62 Khâm Thiên, Hà Nội.
Lễ tang họa sĩ Trần Duy do
gia đình tổ chức, cử hành
hồi 8h30 sáng ngày 21/03/2014
tại nhà tang lễ 135 Phùng Hưng, Hà Nội.
Đông đảo người thân, bạn bè
trong giới văn nghệ
và công chúng yêu văn nghệ đã
đến vĩnh biệt họa sĩ
và chia buồn cùng gia đình
ông. Trong lễ truy điệu, ông Phan An Sa,
con trai nhà văn Phan Khôi,
cựu Chủ nhiệm báo “Nhân Văn” (Hà Nội, 1956)
nơi mà họa sĩ Trần Duy từng
làm việc trong vai trò Thư ký tòa soạn,
đã đọc
điếu văn. Dưới đây là toàn văn điếu văn đọc tại lễ truy điệu.
Trong
giờ phút thiêng liêng này, ôn lại cuộc đời ông, là cách chúng ta gửi theo ông
một lời chia sẻ với kiếp trầm luân mà ông đã phải gánh chịu, gửi theo ông lòng
ngưỡng mộ một con người dành trọn đời mình cho nghệ thuật hội họa với lòng yêu nước,
yêu dân tộc, chuộng tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.
***
Trần
Duy tên thật là Trần Quang Tăng, nguyên quán thôn Lục Lễ, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định; sinh ngày 20 tháng 7 năm 1920 trong một gia đình phong kiến suy tàn,
ngụ tại thôn An Cựu, thành phố Huế. Hồi nhỏ, cậu học trường tiểu học Quy Nhơn ở
quê hương Bình Định; lớn lên ra Huế học trường Trung học Khải Định, lấy bằng tú
tài năm 1940. Sống trong một gia đình vọng tộc đang hồi sa sút, chàng trai tìm
thấy lối thoát cho cuộc đời mình ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ngoài Hà
Nội. Năm 1945, tháng 3 Nhật đảo chính Pháp, học bổng liền bị cắt; đến tháng 8
xảy cách mạng, cha bị bắt, nguồn tài trợ của gia đình theo đó cũng mất luôn;
chàng sinh viên mỹ thuật đành dừng bước ở năm thứ ba. Rồi, như một lẽ tự nhiên,
chỉ bằng lòng yêu nước và bầu nhiệt huyết vốn chỉ tuổi trẻ mới có, chàng sinh
viên mỹ thuật hồ hởi, vô tư, tự nguyện cuốn vào dòng thác cách mạng đang hồi
cao trào.
Tại Hà
Nội, anh Lê Hữu Kiều là Hướng đạo sinh giới thiệu Trần Duy vào Thành bộ Việt
Minh Hà Nội. Tại đây, biết anh mong muốn được đứng trong một tổ chức chân chính
để có cơ hội làm những việc có ích cho đất nước, người ta giới thiệu anh vào
đảng Dân chủ. Rồi ông Hoàng Minh Chính giao cho anh nhiệm vụ mua vũ khí cho
Việt Minh, anh đã liên lạc với đám lính Nhật là tù binh của phe Đồng minh, cả
với lính Tàu Tưởng ở Hải Dương, mua được nhiều vũ khí, chở về Hà Nội trang bị
cho các đơn vị Vệ quốc đoàn. Đến ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), anh
được điều động vào Đội Quyết tử đánh trường bay Gia Lâm do ông Hoàng Minh Chính
chỉ huy, tham gia liền mấy trận tập kích, cho đến trận cuối cùng ông Hoàng Minh
Chính bị trọng thương, ban chỉ huy đánh trường bay Gia Lâm giải thể.
Liền
đó, ông Đặng Việt Châu giới thiệu anh với ban chỉ huy Khu 10 đóng ở Tuyên Quang
- Phú Thọ, nên Trần Duy tìm đường lên chiến khu Việt Bắc. Tại đây, cuối năm 1946
đầu năm 1947, ông Song Hào điều động anh vào làm việc tại Ban địch vận. Anh có
mặt trong các chiến dịch của Khu 10, ngày đêm viết, vẽ cho tờ báo Sông
Lô bên cạnh ông Đặng Văn Việt là chỉ huy trưởng chiến dịch đường số 4.
Cũng tại Việt Bắc, năm 1948, Trần Duy kết hôn với cô gái trẻ Lê Bạch Tuyết, 18
tuổi, người ở phố Khâm Thiên, Hà Nội, là con của một gia đình công chức có bố
là công trình sư ngành đường sắt. Cô là nữ sinh vừa tốt nghiệp trường Đồng
Khánh, lên Việt Bắc hồi đầu năm 1947, đang đảm nhiệm chân thư ký của đảng Dân
chủ kiêm việc dạy tiếng Pháp cho một hàng binh trí thức người Đức tham gia hàng
ngũ kháng chiến của ta từ hồi bí mật, tên là Erwin Borches − tên Việt Nam là
Chiến Sĩ − vốn thuộc đội quân lê dương của Pháp; và sau này học lại từ ông ấy tiếng Đức. Kể từ đó, cùng
với cái gia đình nhỏ đầy hạnh phúc của mình, người họa sĩ trẻ bất chấp mọi gian
khó trong hoàn cảnh kháng chiến, càng hồ hởi dấn thân vào bất cứ công việc gì
tổ chức giao cho với lòng nhiệt thành trong sáng.
Tháng
3/1950, ông Nguyễn Huy Tưởng nhận Trần Duy về Hội Văn nghệ Việt Nam. Trong thời
gian này, Cục trưởng Cục Quân y là bác sĩ Vũ Văn Cẩn có đề nghị anh giúp ông Từ
Giấy trong việc trình bày và vẽ minh họa cho báo Vui Sống, tuyên truyền cổ
động cho phong trào vệ sinh phòng bệnh. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng
7/1954), Trần Duy được cử về Tuyên Quang làm phiên dịch tiếng Pháp cho ông Erwin
Borches (Chiến Sĩ) lúc này đang phụ trách trại tù binh đóng ở Núi Cố.
Cuối
năm 1954, Hội Văn nghệ cử Trần Duy cùng một số văn nghệ sĩ tham gia đoàn cải
cách ruộng đất tại Yên Thế, Bắc Giang. Anh tận mắt chứng kiến và tỏ ý bất bình
về cái cách mà người ta bắt bớ, đấu tố, xử án những người bị quy thành phần địa
chủ; và vì thế, anh bị cái án kỷ luật chống cải cách ruộng đất, bị thải hồi,
giao trả về Hội Văn nghệ.
Ngày
14/10/1954, Trần Duy về lại Hà Nội cùng một lượt với Hội Văn nghệ. Chấp nhận
cái án kỷ luật đầu tiên trong đời, người trí thức trẻ cảm thấy thật sự bất ngờ
và hiểu thêm ra nhiều điều, nhưng tai họa tiếp tục giáng xuống đầu anh bằng một
sự kiện khác. Đầu năm 1955 ở Hà Nội, anh hăng hái lao vào cuộc vận động các nhà
tư sản có tiền, có cơ sở sản xuất, có tâm huyết với kháng chiến gia nhập các tổ
chức kinh doanh kiểu mới đang được lập ra. Sau chưa đầy một năm, các tổ chức
này trở tay lật ngược những điều quy ước trước đó, biến các nhà tư sản yêu nước
trở thành đối tượng đấu tố trong trào lưu đánh đổ giai cấp tư sản. Thành ra bên
nào cũng coi anh như kẻ địch, khiến anh rơi vào hụt hẫng, thất vọng, bế tắc đến
mức không còn biết đặt niềm tin vào đâu nữa!
Trong
sự bế tắc, lòng yêu nước và tin vào lẽ phải của Trần Duy không tắt, ông vẫn đi
tìm lối thoát cho cuộc đời mình bằng cách lần lượt cho đăng trên Giai
phẩm mùa thu 1956 của nhà xuất bản Minh Đức các truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp, Người khổng lồ… và bức tranh Ốc sên không cánh mà bay cao. Chưa dừng
lại ở đó, cũng trong năm này − cùng với học giả Phan Khôi nhận lời làm Chủ
nhiệm − Trần Duy nhận lời làm Thư ký tòa soạn báo Nhân văn do Lê Đạt, Văn
Cao, Nguyến Hữu Đang chủ trương, cùng với Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác... Ông
đến với Nhân văn chỉ với mong muốn đóng góp thêm một tiếng nói cho dân
chủ, cho tự do sáng tác và kỳ vọng nó sẽ là con đường nghệ thuật chân chính để
mình nương tựa. Ông nỗ lực hết mình để tờ báo ra đời, và sau đó, chăm chút cho
từng mỗi số báo, từ trình bày, minh họa, lên khuôn; đến lo mực in, giấy in,
tiền bạc và biết bao công việc không tên khác. Nhưng Nhân văn chỉ sống được đúng
3 tháng với 5 số báo, ngày 15/12/1956 tờ báo bị đóng cửa, số 6 đang in bị tịch
thu. Thứ vũ khí đầu tiên và cũng là cuối cùng của phong trào đòi dân chủ và tự
do sáng tác của trí thức và văn nghệ sĩ bị xóa sổ, và không lâu sau đó, phong
trào bị dập tắt với những án kỷ luật nặng nề, trong đó Trần Duy vào loại nặng nhất:
bị khai trừ khỏi Hội Mỹ thuật, bị đình chỉ công tác. Thế là, đang từ một họa
sĩ-chiến sĩ hào hứng dâng mình cho cuộc kháng chiến của dân tộc, chỉ trong vòng
có mấy năm sau hòa bình lập lại 1954, Trần Duy rơi thẳng xuống đáy vực thẳm. Gia
đình bên ông, bên vợ ông đều gián tiếp bị liên lụy và xảy ra những chuyện rất
đau lòng. Từ đó, nỗi oan ức, cay đắng, khổ tâm đày đọa cả một đời ông còn đáng
sợ hơn cả cái chết. Trong tình thế đó, ông vẫn phải sống chỉ vì Trời chưa cho
ông chết!
***
Trong
bản thảo hồi ký Một câu hỏi còn chưa được trả lời viết giữa năm 2009, họa sĩ
Trần Duy có những lời thật thống thiết:
"Từ khi tôi rời nhà trường phổ thông
trung học và gia đình, có một nơi không bao giờ phụ tôi, lúc nào cũng an ủi tôi
và vực tôi dậy. Đó là Mỹ Thuật! Không có Mỹ Thuật, không có Cái Đẹp thì không
còn có cánh cửa nào mở ra để tôi bước vào đời. Cái Đẹp ấy đúng là cái cuống rốn
đã thay mẹ tôi nuôi dưỡng tôi và cho tôi tiếp xúc với cuộc sống, với con
người... Tôi thành người, thành một người yêu đất nước, yêu dân tộc chính là
nhờ Mỹ Thuật − vì ngay
cái chủ nghĩa yêu nước của tôi cũng là chủ nghĩa yêu Cái Đẹp của đất nước, yêu Con
Người của đất nước, mà thôi".
Cái lý
tưởng lãng mạn ấy đã theo ông suốt cuộc đời và vực ông dậy, giúp ông vượt qua
cơn tuyệt vọng, sự chán nản cùng với nỗi sợ hãi, nghèo khó và cô đơn. Đó là cả
một cuộc đấu tranh tự thân. Ông nhìn lại một đống bỏ xó với những bút, cọ, màu,
giấy, toan... mà thấy việc trở lại với nghệ thuật thật là khó khăn. Ông tự hỏi:
vẽ cái gì đây...? Vẽ cho ai...? Vẽ để làm gì...? Nhung rồi ông đã cầm lại được bút vẽ, đầu tiên là làm trưng bày
triển lãm ở Công ty Mỹ thuật Hà Nội, rồi vẽ các loại tranh áp phích đấu tranh
thống nhất đất nước, tranh cổ động sản xuất nhưng không được ký tên Trần Duy,
chỉ được lĩnh tiền công. Rồi đi vẽ phong
cảnh các làng quê. Rồi nhận các đơn hàng vẽ bưu thiếp, vẽ tranh
lụa khổ nhỏ, tranh khắc gỗ và ký dưới bút danh Nhị Hà − tên cô con gái út. Rồi
dịch sách cho các nhà xuất bản... Từng công việc nhỏ nhặt và ít lãng mạn ấy
giúp ông có đồng tiền để sinh sống, nó còn giúp ông hiểu ra một chân lý: ở đâu
người ta đố kỵ ông, muốn chối bỏ ông, chứ dân tộc và đồng bào của ông thì không
bỏ ông, vẫn che chở cho ông và cả gia đình ông. Đó là một động lực lớn lao giúp
ông tiếp tục sống và tiếp tục làm việc.
Ông cam
chịu cảnh sống đó và chẳng dám chờ đợi điều gì, nhưng rồi Đổi Mới đến và năm
1987 ông được phục hồi tư cách Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông lần lượt mở
hai cuộc triển lãm tranh vào năm 1991
và 2004; viết và cho công bố một
loạt tác phẩm Ký họa trên đất Pháp (NXB Văn hóa - Thông tin, 1996), Trần
Duy (NXB Mỹ thuật, 1997), Cảm luận về nghệ thuật (NXB Mỹ
thuật, 2002), Suy nghĩ về nghệ thuật (NXB Hội Nhà văn, 2008), "Nguời xem và
tác phẩm "(NXB Mỹ thuật, 2009) cùng
cả ngàn bức tranh lụa và tranh sơn dầu vẽ cảnh đẹp
và các di tích lịch sử của đất nước. Ông đã tự mình sống được bằng tiền bán tranh,
bên cạnh đồng lương hưu chỉ có tính an ủi.
Càng về
già ông càng trở lại là một Trần Duy, một họa sĩ lão thành có biệt tài vẽ tranh
phong cảnh và tranh lụa với tính sáng tạo cao, một người am tường về lý luận và
lịch sử mỹ thuật cổ điển. Nhưng trước hết, người đời biết ông, nhớ về ông,
ngưỡng mộ ông với tư cách ông là một người yêu nước, dấn thân vì dân chủ, vì tự
do và chấp nhận thua thiệt.
Tuy
chưa bao giờ thoát khỏi khỏi nỗi ám ảnh của những ngày đen tối cách đây 60 năm,
nhưng những năm cuối đời, họa sĩ lão thành Trần
Duy đã tìm thấy hơi ấm của cuộc sống thảo dân cùng vợ con và một đàn cháu
chắt đông đúc, trưởng thành, lương thiện. Chỉ còn một điều khiến ông ân hận
suốt đời, là 60 năm trước, với tư cách
phóng viên báo Nhân văn, ông đã mời các nhà trí thức đáng kính Đào Duy Anh,
Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Văn Ngữ cho ý kiến về tự do, dân chủ, đưa ra kiến nghị,
mong muốn lãnh đạo tạo thuận lợi cho trí thức và văn nghệ sĩ trong hoạt động
nghề nghiệp; các ý kiến đó đăng báo Nhân văn khiến các vị bị vạ lây,
suốt nhiều chục năm bị coi là những phần tử xấu. Và theo đó, ông cho rằng: câu
hỏi Nhân
văn là tờ báo thế nào? là câu
hỏi của Đất Nước mà các thế hệ sau cần phải trả lời cho rành rẽ, minh bạch!
Đối với
ông và gia đình, cái Tết Giáp Ngọ vừa rồi trôi qua trong tình cảm ấm áp mà chỉ
những người ruột thịt mới có. Sau Tết, thi thoảng ông bị những cơn khó thở,
nhưng ăn vẫn thấy ngon miệng, vẫn vui tính, vẫn nói chuyện dí dỏm theo cách của
ông. Thế mà rồi, như ngọn đèn hết dầu, ông lặng lẽ ra đi hồi 22 giờ 30 phút, ngày
14 tháng 03 năm 2014, tức ngày 14 tháng 02 năm Giáp Ngọ, tại ngôi nhà riêng của
vợ chồng con cái ông ở số 62 phố Khâm Thiên, Hà Nội. Ông ra đi nhẹ nhõm như
chẳng còn gì vướng bận với cõi trần nữa...
Khổ một
đời như ông mà sống được như ông, thì quả thật sự ra đi ở tuổi 95 đại thượng
thọ của ông chỉ là một cú lướt nhẹ về trời, ở đó chắc chắn không có những khổ
đau mà ông và những người như ông đã phải gánh chịu.
Thưa
họa sĩ lão thành Trần Duy, kính tiễn ông về với trời đất, chúng tôi, những
người ở lại sau ông, hiểu ông và ngưỡng vọng ông!
Xin kính cẩn dành một phút mặc niệm tiễn ông về nơi Vĩnh hằng !
Phan An
Sa
___________________
(*) Bài điếu được soạn căn cứ vào tư liệu của
gia đình, tác phẩm Suy nghĩ về nghệ thuật (NXB Hội Nhà văn, 2008), bản thảo hồi
ký Một
câu hỏi còn chưa được trả lời và các tác phẩm khác của người quá cố.
Một bài điếu văn tuyệt vời ! Không thiếu một chi tiết nào trong cuộc đời cố Họa sĩ Trần Duy . Còn hơn cả điếu văn nhà văn Nhất Linh Nguyễn tường Tam tại Saigon ngày 7.7.1963 !
Trả lờiXóaXin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh con người phúc hậu tài ba !