.
.
..
Nhà báo, học giả, nhà hoạt động NGUYỄN KIẾN GIANG
sinh ngày 22 tháng 01 năm 1931 tại Quảng Bình
đã từ trần hồi 09h00 ngày 02 tháng 12 năm 2013
(tức ngày 30 tháng 10 năm Quý Tỵ), hưởng thọ 83 tuổi. Lễ viếng từ 15h30 đến 16h45 ngày 4.12.2013 tại Nhà tang lễ thành phố, 125 Phùng Hưng, Hà Nội Di quan hồi 17h00 cùng ngày An táng tại Công viên Vĩnh Hằng, Ba Vì, Hà Nội
Thành kính nghiêng
mình kính tiễn Cụ về nơi Vĩnh hằng - ở nơi ấy ngàn đời Cụ rũ hết mọi
lo toan, rũ hết mọi ưu phiền, bạn cùng hạc nội mây ngàn vĩnh cửu!
|
HỌC GIẢ NGUYỄN KIẾN GIANG
Nguyễn Thanh Giang
Có lẽ Nguyễn Kiến Giang là một trong những người đầu tiên nêu yêu cầu bỏ điều 4 của Hiến pháp CHXHCNVN. Trong bài phát biểu tại Hội thảo do Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 20 tháng 2 năm 1990 và sau đó đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc dưới tiêu đề “ Bàn về sự lãnh đạo của Đảng ” ông đã nêu mấy kiến nghị ;
- “Xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp qui định về mặt pháp lý vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội, để cho các tổ chức Đảng và đảng viên không thể dựa vào ưu thế pháp lý của mình trong sự lãnh đạo, và sự lãnh đạo của Đảng chỉ dựa vào phương pháp thuyết phục. Tất cả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng không mang tính chất bắt buộc đối với các công dân về mặt pháp lý ( trừ những trường hợp đã biến thành luật );
- Đảng không độc chiếm các cơ quan dân cử, các cơ quan lãnh đạo và quản lý xã hội; chỉ dành một tỉ lệ không quá 50% thành phần các cơ quan này cho đảng viên, như vậy sẽ tập hợp được những người ngoài Đảng ưu tú vào công việc quản lý đất nước;
- Ban lãnh đạo các cấp, kể cả trung ương, tiến hành những cuộc đối thoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau với những người tiêu biểu cho các xu hướng khác nhau trong xã hội, cả với những người có ý kiến ngược với ý kiến của Đảng, không định kiến, không trù dập;
- Tiến hành những cuộc tranh luận công khai trên báo chí về các vấn đề quốc kế dân sinh, không hạn chế tự do tư tưởng, chỉ với điều kiện không trái với hiến pháp và luật pháp được xây dựng thật sự dân chủ;
- Các cơ quan thuộc bộ máy Đảng không được trực tiếp chỉ huy điều hành những cơ quan, những tổ chức không thuộc hệ thống tổ chức của Đảng (cụ thể: ban tuyên huấn không trực tiếp chỉ huy báo chí, ban tổ chức không được trực tiếp quyết định công việc nhân sự…).
- Cuối cùng, giải quyết tất cả những vụ án oan về tư tưởng và chính trị trước đây, sòng phẳng với những sai lầm của Đảng trong quá khứ; thật sự khôi phục đầy đủ các quyền công dân cho người bị oan ức; thực hiện hòa hợp dân tộc một cách chân thành ”.
Ông giải thích lý do kiến nghị là để
giải quyết tệ trạng: “ Từ chỗ là một sự lựa chọn lịch sử khách quan, sự
độc quyền lãnh đạo của Đảng dần dần được hiểu và được thực hiện thành sự
thống trị tuyệt đối của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, có khi
cả đời sống cá nhân, thành “ Đảng trị ” (partocratie), Đảng biến thành “
Đảng – Nhà nước ”, thành một thứ “ siêu nhà nước ”, có toàn quyền quyết
định tất cả, từ những chủ trương lớn đến những biện pháp thực hiện nhỏ,
và mọi người dân chỉ được phép nghĩ theo, nói theo và làm theo những
quyết định của Đảng, có khi chỉ là của một cấp lãnh đạo, thậm chí của
một cá nhân lãnh đạo nào đó. Mọi ý kiến khác với ý kiến những người lãnh
đạo của Đảng bị coi là chống Đảng, mà chống Đảng cũng có nghĩa là chống
Nhà nước, chống chế độ, chống cách mạng. Cho đến khi Đảng nhận ra được
những sai lầm của mình ( triệt để hay không triệt để ) thì xã hội đã
gánh chịu những hậu quả cay đắng, chưa nói tới một số người phải chịu
đựng sự trừng phạt trái pháp luật mà đến nay vẫn chưa giũ bỏ dược hết số
phận oan trái của mình ” .
Kết quả của việc đăng kiến nghị này là tạp chí Khoa học và Tổ quốc bị đình bản và tổng biên tập Phạm Quế Dương suýt bị khởi tố.
Nguyễn Kiến Giang sinh ngày 22-1-1931
tại một làng quê Quảng Bình bên con sông Kiến Giang. Ông tham gia Mặt
trận Việt Minh rất sớm và năm 1945 đã trở thành đảng viên Cộng sản khi
mới 14 tuổi. Năm 1947 ông được cử vào huyện ủy rồi được điều lên công
tác ỏ tỉnh ủy Quảng Bình ( 1945-1955 ). Năm 1956 ông được chuyển về công
tác tại Hà Nội và đã từng được đề bạt làm Phó giám đốc nhà xuất bản Sự
Thật. Năm 1962 ông được cử đi học trường Đảng cao cấp tại Liên Xô. Khi
Trung ương Đảng ra Nghị quyết 9 chống chủ nghĩa Xét lại thì tất cả anh
em trong khóa học của ông đều bị gọi về nước. Từ 1964-1967 ông bị đưa đi
« công tác thực tế » tại Quảng Bình và Thái Bình; sau đó bị tống giam
cho đến 1973. Ra khỏi tù, ông vẫn bị đưa đi quản chế tại Thanh Ba, Vĩnh
Phú cho đến năm 1976. Ông tâm sự: “ Cho đến bây giờ tôi cũng không
biết là tôi có tội gì nữa cơ. Nghe người ta bảo là tôi phản
động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn
trên thực tế từ giam ở xà lim mấy năm, và mấy năm quản chế,
khoảng gần 10 năm. Khi tôi trở về Hà nội với tư cách là một
người công dân thì tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới
nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa ”.
Từ tháng 9-1976 được về với gia đình
tại Hà Nội sống như một người ngoài lề xã hội, ông ngồi dịch và viết
sách báo dưới nhiều bút hiệu khác như Lương Dân, Lê Diên, Lê Minh Tuệ…
Sách đã viết gồm có:
– Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng Tám (1959)
– Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám (1961)
– Việt Nam – Khủng hoảng và lối ra
– Tuyển tập Nguyễn Kiến Giang (1993)
Cùng viết với Nguyễn Khắc Viện có:
– Liên Xô 70 năm trên đường khai phá 1987)
– Cách mạng 1789 và chúng ta (1989)
Những bài viết của Nguyễn Kiến Giang trong thập niên 90 đã đăng rải rác trên báo chí trong ngoài nước hoặc tán phát chuyền tay được Talawas gom thành một tập hợp mang tên “ Suy tư 90 ”. Trong tập hợp này có nhiều bài giá trị như:
– Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt.
– Một cuộc chiến chống lại “ phi lý tính ”
– Nên đặt vấn đề Nho giáo như thế nào ?
– Khủng hoảng và lối ra
– Thử dò tìm một cách tiếp cận mới đối với thế giới hiện đại
– Một quan niệm về hiện đại hóa ở Việt Nam
– Đời sống tâm linh và ý thức tôn giáo
– Từ Duy tân đến Đổi mới
– Nhìn nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay
– Công bằng xã hội và kinh tế
– Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam
- 1 -
Bàn về nguồn gốc bản sắc văn hóa Việt
Nam ngoài các học giả thường quy nạp vào nền văn minh trồng trọt và
trồng lúa nước để phân biệt với nền văn minh chăn nuôi, du mục; có người
nhấn mạnh tới tính chất sửa vặt ( bricolage ) của văn hóa Việt Nam,
Nguyễn Kiến Giang thì chứng minh rằng: “ văn hóa Việt Nam là một “hệ
thống mở ” trong hàng nghìn năm tồn tại của tộc người Việt. Nó là một hệ
thống có nhiều cơ tầng có liên quan tới những “đợt” tiếp xúc với những
nền văn hóa bên ngoài (cũng tương tự như tiếng Việt gồm nhiều cơ tầng
khác nhau mà các nhà ngôn ngữ học đã tìm thấy). Với những cơ tầng hình
thành nối tiếp nhau trong lịch sử như vậy, rõ ràng người Việt chúng ta
đã tiếp nhận (như một “cái phễu” ngày càng rộng miệng) rất nhiều nguồn
văn hóa khác nhau trong lịch sử (Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành, Pháp,
Nhật Bản, Liên Xô, Mỹ…). …Nhưng vẫn có một cái gì đó làm cho văn hóa của
chúng ta trở thành của chính chúng ta mà không trộn lẫn với bất cứ một
thứ văn hóa nào khác. Cái gì đó, theo tôi nghĩ, có lẽ là một ” bộ lọc “.
” Bộ lọc ” này gồm ba yếu tố là ứng xử, ngôn ngữ và tâm thức, ba yếu tố
này quyện chặt với nhau đến mức không thể tách riêng từng yếu tố, nói
cho đúng, “tuy ba mà một” (cũng có thể gọi là “tam vị nhất thể”
(trinité) như ở một số tôn giáo, nhưng ở đây không có “ba ngôi” theo thứ
bậc, mà là cùng tồn tại và hòa vào nhau) ” ( 1 )
Ông có ý “ chê ”: “ Óc khái quát chưa
bao giờ là mặt mạnh của người Việt cả. Những đỉnh cao trí tuệ và tâm
linh, in đậm sức sáng tạo và tính độc đáo, gần như rất hiếm hoi, có lẽ
chỉ trừ lĩnh vực y học và đánh giặc, hai lĩnh vực có liên quan trực tiếp
đến sống chết của con người. Năng lực tư duy của người Việt quá kém cỏi
chăng? Tôi không muốn nghĩ như vậy, vì trong lịch sử, thời nào cũng có
những trang tài giỏi mà năng lực tư duy không kém ai. Nhưng chính họ
cũng không đẩy được những kết quả tư duy của mình lên thành học thuyết,
thành hệ thống có tính phổ quát, mà nói chung, chỉ dừng lại ở trình độ ”
vận dụng ” như ta nói hiện nay, dù là “vận dụng sáng tạo” hay ” vận
dụng tuyệt vời ” đi nữa ” ( 1 ). Ông giải thích điều này là do : “Chưa
kịp xây dựng những hệ thống tư tưởng riêng của mình, thì người Việt đã
có sẵn những câu giải đáp về đời sống tâm linh và hiện hữu của con người
nằm sẵn trong những tôn giáo và triết thuyết của hai nền văn minh khổng
lồ ấy. Từ Trung Quốc truyền sang (có kèm theo những đạo quân xâm lược
hay không) nhiều học thuyết khác nhau, chủ yếu là Khổng giáo và Đạo
giáo. Phật giáo thì từ Ấn Độ truyền sang bằng những con đường khác nhau,
trực tiếp hay gián tiếp, với sức thuyết phục của nó là chính. … ảnh
hưởng của những tư tưởng Trung Quốc và Ấn Độ giống như hai bóng cây
khổng lồ trùm phủ lên mảnh đất nước ta ngày xưa, khiến cho mọi thứ “cây
tư tưởng” của người Việt bị “cớm nắng”. Tình trạng này đưa tới một hệ
quả nặng nề: dựa dẫm vào những tư tưởng bên ngoài, và như vậy trong gần
hai nghìn năm. Sức sáng tạo tư tưởng bị còi cọc: lối suy nghĩ giáo điều,
sao chép và học thuộc lòng sách vở nước ngoài trở thành một tâm thức
quá quen thuộc, như một thứ thuộc tính khó dứt bỏ ” ( 1 ). Ông bình
luận: “ người Việt ngày xưa lấy Khổng giáo làm hệ tư tưởng chính thống,
tạo ra tâm thức phục tùng chính thống gần như vô điều kiện. …Tâm thức
này có mặt tốt: những lúc đất nước đứng trước nguy cơ lớn đối với sự tồn
tại của nó, một ” hệ tư tưởng chính thống ” là cần thiết để có thể tập
hợp tất cả những sức mạnh của dân tộc thành một sức mạnh thống nhất có
sức chiến đấu cao. Nhưng chính tâm thức này đã cản trở không ít những
sức mạnh sáng tạo về tư tưởng. Mọi sáng tạo tư tưởng ít nhiều đều không
ăn khớp, thậm chí ngược lại với ” hệ tư tưởng chính thống “. Nếu duy trì
hệ tư tưởng chính thống như cái gì duy nhất đúng, thì xin dùng lại hình
ảnh trên đây, sẽ tạo ra một thứ bóng cây trùm phủ lên tất cả và mọi tư
tưởng sáng tạo chắc chắn bị “cớm”. Phải chăng trong hoàn cảnh nước ta
hiện nay, khi phải tìm kiếm những con đường, những phương pháp để hiện
đại hóa, sự thống nhất về tư tưởng là cần thiết, nhưng chỉ nên thống
nhất ở những mục tiêu, còn về những con đường, những phương pháp thì nên
để cho sức sáng tạo được phát triển một cách tự do, dù có những cái
không theo chính thống ” ( 1 ).
- 2 -
Một tuần lễ sau ngày chiếc máy bay của
bọn khủng bố đâm sập hai tòa nhà chọc trời của Trung tâm thương mại thế
giới ở New York, cũng như cộng đồng nhân loại, Nguyễn Kiến Giang thảng
thốt kêu lên : “ Loài người chưa tận thế, tôi tin như vậy, nhưng sẽ sống
với những thời khắc, thời điểm, thời đại không dễ gì minh định được.
Bằng những bước dò dẫm và khủng khiếp này, loài người – một sinh vật có
lý trí duy nhất được biết cho đến nay – đang đi vào một cuộc tự sát
chăng? Những vũ khí hạt nhân đã có và đang có trong tay một số quốc gia
trước đây và hiện nay, dù sao cũng không gây ra những cảm giác hãi hùng
như những vũ khí thông thường trong tay một nhóm người cảm tử bước vào
cái chết một cách không phải dửng dưng mà với một đam mê lớn nhất trong
đời họ: lên thiên đàng ” ( 2 ). Ông bầy tỏ: “Tiêu diệt chủ nghĩa khủng
bố là mệnh lệnh cấp bách của nền văn minh loài người ” ( 2 ), “ tôi hoàn
toàn ủng hộ mọi hành động không chỉ của Mỹ mà của bất cứ lực lượng nào
trừ diệt được những tay thủ lĩnh khủng bố nguy hiểm như kiểu Bin Laden.
Ðó là những ổ ung thư trên cơ thể cộng đồng loài người, mà để nó lan
rộng, di căn thì cơ thể này không thể tồn tại bình thường được ” ( 2 )
Tuy nhiên, nhận thức rằng chủ nghĩa
khủng bố là sự kết hợp của 3 yếu tố: cuồng tín tôn giáo + vũ khí hiện
đại + tổ chức toàn cầu, cho nên ông khẳng định không thể có cuộc tấn
công trả đũa ồ ạt nào có thể diệt trừ sạch sanh chủ nghĩa khủng bố.
Ông đi tìm nguyên nhân sâu xa của chủ
nghĩa khủng bố và … từ nỗi xót đau hơn cả nỗi xót đau trước cái tang gần
chục ngàn người chết, ông lên án: “ Phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói
riêng không làm bất cứ một điều gì cần thiết để lấp sự ngăn cách giữa
hai thế giới cả. Họ vẫn tiếp tục đường lối đào sâu hố ngăn cách khi từ
chối những trách nhiệm của mình đối với sự nghèo khổ và lạc hậu ở nhiều
nước Á, Phi và Mỹ Latin ” ( 2 ). Bằng cái tâm nhân ái và cái tầm thấu
đáo của mình, ông đặt vấn đề: “ chữ tâm phải đóng vai trò chủ yếu trong
cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố. Đó là “ một sự thanh toán
lịch sử ” công bằng, với những sự bù đắp cần thiết cho con cháu những
người bị bán làm nô lệ trong thời kỳ “ tích lũy tư bản nguyên thủy”. Đó
là thái độ công bằng, không thiên vị trong cuộc xung đột giữa Israel và
người Palestin. Đó là sự giúp đỡ tận tình của Hoa Kỳ và Phương Tây cho
những người nghèo khổ và lạc hậu để họ cùng với Phương Tây bước vào nền
văn minh của loài người ” (2).
Cho nên, để giải quyết thảm họa chủ
nghĩa khủng bố, thay vì chỉ quan tâm lập mặt trận thế giới chống khủng
bố, học giả Nguyễn Kiến Giang kêu gọi: “ Còn cần phải lập Liên minh thế
giới chống nghèo khổ và lạc hậu nữa ! ” (2).
- 3 -
Đầu thập ký 90, trước hiện tượng xuất
hiện những “ con rồng ”, “ con hổ ” Châu Á như Nhật Bản, Nam Triều Tiên,
Đài Loan, Singapore, các học giả Đại Hán khởi xướng cuộc bàn luận về
tác dụng to lớn của Nho giáo đối với những thành công đáng kinh ngạc đó.
Và, tuồng như có sự chỉ đạo, một số khoa học chính trị gia Việt Nam đã
tích cực phụ họa. Thậm chí trong bài “ Nho giáo đã thành vấn đề thế nào
với nước Việt Nam hiện nay ? ” đăng trên báo Văn hóa và Đời sống thành
phố Hồ Chí Minh số tháng 11 năm 1992, tác giả Trần Đình Hượu còn nêu một
định đề lớn: “ Phải chăng cũng có thể nghĩ đến một con đường phương
Đông để hiện đại hóa? Và như vậy thì nhiều hay ít – và có lẽ nhiều hơn
ít – con đường đó sẽ có quan hệ với Nho giáo”.
Điều trớ trêu là, trong khi vào đầu thế kỷ 20, chống lại thuyết của nhà xã hội học Đức Max Weber gắn công sinh thành chủ nghĩa tư bản Tây Âu với đạo Tin Lành, Marx quy bước tiến lịch sử này vào mối quan hệ chặt chẽ với các quá trình kinh tế thì các nhà nghiên cứu Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam ngày nay lại bỏ Marx để theo hướng Max Weber.
Trước “ sự cố ” này, Nguyễn Kiến Giang
đã đi tiên phong phát động cuộc đấu tranh tư tưởng-văn hóa qua vấn đề
đang được nêu ra. Ông viết: “ phải chăng các nước Ðông Á đã thành công
trong sự nghiệp hiện đại hóa nhờ có Nho giáo (hay Khổng giáo, để nói
thật chính xác)? Tôi nghi ngờ về điểm này. Công cuộc hiện đai hóa ở Nhật
Bản, chẳng hạn, bắt đầu từ thời “Minh Trị Duy Tân” (mà một học giả Nhật
còn gọi là “Cách mạng Minh Trị”). Ý tưởng Duy Tân ấy và toàn bộ những
biện pháp để thực hiện ý tưởng ấy đều không bắt nguồn từ
Nho giáo như vốn có. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà duy tân ở Ðông Á
vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đều coi Nho giáo là vật cản cần phải
vượt qua để hiện đại hóa đất nước ” ( 3 ). Và ông đã kết luận bài viết
của mình như sau: “ Riêng tôi, tôi không tin lắm vào tác dụng có ý nghĩa
quyết định của Nho giáo đối với tiến trình hiện đại hóa ở nước ta. Và
càng không tin rằng Nho giáo có thể trở thành một “hệ tư tưởng” của con
đường phát triển xã hội Việt Nam. Tôi không hề phủ nhận những giá trị
tích cực, vững bền nào đó do truyền thống Nho giáo để lại trong tâm thức
và văn hóa người Việt. Nhưng nói rằng Nho giáo có thể là cơ sở của con
đường phát triển xã hội Việt Nam hiện nay thì tôi xin được phép không
đồng ý. Vì điều đó không những không thích hợp với những điều kiện xã
hội – lịch sử và cả những điều kiện trí tuệ của dân tộc ta hôm nay, mà
còn có thể nguy hiểm nữa ” ( 3 ).
Tuy nhiên, tôi ngỡ ngàng khi đọc những
dòng này của Nguyễn Kiến Giang: “ Hiện đại hóa là một biến đổi xã hội
tận gốc, xét về mặt nội dung của nó. Nhưng đây không phải là một sự
nghiệp phá hoại mà là một sự nghiệp xây dựng. Vì thế nó đòi hỏi một sự
ổn định xã hội, một trật tự xã hội chặt chẽ và nghiêm khắc. Không một sự
nghiệp hiện đại hóa nào thành công trong bối cảnh hỗn loạn xã hội cả.
Chính vì thế, khi Nho giáo cung cấp được một hệ giá trị lấy kỷ cương và
phục tùng làm gốc, thì điều đó đáp ứng được một trong những yêu cầu cơ
bản của hiện đại hóa ” ( 3 ).
Phải chăng gốc của kỷ cương đạo Nho là “ tam cương, ngũ thường ”; là “ tam tòng, tứ đức ” ?
Ngày nay, không chỉ phụ nữ mà bất cứ ai
cũng không thể chấp nhận được cái thứ kỷ cương tam tòng đối với phụ nữ (
tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ).
Tam cương thì lại càng kinh dị hơn:
quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (vua khiến bầy tôi chết, không
chết không trung); phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha khiến con
chết, con không chết không hiếu), phu xướng phụ tùy (chồng nói ra, vợ
phải theo).
Một gia đình mà chỉ có con phải nhất
nhất nghe cha thì gia đình đó vô phúc ( con hơn cha là nhà có phúc ).
Một đất nước mà nhân dân bị buộc phải “ tuyệt đối tin tưởng ở sự lãnh
đạo của Đảng” thì không thể nào khai thác triệt để trí tuệ của quần
chúng, không thể ngóc đầu lên cho bằng người được, không thể tiến kịp
trào lưu nhân loại được.
T. Jefferson chí lý hơn Khổng Tử khi
ông nói: “ Chống lại bạo chúa là vâng lời Thượng Đế ”. (Nghĩ rằng:
Thượng Đế là hiện thân của bác ái, công lý, chân lý …)
Không ai phải nhất nhất nghe theo,
tuyệt đối phục tùng ai cả. Xã hội sẽ thực sự ổn định khi mọi người đều
tuân thủ luật pháp, hiến pháp và tôn trọng đạo lý.
- 4 -
Tôi cũng nhận thức về tôn giáo như
Nguyễn Kiến Giang: “ Tôi đã và vẫn không phải là tín đồ một tôn
giáo nào ( trong lý lịch, ở mục “ theo tôn giáo nào ”, tôi luôn
luôn ghi chữ “ không ”), nhưng tôi tin vào cái thiêng liêng, tôi tin
con người có đời sống tâm linh, có ý thức tôn giáo hiểu theo
nghĩa hướng tới cái tuyệt đối, cái vô hạn, cái toàn năng và
cái siêu việt. Không theo tôn giáo nào, nhưng lại có ý thức tôn
giáo” ( 4 ).
Cũng như Nguyễn Kién Giang, không là
tín đồ nhưng tôi thờ phụng ( chỉ bằng tâm tưởng ) cả Phật, cả Chúa. Tôi
quý mến những tín đồ chân chính. Tôi cho rằng không thể để tôn giáo
thiếu vắng trong đời sống xã hội.
Vậy mà, trên cơ sở coi tôn giáo hình
thành từ sự bất lực của con người trước thiên nhiên và xã hội mà
dốt nát và nghèo khổ vừa là nguyên nhân vừa là kết quả,
Engels cho tôn giáo là “ sự phản ảnh hoang đường những hoàn
cảnh bên ngoài thống trị con người, dưới hình thức những sức
mạnh siêu nhiên ”. Từ điển triết học Liên Xô ( 1983 ) định nghĩa tôn
giáo là “ một hiện tượng bị qui định về mặt xã hội và, do
đó là một hiện tượng lịch sử nhất thời ”. Theo cách nhìn
này, trong một thời kỳ lịch sử rất dài, con người chưa biết
tới tôn giáo, vì tôn giáo chỉ xuất hiện ở một trình độ phát
triển nhất định của xã hội nguyên thủy. Đến xã hội có giai
cấp, sự tồn tại của tôn giáo còn gắn thêm với sự bất lực
của con người trước những quá trình phát triển tự phát của
xã hội trong sự bóc lột lẫn nhau và trong tình cảnh thiếu
thốn. Tôn giáo, do đó, là phương tiện giải thoát bằng ảo ảnh
của người nghèo khổ. Mác nói tôn giáo là “ tiếng thở dài của
người bị áp bức ”. Chủ nghĩa cộng sản cho rằng xóa bỏ chế độ
người bóc lột người sẽ chấm dứt nạn nghèo khổ của quần
chúng nhân dân, từ đấy cũng đồng thời là sự kết thúc của tôn
giáo.
Với những người theo chủ nghĩa duy vật,
dù xem xét về mặt nhận thức luận hay về mặt xã hội học, tôn
giáo chỉ là một hiện tượng nhất thời, tạm thời và nằm ở
bên ngoài con người. Nó thuộc về quá khứ mà không thuộc về
tương lai của con người. Nó kìm hãm sự phát triển của xã hội,
mà không phải là một nhu cầu của con người. Nó đáng bị lên án,
bài xích và phải bị xóa bỏ càng sớm càng tốt. Lênin từng
nói: “ Chúng ta phải đấu tranh chống tôn giáo. Đó là toàn bộ chủ
nghĩa duy vật và, do đó, của chủ nghĩa Mác. Nhưng chủ nghĩa
Mác không phải là chủ nghĩa duy vật dừng lại ở a b c. Chủ
nghĩa Mác đi xa hơn. Nó nói rằng: cần phải biết đấu tranh chống
tôn giáo, và để làm điều đó, cần phải giải thích một cách duy
vật về nguồn gốc của lòng tin và của tôn giáo ở quần chúng
”.
Nguyễn Kiến Giang nghiêng về mặt bản
thể luận khi xem xét vấn đề tôn giáo, và, như một số nhà nghiên cứu, ông
coi cái cốt lõi của tôn giáo là lòng tin vào một cái gì siêu nhiên. Ông
cho rằng: “ trong đời sống con người, không phải cái gì lý trí
cũng có thể nhận biết. Cái thiêng liêng là một trong những cái
không thể nhận biết bằng lý trí. Vì một khi đã nhận biết được
một đối tượng thiêng liêng bằng lý trí ( bằng khám phá và
kiểm nghiệm khoa học ), thì nó không còn là thiêng liêng nữa.
Cũng có thể nói như vậy về chân, mỹ, thiện. Người ta bao giờ
cũng hướng tới những cái đó, nhưng không bao giờ có thể đạt
tới ở mức cuối cùng. Tất cả những gì là thiêng liêng, là cao
cả bao giờ cũng vẫy gọi con người, làm cho nó luôn luôn tự
vượt mình, hướng tới cái cao hơn ( hướng thượng ), hướng tới
cái siêu việt, tới trạng thái chân hơn, mỹ hơn, thiện hơn. Xu
hướng ấy của con người tạo ra một mặt cơ bản của đời sống con
người: đời sống tâm linh ” ( 4 ); “ Cái thiêng liêng gắn với sự
thăng hoa, với sự tự vươn lên của con người tới cái tuyệt đối,
cái vô cùng, cái toàn năng, cái hoàn thiện. Những cái đó là
có thể nhận thức được, tất nhiên không phải bằng lý trí, bằng
khoa học, mà bằng sự cảm nhận tính toàn bộ (holisme) của vũ
trụ. Chẳng hạn trong Phật giáo, con người bằng trực giác có
thể “ ngộ ” cái “ chân như ”, cái “ chân tâm ” với tư cách bản
thể của sự vật, mặc dầu không coi đó là cái thần bí. Trong
Phật giáo, có cái thiêng liêng nhưng không có cái thần bí ” ( 4
).
Không phải chỉ những kẻ nghèo khổ, dốt
nát mới tìm đến tôn giáo, nhiều nhà khoa học vĩ đại từng là những tín đồ
ngoan đạo. Mọi khám phá khoa học chỉ được thực hiện trong một
phạm vi nhất định mà sự chiếm lĩnh tôn giáo là không hạn chế,
nó đem lại cho con người khả năng cảm nhận vũ trụ nói chung,
cùng với nguyên ủy và cứu cánh của vũ trụ ( dù với sự sáng
thế và tận thế của Kitô giáo hay với trạng thái “vô thủy vô
chung” của Phật giáo…).
Đức Phật nói rằng thế giới là “ sắc sắc
không không ”, có mà không, không mà có. Cái triết thuyết “ vô minh ”
ấy chỉ có thể hiểu được khi vật lý lượng tử ra đời. Vật lý lượng tử chỉ
ra rằng những hạt – sóng ánh sáng có “ ý thức ”. Những hạt tưởng là vật
chất ấy chỉ là kết quả của sự vận động giữa các trường, mà trường lại là
một phạm trù phi vật chất.
Cho nên tôi rất nể phục Nguyễn Kiến
Giang khi ông đưa ra được định nghĩa này: “ tôn giáo là sự chiếm
lĩnh thế giới chung quanh một cách vô hạn, toàn bộ, thông qua cái
thiêng liêng được đối tượng hóa hay một đối tượng được thiêng
liêng hóa làm môi giới ”. Đó là một sự chiếm lĩnh đặc biệt,
khác với mọi sự chiếm lĩnh khác.
- 5 -
Bàn về sự điều tiết giữa công bằng xã
hội và phát triển kinh tế là rơi vào một lĩnh vực hắc búa. Đòi hỏi kinh
tế phát triển nhanh nhưng vẫn phải bảo đảm công bằng xã hội tuyệt đối
là một bài toán không giải được, vì cho đến nay, hai mặt này dường
như mâu thuẫn nhau đến mức khó điều hòa. Đặt công bằng xã hội
lên trên hết và coi đó là mục tiêu trực tiếp phải được thực
hiện dưới dạng gần như tuyệt đối, thì khó có thể bảo đảm
hiệu quả kinh tế (như “chủ nghĩa xã hội hiện thực” cho thấy ).
Ngược lại, đặt hiệu quả kinh tế lên cao, coi đó là thước đo duy
nhất của sự phát triển kinh tế, thì lại không tránh khỏi
những bất công xã hội ( như “chủ nghĩa tư bản tự do” cho thấy
). Có điều là giữa hai cách giải quyết, cách giải quyết thứ
hai thực tế đã đem lại những kết quả khách quan có lợi hơn cho xã
hội nói chung và cả cho những người lao động. Nguyễn Kiến Giang đưa
ra hình ảnh “ Một bên chúng ta có một chiếc bánh đem chia thành
những phần gần đều nhau cho mọi người, dần dà chiếc bánh ấy
cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Cho tới lúc gần như không còn gì để chia
nữa, và nếu trong hoàn cảnh đó lại có những kẻ đòi phần hơn
thì những người khác mất phần. Một bên khác, chúng ta có một
chiếc bánh chia không đều nhau, kẻ được miếng to, người được
miếng bé, nhưng do chiếc bánh to dần lên nên kẻ được miếng bánh
bé chẳng những không mất phần mà còn có thể được khá hơn
một chút. Rốt cuộc, chẳng có công bằng xã hội, chỉ có các cách
chia khác nhau và mỗi bên bất công gần giống nhau ” ( 5 )
Chủ nghĩa Mác do quan niệm duy vật
của mình, coi sản xuất vật chất là nền tảng của tất cả các
mặt đời sống xã hội, coi kinh tế là cơ sở hạ tằng của xã
hội, vì thế, khi bàn tới công bằng xã hội, trước hết và gần
như, chỉ bàn về công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế. Từ
đây, coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu làm điều kiện tiên quyết để giải
quyết công bằng xã hội.
Để gỡ nút một phần cho kinh tế phát
triển, đồng thời cho công bằng xã hội, chủ nghĩa xã hội-dân chủ chủ
trương: Việc xóa bỏ chế độ tư hữu không thể làm ngay một lúc, đó phải là
một quá trình lâu dài, tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, nhất là sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Đi xa hơn, Nguyễn Kiến Giang cho
rằng: “ Không thể đạt tới công bằng xã hội bằng sự triệt tiêu cá nhân và
những lợi ích cá nhân ” ( 5 ). Ông ủng hộ quan điểm của John Rawls –
tác giả cuốn “ Một lý luận về sự công bằng ”- chủ trương: một xã
hội công bằng là một xã hội xác định được những giới hạn và những bối
cảnh cho các cá nhân nỗ lực hoạt động, đồng thời đem lại cho họ một nền
tảng quyền hạn, một cơ hội có hiệu quả nhất.
Cho rằng nếu chỉ dừng lại ở văn
minh công nghiệp thì xã hội loài người sẽ còn bế tắc khi muốn giải
quyết vấn đề công bằng xã hội, Nguyễn Kiến Giang kỳ vọng vào nền văn
minh hậu công nghiệp mà ở đây nền sản xuất dựa chủ yếu vào tri thúc, vào
trí tuệ cá nhân chứ không phải vào sức mạnh của những phương tiện vật
chất nằm trong tay các lực lượng xã hội. Ông giải thích: “ Xét về
mặt công bằng xã hội, ít ra tri thức có hai thuộc tính phù hợp
với việc giải quyết vấn đề này. Thứ nhất, tri thức bao giờ
cũng nằm ở cá nhân ( dù đó là “ trí tuệ tập thể ” đi nữa,
thì cũng do các cá nhân mang nó ), cá nhân và năng lực của cá
nhân là điểm xuất phát để tính những giải pháp kinh tế tối
ưu. Thứ hai, tri thức mang bản chất dân chủ, không phải và không
thể là độc quyền của bất cứ ai, và như A. Toffler, nó “ mang
thuộc tính thật sự cách mạng ở chỗ là những người yếu kém
nhất và những người nghèo khổ nhất cũng có thể chiếm lĩnh nó
” ” ( 5).
Dẫu sao, như một tiếng thở dài nhân ái,
Nguyễn Kiến Giang vẫn phải thừa nhận: “Nói cho cùng, công bằng xã
hội là một cái đích không bao giờ đạt tới một cách tuyệt đối
cả. Cả trong tương lai xa vời, sẽ không bao giờ loài người có
thể xoa tay và dõng dạc tuyên bố: “ Đã có công bằng xã hội rồi!
”. Nhưng cũng giống như sự vận động của tri thức và nhận thức
trên đường đi tới nhưng chân lý không bao giờ đạt tới, công bằng
xã hội chỉ có thể vận động theo hướng ngày càng ít bất công
hơn mà thôi. Nghĩa là, công bằng xã hội, với tư cách một lý
tưởng xã hội, vẫn cứ là một ảo tưởng, nhưng là một ảo tưởng
cần thiết ” ( 5 )
- 6 -
Khi bàn về quá trình tìm đường đánh
đuổi ngoại xâm tạo cơ hội chấn hưng đất nước Nguyễn Kiến Giang đã từng
đánh giá rất cao các chí sỹ Duy Tân: “Tôi xin nói thật rằng: nếu ngày
nay, giới trí thức chúng ta ( lớp “kẻ sĩ” hiện đại ) có được tầm trí tuệ
và khí phách ngang với những sĩ phu Duy Tân, thì đã là điều đáng mừng
lắm rồi ” ( 6 ). Ông viết: “ Ngày nay chúng ta đã có tiền đề độc lập dân
tộc và đang nói tới “ văn minh ” trong bối cảnh một nền văn minh khác,
nhưng hệ vấn đề “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh ” là
sự phục hồi và sự tiếp tục của hệ vấn đề đã đặt ra đầu thế kỷ, từ thời
Duy Tân. Một sự trùng lập đáng ngạc nhiên: Ngày nay từ “ đổi mới ” được
dùng như tên gọi một sự nghiệp lịch sử của toàn thể dân tộc nhằm
“hiện đại hóa ” đất nước cũng là từ “ duy tân ” ở đầu thế kỷ,
chỉ khác nhau ở một từ là thuần Việt còn từ kia là Hán Việt ” ( 6 ).
Tiếp nối Duy Tân, ngoài những người lúc
đầu chống Cộng sản quyết liệt như Huỳnh Thúc Kháng, một số thanh niên
yêu nước cấp tiến ngả sang sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản ở
những mức độ khác nhau, đồng thời, vẫn truyền bá những tư tưởng của cách
mạng Pháp 1789 ( tiêu biểu là Nguyễn An Ninh ). Một số khác lựa chọn
con đường trung gian không chống cộng cũng không theo cộng sản, đặt cách
mạng quốc gia lên trên “ cách mạng thế giới ” ( tức cách mạng giai cấp )
như Việt Nam Quốc Dân Đảng. Số còn lại từng bước hướng vào chủ nghĩa
cộng sản như Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Độ, Trần Huy Liệu ….
Trả lời câu hỏi “ Ai du nhập chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam ? ”, Nguyễn Kiến Giang viết: “ Đúng là Nguyễn Ái
Quốc là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam ( không có ai trở thành
đảng viên Đảng cộng sản từ 1920 như Nguyễn Ái Quốc cả, nếu tính tuổi
đảng thì Nguyễn Ái Quốc hơn tuổi đảng của lớp cộng sản đầu tiên khoảng
trên dưới 10 năm ), và cũng đúng là Nguyễn Ái Quốc là người viết về chủ
nghĩa cộng sản sớm nhất trên sách báo cách mạng Việt Nam ( lúc đầu là
trên Le Paria, trong cuốn Le procès de la colonisation francaise, sau đó
là trên tờ Thanh niên và trong cuốn Đường Cách Mệnh ). Nhưng không phải
chỉ có Nguyễn Ái Quốc làm công việc giới thiệu chủ nghĩa cộng sản vào
Việt Nam trong những năm 20. Xin nêu lên vài tên tuổi đã đóng góp vào
công việc này: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Đào
Duy Anh… Chúng ta biết Phan văn Trường là người từng cộng tác với Nguyễn
Ái Quốc và Phan Chu Trinh để khởi thảo ra Bản yêu sách Tám điều do
Nguyễn Ái Quốc mang tới Hội nghị Versailles năm 1919 ” ( 6 ).
Nguyễn Kiến Giang còn quả quyết: “ Một
số người cộng sản ngày nay nói một cách khẳng định rằng: “chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam ”. Đúng thế
chăng? Tôi xin phép được nghi ngờ. Có lẽ không có gì rõ hơn sự lựa chọn
của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Hồi đó, nhân
dân lựa chọn cái gì? Lựa chọn độc lập, tự do, hạnh phúc, lựa chọn Nhà
nước cộng hòa dân chủ, lựa chọn Việt Minh như một mặt trận thống nhất
dân tộc thật sự với những thành viên khác nhau của nó, lựa chọn những
người có đức có tài lãnh đạo quốc dân. Lựa chọn bằng những cuộc khởi
nghĩa tháng tám đầy khí thế. Lựa chọn bằng tham gia Giải phóng quân, Vệ
quốc đoàn, Nam tiến… Lựa chọn bằng Tổng tuyển cử (6-1-1946) một cuộc bầu
cử hoàn toàn tự do, có sự tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân thuộc
những xu hướng chính trị khác nhau. Lựa chọn bằng Hiến pháp thật sự dân
chủ tháng 11-1946 do Quốc hội đầu tiên thông qua. Sự lựa chọn của người
dân là như vậy. Còn sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là
sự lựa chọn của những người cộng sản, một bộ phận ( dù là cách mạng nhất
đi nữa thì cũng là một bộ phận ) mà không phải của nhân dân nói chung,
của toàn dân ” ( 6 ).
Ông thừa nhận: “Tất cả những người lựa
chọn chủ nghĩa cộng sản đều nung nấu tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Việc
lựa chọn chủ nghĩa này trong phần lớn các trường hợp là do nhìn thấy nó
đem lại những sức mạnh mới từ trong nước và trên thế giới có thể giúp
giải phóng dân tộc một cách có hiệu quả hơn. Nói cách mạng vô sản nhưng
chủ nghĩa yêu nước vẫn là một nền tảng tư tưởng của tất cả những người
cộng sản ”. ( 6 )
Nhưng đến nay, ông cho rằng: “ Cuộc
sống đã chứng minh khá đầy đủ rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã thuộc về quá
khứ ( một quá khứ thật oanh liệt, đầy những hào hùng và những bi kịch ),
mà không thuộc về hiện tại, lại càng không thuộc về tương lai. Ở một
mức độ nào đó, “ số phận ” của nó cũng giống như “số phận” của Nho giáo
ngày xưa ”. ( 6 ).
Nguyễn Kiến Giang không phủ định sạch
trơn, không phỉ báng chủ nghĩa Mác. Ông tâm sự trong bài trả lời phỏng
vấn BBC ngày 1 tháng 2 năm 2004: “ Trước đây tôi để chủ nghĩa Mác Lênin
lên đầu và coi là giá trị lớn nhất, giá trị cao nhất của tư tưởng loài
người và tôi bị cái vòng kim cô của chủ nghĩa Mác Lênin xiết chặt đầu
tôi lại. Bây giờ tôi làm một việc khác, tức là tôi đặt bàn thờ chủ nghĩa
Mác Lênin sang một bên, chứ không đặt lên đầu tôi nữa, tức là ngang với
những nhà tư tưởng lớn của loài người như Rousseau, Robespierre,
Montesquieu v.v. Tôi coi mỗi nhà tư tưởng đều có đóng góp của mình vào
trong tiến triển của tư tưởng loài người cả ”.
Trở thành đảng viên Cộng sản ở tuổi 15,
từng đảm lãnh trách nhiệm phó giám đốc một cơ quan chuyên xuất bản sách
Mác- Lênin, Nguyễn Kiến Giang đã từng vật vã quằn quại: “ khi tôi viết
xong để mình từ giã chủ nghĩa xã hội khoa học thì gần như không ăn. Uống
thì có nhưng gần như không ăn, vì nó mệt quá… Bởi vì đây là một niềm
tin, một cái gì đó rất thiêng liêng, mà tự mình phải lột bỏ đi. Cái đó
là một sự đau đớn ghê gớm ” .
*
Viết xong bài này, tôi gọi điện thoại
định đến xin ý kiến Nguyễn Kiến Giang nhưng người nhà bảo ông đã vào Sài
Gòn tránh rét và dưỡng bệnh.
Cách đây hơn một năm, tiễn tôi ra cửa,
ông nắm tay rất lâu và như nén xúc động, dặn dò: “ Thanh Giang ơi, còn
sống thì hãy còn gặp nhau nhé ! ”. Thế mà, bẵng đi cho đến hôm nay.
Ôi cái tuổi già ! (Ông đã bát tuần,
còn tôi, không chỉ ngoại thất thập mà đến nỗi đã ở giữa thất -bát thập
). Dẫu có là Bá Nha – Tử Kỳ chúng tôi cũng không thể năng đến với nhau
để cùng tấu khúc tương cầu. Nhưng sao, tuồng như cả hai vẫn cứ còn vấn
vít mãi cái “ Thế sự du du nại lão hà ” này ? Chỉ mong sao, rồi tất cả
sẽ không còn phải “ ẩm hận đa ”.
Hà Nội, sắp sang Canh Dần
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay, Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội.
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay, Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội.
Điện thoại: (04) 35 534 370
____________
Ghi chú:
____________
Ghi chú:
( 1 ) – Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt
( viết tháng 4 năm 2000 ).
( 2 ) Một cuộc chiến chống lại “ phi lý tính ” ( 18
tháng 9 năm 2001 )
( 3 ) Nên đặt vấn đề Nho giáo như thế nảo ? ( 1993 )
( 4 ) Dời sống tâm linh và ý thức tôn giáo ( tháng 5
năm 1993 )
( 5 ) Công bằng xã hội và kinh tế ( tháng 12 năm 1992
)
( 6 ) Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam
( tháng 1 năm 1995 )
Nguồn: BaSam.
Nữ văn sĩ Phạm Thị Hoài: Ông chẳng bao giờ biết rằng tôi cũng ngồi đó để ngắm ông, một trong số
ít những người đàn ông đẹp trong một xứ sở mà ngoại hình của giới mày
râu hiếm khi gây được ấn tượng. Chậm nhất từ ba mươi trở ra, người ta –
nhất là đàn ông – phải chịu trách nhiệm cho dung mạo của mình. Mặt vuông
chữ điền, lưỡng quyền hào phóng, miệng rộng, cằm mạnh mẽ, mày nổi và
một vầng trán áp đảo, gương mặt đầy nam tính của ông toát lên một vẻ trí
thức khắc khổ, một sự từng trải tử tế, một sự chịu đựng cương nghị,
sáng bừng lên bằng nụ cười thật trẻ thơ và cặp mắt linh hoạt. Một gương
mặt có lẽ sẽ tuyệt chủng. Ông từng là một cán bộ cao cấp lâu năm mà từ
nét mặt đến cử chỉ và dáng dấp đều không còn một dấu vết cán bộ. Một
điều phi thường. Chất cán bộ đã ngấm vào ai một ngày thường tẩy không ra
nữa. Tôi cứ ngồi ngắm ông già cao lớn, hốc hác mà vững chãi, đẹp như
một trang hảo hán trong tưởng tượng có lẽ rất cổ lỗ của tôi về những
người đàn ông có chí khí. Hình thức chính là nội dung.
Nguyễn Thanh Giang, tiết 6: [ Nhưng không phải chỉ có Nguyễn Ái Quốc làm công việc giới thiệu chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam trong những năm 20. Xin nêu lên vài tên tuổi đã đóng góp vào công việc này: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Đào Duy Anh… Chúng ta biết Phan văn Trường là người từng cộng tác với Nguyễn Ái Quốc và Phan Châu Trinh để khởi thảo ra “Bản yêu sách Tám điều” do Nguyễn Ái Quốc mang tới Hội nghị Versailles năm 1919”] (hết trích)
Trả lờiXóa- Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh không hề là «người từng cộng tác với Nguyễn Ái Quốc», mà sự thật lịch sử đã minh chứng họ đều là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc chẳng phải là bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Internet và ĐBQH kiêm nhà sử học hàng đầu VN xhcn Dương Trung Quốc đã xác định Nguyễn Ái Quốc là tên chung của nhóm Ngũ Long Paris (*), bao gồm 4 tên tuổi nêu trên và Nguyễn Tất Thành - thành viên non trẻ nhất.
________________
(*) [Chuyện thứ nhất: Năm 1919, các nước thắng trận trong Thế chiến có một cuộc họp ở Versailles của nước Pháp để bàn chuyện tương lai của thế giới. Tổng thống của Hoa Kỳ lúc đó mang đến hoà hội một chính sách trong đó hứa hẹn quan tâm đến lợi ích của các nước nhược tiểu. Nước ta lúc đó là thuộc địa của Pháp cũng nằm trong số các nước nhược tiểu. Do vậy một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp đứng đầu là cụ Phan Châu Trinh và trẻ tuổi là Nguyễn Tất Thành cùng viết một văn bản gửi Hoà hội Versailles đưa ra "những yêu sách của người An Nam" và được ký bằng cái tên chung là "Nguyễn Ái Quốc".] (Dương Trung Quốc: Nhân sự phá sản của đề án 112, Lao Động cuối tuần số 37, 23/9/2007.)
http://archive.is/vB0Ut
http://danlambaovn.blogspot.fr/2013/05/ho-ong-sinh-ngay-thang-nam-nao-hoi-2.html#.Up588dJDvp8