Đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam?
LS Nguyễn Lệnh
29-08-2013
Trước khi Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam ra đời năm 1946, có gần 30 tổ chức có mục đích chính trị, hoạt
động công khai hay bí mật tùy theo đường lối, lập trường của tổ chức đó.
Những tổ chức có mục đích chính trị này (không phải là tổ chức có mục
đích kinh tế, xã hội…) thường đặt tên cho mình là hội, đảng, mặt trận,
liên đoàn, liên minh, liên hiệp … Xin liệt kê tên các liên minh và đảng
phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Hiến pháp 1946 như sau:
– Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội – Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội –
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội – Việt Nam Quang phục Hội – Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên – Hội Phục Việt – Đảng Lập hiến Đông Dương – Tân
Việt Cách mạng Đảng – Đảng Việt Nam Độc lập – Việt Nam Quốc dân Đảng –
Đông Dương Cộng sản Đảng – An Nam Cộng sản Đảng – Đảng Cộng sản Việt Nam
– Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng – Đại Việt Dân chính Đảng – Đại Việt
Quốc dân Đảng – Đảng Dân chủ Đông Dương – Việt Nam Cách mệnh Đảng – Đại
Việt Quốc gia Xã hội Đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đại Việt Duy tân Cách
mệnh Đảng – Đảng Dân chủ Việt Nam – Đông Dương Cộng sản Liên đoàn –
Việt Nam Dân chúng Liên đoàn – Mặt trận Quốc gia Thống nhất – Mặt trận
Quốc gia Liên hiệp – Đại Việt Quốc gia Liên minh …(*)
Như vậy, một “tổ chức chính trị” – tức
là tổ chức có mục đích chính trị, trước năm 1946 có thể mang những tên
khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh, Liện hiệp … và
để xác định xem hiện nay đã có đủ căn cứ pháp lý hay chưa cho việc
thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta cần phải
xem xét một cách đầy đủ các văn bản pháp luật đã được ban hành từ trước
đến nay và còn hiệu lực về vấn đề này như sau:
1/ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946:
Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 10:
“Công dân Việt Nam có quyền: -Tự do ngôn luận – Tự do xuất bản – Tự do
tổ chức và hội họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước
và ra nước ngoài.”
Vì lúc bấy giờ chưa có Luật để giải
thích “quyền tự do tổ chức” trong Hiến pháp 1946 là như thế nào nhưng có
thể hiểu là: quyền tự do thành lập và tham gia những tổ chức hoạt động
có mục đích chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp … Hiến pháp 1946
không có một dòng chữ nào đề cập đến vai trò của bất cứ tổ chức chính
trị nào đang hoạt động kể cả Đảng Cộng sản Việt Nam.
2/ Hiệp định Genève 1954 phân chia nước Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chính thể khác nhau:
- Ở miền Nam: Quốc gia Việt Nam Cộng
Hòa (1954 – 1975) tiếp tục áp dụng chế độ đa đảng trong 21 năm. Có tổng
cộng 8 tổ chức chính trị, hợp pháp lẫn không hợp pháp là: – Đảng Dân chủ
Nam Việt Nam – Đảng Cần lao Nhân vị – Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam –
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – Đại Việt Quốc dân Đảng –
Đại Việt Cách mạng Đảng – Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và
Hòa bình Việt Nam – Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (*).
- Ở miền Bắc: Quốc gia Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vẫn tiếp tục duy trì chế độ đa đảng cho đến khi ban hành Luật
quy định quyền lập hội năm 1957, trong đó có quy định về việc “phải xin
phép lại” đã làm giảm rất nhiều các tổ chức chính trị thành lập trước
ngày ban hành luật này.
3/ Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 Quy định quyền lập hội:
“Quyền lập hội” là thuật ngữ được Luật
ngày 20/5/1957 này sử dụng chính thức thay cho “Quyền tổ chức” trong
Hiến pháp 1946 với những điều quy định quan trọng như sau:
- Điều 1: “Quyền lập hội của nhân dân
được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp
với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”.
Quy định tại Điều 1 này không giới hạn
lĩnh vực hoạt động của hội: chính trị, xã hội, nghề nghiệp …, miễn là
“mục đích” phải “chính đáng, phù hợp với lọi ích nhân dân …”. Tuy nhiên,
“quyền tự do tổ chức” tại Điều 10 Hiến pháp 1946 đã bị thu hẹp rất
nhiều bởi các quy định tại Điều 3 và 4 về việc “lập hội phải xin phép”
đối với hội mới và “phải xin phép lại” đối với hội cũ.
- Điều 3: “Để bảo đảm việc lập hội có
mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội
phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.”
Với quy định của Điều 3 này, những ai
muốn lập hội mới đã phải chờ đến 46 năm thì Chính phủ mới ban hành thể
lệ lập hội (30/7/2003).
- Điều 4: “Những hội đã thành lập trước
ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm chiếm trong thời
kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.”
Với quy định tại Điều 4 này, hầu hết
những tổ chức chính trị cũ đều không vượt qua được cửa quyền “cấp phép
lại” này của Chính phủ.
- Điều 9: “Các đoàn thể dân chủ và các
đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ
kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi
quy định của luật này.”
Với quy định của Điều 9 này là nhằm
dành quyền “không phải xin phép lại” cho những tổ chức chính trị đã tham
gia Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 –
1945) do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ xướng hình thành và là thành viên
tích cực với vai trò lãnh đạo.
- Điều 10: “Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.”
Với quy định của Điều 10 này có thể tạm
định nghĩa hội theo Luật năm 1957 là những tổ chức hoạt động có các mục
đích chính trị, xã hội, nghề nghiệp…nhưng không có mục đích kinh tế (vì
lợi nhuận) và phải được Chính phủ cấp phép hoạt động.
Trên thực tế, từ ngày Luật quy định
quyền lập hội được ban hành năm 1957 đến ngày Việt Nam thống nhất năm
1975, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì chế độ đa đảng
nhưng chỉ còn lại 3 tổ chức chính trị. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam.
Có thể nhận thấy Luật quy định quyền
lập hội năm 1957 này đã quy định rất thoáng về điều kiện thành lập hội:
Chỉ cần “có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác
dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của
nước ta”. Nhưng cũng với quy định về việc “phải xin phép lại” đối với
hội đã thành lập và “lập hội phải xin phép” đối với hội mới – mà Chính
phủ lại không ban hành “thể lệ lập hội” mới, nên đến năm 1975 chỉ còn
lại có 3 đảng hoạt động hợp pháp nói trên.
4/ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31/12/1959:
Hiến pháp 1959 có nói đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 ở phần Lời nói đầu.
Quyền lập hội được quy định tại Điều 25
của Hiến pháp: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự
do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo
những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Như vậy là cả Hiến pháp 1959 và Luật quy định quyền lập hội 1957 đều thừa nhận chế độ đa đảng.
5/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/12/1980:
Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định rằng:
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của
giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin,
là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ
yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các tồ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Điều 67: “Công dân có các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập lhội, tự do biểu
tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân…”
Chính 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 này
đã tạo nên chế độ “độc đảng”. Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải “tự giải
thể” vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.
6/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992:
Điều 2: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”
Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay mọi người phải tuân theo pháp luật.
Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng (bỏ 2 từ duy
nhất) lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Trong Điều 4 này đã bỏ đi 2 từ duy
nhất. Điều này có nghĩa là Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng mà
Hiến pháp 1980 đã quy định dành cho Đảng Công sản Việt Nam và khiến cho 2
đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải tự giải thể năm 1988.
Điều 4 này cũng bổ sung thêm 2 từ “pháp
luật” trong cụm từ “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm tăng cường
giám sát hoạt động của Đảng CSVN bằng pháp luật cho phù hợp với Điều 2
và làm giảm quyền hành quá lớn của Đảng CSVN theo Hiến pháp 1980.
7/ Tại sao Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng ?
Theo tôi, về mặt pháp lý, Hiến pháp
1992 phải sửa đổi, bỏ đi 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 của Hiến pháp
1980, mặc nhiên hủy bỏ chế độ độc đảng dành cho Đảng CSVN là vì 2 lý do
sau:
- Đã có mâu thuẫn pháp lý ngay trong 2
điều của bản Hiến pháp năm 1980, đó là Điều 4 và Điều 67. Một khi Hiến
pháp đã quy định là “Công dân có quyền tự do lập hội” – trong hội có bao
gồm cả đảng, thì làm sao có thể chỉ có một đảng “duy nhất” được. Sự sai
lầm của HIến pháp 1980 đã được Hiến pháp 1992 sửa sai.
- Ngày 24/9/1982 Việt Nam đã gia nhập
“Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị -1966″ nên phải thực
hiện cam kết của mình bằng cách hủy bỏ 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 Hiến
pháp 1980 nhằm thực hiện các quyền và tự do của con người theo Hiến
chương Liên Hợp Quốc, trong đó có quyền tự do lập hội. Xin trích Điều 2
khoản 2 của Công ước quốc tế này như sau: “Trong trường hợp quy định
trên đây chưa được thể hiên bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện
pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các
bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy
định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần
thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này” .
8/ Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995:
Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp
luật đầu tiên quy định về pháp nhân. Bên cạnh các quy định về điều kiện
để được công nhận là pháp nhân (Điều 94) và pháp nhân được thành lập
theo sáng kiến cá nhân, tổ chức hay theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (Điều 95) thì quy định của BLDS về các loại pháp nhân tại
Điều 110 là rất đáng chú ý:
“Điều 110. Các loại pháp nhân:
1. Pháp nhân bao gồm các loại sau đây:
a/ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;
b/ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
c/ Tổ chức kinh tế;
d/ Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;
đ/ Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
e/ Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật này.
2. Quy chế tổ chức và hoạt động của các
loại pháp nhân do pháp luật quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động
của mỗi loại pháp nhân.” Căn cứ vào Điều 110 này của BLDS năm 1995 và
căn cứ vào Điều 1 và Điều 10 của Luật quy định quyền lập hội năm 1957
thì có 6 loại pháp nhân sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy
định quyền lập hội năm 1957. Đó là: 1. Tổ chức chính trị, 2.Tổ chức
chính tri – xã hội, 3.Tổ chức xã hội, 4.Tổ chức xã hội-nghề nghiệp,
5.Quỹ xã hội, 6.Quỹ từ thiện.
Như vậy, một pháp nhân được xác định là
tổ chức chính trị khi có mục đích hoạt động chính trị. Đảng là một tổ
chức chính trị có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS. Đảng là 1
trong 6 loại pháp nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền
lập hội năm 1957.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi:
“Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực
hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.”
“Mục đích hoạt động” chính là nội dung
cơ bản để phân biệt các loại pháp nhân được Luật quy định quyền lập hội
năm 1957 điều chỉnh.
9/ Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội:
Nghị định này căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội.
Nghị định này chính là “thể lệ lập hội”
mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 có quy định tại Điều 3 là “sẽ
do Chính phủ quy định”. Một từ “sẽ” trong Luật quy định quyền lập hội
1957 lại bị Chính phủ kéo dài đến 46 năm (!).
Nghị định này của Chính phủ đã đưa ra
một định nghĩa “khó hiểu” về hội tại Điều 2. Thậm chí, có thể nói là
Nghị định đã bóp méo, đã làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa so với định
nghĩa rất thoáng tại Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957. Xin
trích dẫn Điều 2 của Nghị định:
“Điều 2. Hội 1.
Hội được quy định trong Nghị định này
được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành
nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội
viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào
việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động
theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
2. Hội có các tên gọi khác nhau: liên
hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân
và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là
hội)” .
Sự “khó hiểu” trong Nghị định chính là :
– Điều 1 Luật quy định quyền lập hội 1957: “Lập hội phải có mục đích
chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân,
để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta” .
“Mục đích” trong Điều 1 Luật quy định
quyền lập hội năm 1957 đã bị diễn giải hoàn toàn khác hẳn trong Điều 2
Nghị định Chính phủ năm 2003.
- Điều 110 Bộ luật dân sự 1995 khi phân
loại các pháp nhân cũng quy định tại khoản 2 rằng: “Quy chế tổ chức và
hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định và tùy thuộc vào
mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân”.
“Mục đích hoạt động” bao gồm: chính
trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp. Đó là tiêu chuẩn để phân loại tổ chức
là pháp nhân theo BLDS.
Còn khoản 2 của Điều 2 Nghị định này
lại cố ý chỉ định một số tên gọi như là hội, liên hiệp hội, tổng hội,
liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ nhằm loại khỏi Nghị định tên gọi đảng là
tổ chức chính trị thường được sử dụng mà chính Luật quy định quyền lập
hội 1957 đã bao gồm trong đó. Điều quy định này của Nghị định là “khó
hiểu” và trái với nội dung thể hiện trong Luật quy định quyền lập hội
1957.
Tuy nhiên, Nghị định này lại công nhận
các “tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp”
cũng là hội, tại khoản 2 Điều 4.
Trong hệ cấp các văn bản pháp luật thì
Luật cao hơn Nghị định. Vì vậy, những điểm nào trong Nghị định không rõ
ràng hoặc trái với Luật thì sẽ áp dụng quy định trong Luật.
Như vậy, Nghị định Chính phủ số
88/2003NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội đã ban hành “thể lệ lập hội” căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội
năm 1957. Mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 lại tôn trọng và bảo
đảm quyền lập hội của nhân dân. Người dân có quyền tự do lập hội, miễn
là lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có
tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân của nước ta như đã quy định tại Điều 1 của Luật này. Vì vậy, Điều 1
của Luật quy định quyền lập hội 1957 được áp dụng thay vì áp dụng Điều 2
Nghị định Chính phủ 2003.
10/ Các căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam:
Như trình bày nêu trên, đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Các căn cứ đó là:
- Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) đều quy định quyền tự do lập hội của công dân.
- Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày
20/5/1957 quy định quyền lập hội trong đó có tổ chức đảng. Luật này quy
định rõ rằng: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập
hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác
dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của
nước ta”. Mọi quy định trong văn bản dưới luật của Chính phủ khi ban
hành “thể lệ lập hội” trái với Luật này đều bị coi là vi phạm Luật và bị
hủy bỏ.
- Bộ luật dân sự năm 1995 đã phân ra 9
loại pháp nhân, trong đó có 6 loại pháp nhân được điều chỉnh bởi Luật
quy định quyền lập hội là: – Tổ chức chính tri, Tổ chức chính trị – xã
hội, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp, Quỹ xã hội, Quỹ từ
thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 có bổ sung thêm một loại pháp nhân nằm
trong hội nữa là: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.
- Nghị định của Chính phủ số
88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội. Nghị định này căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội 1957 để ban
hành “thể lệ lập hội”. Nghị định này được thay thế bởi Nghị định Chính
phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 với chút ít điều chỉnh, bổ sung.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị 1966 mà nước Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982, cam kết thực
hiện các quyền được công nhận trong Công ước này. Khoản 1 Điều 22 Công
ước này quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người
khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đòan để bảo vệ lợi ích của
mình”.
- Đặc biệt là quy định tại Điều 4 Hiến
pháp 1980 rằng “Đảng CSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước,
lãnh đạo xã hội…” đã bị Hiến pháp năm 1992 hủy bỏ 2 từ “duy nhất” tại
Điều 4. Tức là Hiến pháp 1992 đã không thừa nhận chế độ “độc đảng” của
Đảng Cộng sản VN trong Hiến pháp 1980.
Với những những điều trình bày trên cho
thấy hệ thống pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế mà VN tham gia đã
có đủ căn cứ pháp lý để công dân Việt nam thành lập một đảng khác ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là ý kiến cá nhân. Tôi mong có một hội thảo
chính thức về vấn đề pháp lý này để mọi công dân Việt Nam được hiểu rõ
hơn về một quyền chính trị rất quan trọng của mình.
———
(*) Theo Wikipedia tiếng Việt
Nguồn: Ba Sàm.
Giờ cái bệnh "độc đoán - kiêu ngạo" nó đang lan ra cả một số người dân bình thường nữa mới ghê. Chỉ cần một chút hơn người thôi (nhiều tiền hơn) là ngay lập tức : đi đứng , xưng hô , cư xử,...là "chiếm rất nhiều diện tích".
Trả lờiXóaTôi đồng ý với Ls Nguyễn!
Bài phân tích của Ls Nguyễn Lệnh rất hay, rất sáng suốt, mở ra con đường rộng cho các đảng chính trị ngoài ĐCSVN quyền thành lập , quyền tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ PL của NN VN hiện thời . Báo đài Đ và NN không thể cứ giọng cả vú lấp miệng em rồi bỏ bóng đá người . Sinh hoạt chính trị của một nước do một CQ luôn luôn phát ngôn là của dân , do dân và vì dân , sao lại cứ muốn bịt miệng dân ? Rồi đem ngay cả một đảng viên 45 tuổi Đảng như ô. LHĐ ra đánh hội đồng chỉ vì muốn lập ra một đảng khác, mục đích làm cho XH tốt đẹp hơn, cho nên chính trị cởi mở hơn .
Trả lờiXóaHoan hô Ls Nguyễn Lệnh . Hoan hô Ls Trần Vũ Hải . ủng hộ Lg Lê hiếu Đằng . Các vị hãy giữ vững dũng khi, kiên cường và sáng suốt .
Cảm ơn những người yêu nước dũng cảm nói lên sự thực ! Nhưng xin thưa, Không bao giờ giới LĐ chịu đa đảng vì không bám ĐCS thì nhóm lợi ích "ăn" vào đâu!
Trả lờiXóa"...Chính 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 này đã tạo nên chế độ “độc đảng”. Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải “tự giải thể” vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam..."
Trả lờiXóaTheo tôi thì từ "duy nhất" trong điều 4 của HP 1980 chỉ có ý nghĩa là nó qui định chỉ có đảng CSVN được quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nó hoàn toàn không có nghĩa triệt tiêu, hoặc cấm đoán sự tồn tại của các chính đảng khác, miễn là không lãnh đạo nhà nước và xã hội. Điều này giải thích lý do vì sao sau khi HP 1980 được thông qua, hai đảng Dân chủ và Xã hội vẫn tồn tại và vẫn hoạt động bình thường. Hai đảng này đã "tự giải tán" vì đã "hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình"(theo giải thích của mấy bố ở ban tuyên giáo) chứ không phải vì sự tồn tại của hai đảng này trái với HP lúc đó.
Khác nhau chút xíu bác Lệnh ạ:
Trả lờiXóaKhoản 1 Điều 2 Nghị định 45/2010/NĐ-CP: “lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng”
Khoản 1 Điều 2 Nghị định 88/2003/NĐ-CP: “lợi ích hợp pháp của hội viên”. Không có các từ “của hội”, “của cộng đồng”
Vậy là Nghị định 45/2010/NĐ-CP cũng có tiến bộ hơn Nghị định 88/2003/NĐ-CP đấy chứ. Tuy nhiên nó chưa phù hợp với văn bản luật cao hơn là Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957.
Các anh ở Bộ Tư pháp coi lại đi. Văn bản “con” sao lại cỡi lên đầu văn bản “mẹ” được.
Các luật sư đã chứng minh được cơ sở pháp lý để lập một đảng mới. LS Hải đã gửi đến các cơ quan lập pháp, nhà nghiên cứu luật, chúng ta phải chờ đến thời điểm 01 tháng xem họ trả lời thế nào.
Trả lờiXóaVấn đề tối quan trọng là trường hợp họ im lặng, thì việc tiến hành lập đảng mới như thế nào. Những nhân sĩ trí thức, giới luật sư... phải hành động thế nào để mọi người hưởng ứng, thì mới thành hiện thực, chứ không thể chỉ kêu gọi mãi là không được gì cả.
Cảm ơn Luật Sư Nguyễn Lệnh,người vì dân ,vì tổ quốc.
Trả lờiXóaKinh thưa các vị trí thức yêu nước thương dân nếu đã thấy có đủ chứng cứ pháp lý để thành lập một đảng ngoài đảng cộng sản việt nam thì hãy soạn thảo cương lĩnh công bố cho toàn dân việt nam và thế giới biết ĐẢNG DÂN CHỦ XÃ HỘI VIỆT NAM đã chính thức ra đời để đấu tranh vì quyền và lợi ích của tổ quốc của nhân dân VIỆT NAM
Trả lờiXóaBản chất của xã hội là vận động. Nó đang xảy ra một cách biện chứng. Hitler không hiểu được quy luật bất biến này, đâm ra phải toi mạng.
Trả lờiXóaSốt ruột quá . Vậy đến khi nào thì một đảng mới sẽ được thành lập để những người có nguyện vọng vì dân vì nước thực sự được tham gia?
Trả lờiXóaCái tư duy đa đảng là bạo loạn chẵng wa những
Trả lờiXóangười cầm quyền ghim vào đầu người dân, ko
phải họ lo xã hội này loạn lạc mà họ mất cái ghế
độc quyền. Bởi vì đa đảng là nguyên nhân chính
của bạo loạn thì cả thế giới này loạn lạc hết cả
rồi. Chẵng wa do người cầm quyền nếu như họ
thiện chí bắt tay,chia sẽ quyền lực cùng xây dựng
đất nước thì mọi cuộc trao đổi quyền lực cũng sẽ
diễn ra yên bình vì mục tiêu chính là phát triển
đất nước chứ ko vì mục đích trục lợi của riêng
đảng phái nào và đa đảng là đối trọng để giám
sát,để kiềm hãm sự lạm quyền của đảng phái
cầm quyền. Còn việc xã hội loạn lạc thì do chính
các đảng phái cầm quyền hoặc các đảng phái độc
quyền thời gian dài họ ko muốn từ bỏ quyền lực
nên họ kích động nhân dân nhằm tranh giành
quyền lực thế thì loạn lạc thôi. Đa đảng ko phải
nguyên nhân làm loạn xã hội mà ý đồ của những
người cầm quyền mới làm loạn xã hội thôi
trên đời này, có nhiều kẻ chết vì kiêu căng, chửi dân ngu và bố láo
Trả lờiXóa