Tô Văn Trường
Tôi đã tự nhủ trong suốt thời gian qua, mình đã viết hơn chục bài về dự án bauxite Tây Nguyên là quá đủ rồi nhưng nay được nghe ông Trần Xuân Hòa Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ và chỉ trong vòng 2 tháng nữa sẽ thấy tương lai của bauxite, đành phải gác tất cả công việc lại để viết bài “Lời cuối cho bauxite Tây Nguyên”!
Kiểm nghiệm các tuyên bố có cánh của lãnh đạo TKV
Tuyên bố của ông Trần Xuân Hòa không có gì lạ, nó chỉ là sự tiếp nối hùng hồn khẳng định trước đây của các vị tiền nhiệm ở TKV và người trong cuộc. Chính vì các tuyên bố này mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng tin tưởng để cho làm dự án thí điểm bất chấp lời khuyên can của đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng ngàn ý kiến phản biện của người dân và các nhà khoa học.
Tôi đã tự nhủ trong suốt thời gian qua, mình đã viết hơn chục bài về dự án bauxite Tây Nguyên là quá đủ rồi nhưng nay được nghe ông Trần Xuân Hòa Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ và chỉ trong vòng 2 tháng nữa sẽ thấy tương lai của bauxite, đành phải gác tất cả công việc lại để viết bài “Lời cuối cho bauxite Tây Nguyên”!
Kiểm nghiệm các tuyên bố có cánh của lãnh đạo TKV
Tuyên bố của ông Trần Xuân Hòa không có gì lạ, nó chỉ là sự tiếp nối hùng hồn khẳng định trước đây của các vị tiền nhiệm ở TKV và người trong cuộc. Chính vì các tuyên bố này mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng tin tưởng để cho làm dự án thí điểm bất chấp lời khuyên can của đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng ngàn ý kiến phản biện của người dân và các nhà khoa học.
Ông Đoàn Văn Kiển - Bí thư đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản
trị TKV (Ủy viên dự khuyết BCHTU khóa IX) đã báo cáo bằng văn bản tại hội nghị
của Ban tuyên huấn TW ngày 25/12/2008 tại Thành phố HCM, nguyên văn như sau (về
hiệu quả của dự án bô xít):
"Mặt khác, ý nghĩa đóng góp
phát triển kinh tế xã hội địa phương vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ là rất lớn
vì với tổng doanh thu do xuất khẩu Alumina từ 2 nhà máy Nhân Cơ và Tân Rai trừ
năm 2011 ước đạt 300 triệu USD/năm và tham gia đóng góp ngân sách địa phương
(các khoản thuế) là khoảng 10-15% doanh thu để phát triển kinh tế xã hội, thì
thực sự Tập đoàn đã góp phần phát triển Tây Nguyên giầu mạnh".
Ông Đặng Đức Yến- Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông trong bài báo "Giải pháp
cho bô xít Tây Nguyên" của tác giả Phan Anh đăng
mục Kinh tế-Xã hội đã khẳng định: "Nếu dự án alumina
này vào, tính từ các khoản thuế, phí bảo vệ môi trường... sẽ đóng góp cho tỉnh
khoảng 1600 tỷ đồng và đến năm 2011 thì có thể đạt hơn 2000 tỷ đồng"
Trong thực tế, TKV lẫn lộn, không
phân biệt nổi hiệu quả kinh tế-tài chính (là
của doanh nghiệp), hiệu quả kinh tế-xã hội (của xã hội). Các nước
gần đây còn chú trọng đến hiệu quả kinh tế-môi trường là những
khái niệm không thể lập lờ. Đến hôm nay, TKV công khai "lờ" đi
cái khoản thu to nhất của ngân sách là thuế xuất khẩu!?
Lập luận của ông Trần Xuân Hòa về
thuế xuất khẩu không chuẩn, cần phải chỉnh. TS Nguyễn Thành Sơn đã chỉ ra rất
chính xác về thuế xuất khẩu của Quốc hội ban hành từ
năm 2008 (trước khi
TKV làm alumina), nên chỉ có danh điểm "quặng nhôm" (chứa Al2O3). TKV
cũng hiểu alumina (cũng đều chứa Al2O3) cũng là "quặng nhôm", như vậy
là chính xác về mặt khoa học. Chính vì vậy, trước đây, như báo chí đã đưa tin
Phó TGĐ của TKV là ông Nguyễn Văn Biên khẳng định phải xin giảm thuế xuất khẩu
alumina từ 20% xuống 5% hoặc =0% thì có lãi. Gần đây, tại cuộc họp báo, người
phát ngôn của TKV cũng khẳng định với các nhà báo là trước mắt doanh nghiệp khó
khăn nên nhà nước hỗ trợ bằng cách cho thuế xuất khẩu = 0%, sau này kinh tế hồi
phục TKV sẽ nộp bình thường. Như vậy, bản thân TKV cũng thấy mặt hàng
"alumina" được hiểu là "quặng nhôm" không thể không đóng
thuế xuất khẩu như ngụy biện của ông Hòa.
Nhân việc TKV cứ "quanh co" và "mập mờ", để đảm bảo lợi ích của người đóng thuế, cần có kiến nghị rõ với Quốc hội bổ sung vào biểu thuế xuất khẩu danh điểm "Alumina" và xác định cụ thể thuế xuất cho alumina còn đang thiếu. Còn mức thuế suất là bao nhiêu % là do Quốc hội qui định chứ không thể áp thuế suất của nước ngoài (Brazin, hay Ấn Độ) cho Việt Nam. Về cái gọi là "chế biến sâu" của TKV: Alumina có hàm lượng Al2O3 cao thì gọi là được chế biến sâu cũng đúng, nhưng, alumina của Tân Rai và Nhân Cơ có đặc điểm là do công nghệ lạc hậu, giải pháp công nghệ ấu trĩ, đòi hỏi tiêu hao nhiều than (0,679 tấn than cho 1 tấn alumina). Không ai khuyến khích "chế biến sâu" để xuất khẩu như kiểu của TKV cả. Vì, đối với alumina của TKV, xuất khẩu alumina cũng là xuất khẩu than (cái mà chúng ta còn đang thiếu).
Không thể chịu trách nhiệm chính trị trên tiền
thuế của dân
Ông Trần Xuân Hòa cho rằng dự án
bauxite không việc gì phải xin ý kiến của Quốc hội vì đó là thẩm quyền của
Chính phủ. Người dân thưa hiểu đó là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước thì
việc chia nhỏ dự án, mang danh thí điểm, “lách luật” cũng không có gì lạ! Đừng
quên rằng dù chất lượng đại biểu Quốc hội còn hạn chế vì “Đảng cử-Dân bầu”
nhưng không ít người có lòng tự trọng, biết lắng nghe ý kiến của Dân, điển hình
như Quốc hội khóa trước đã từng bỏ phiếu bác bỏ dự án đường sắt cao tốc
Bắc-Nam.
Muốn sòng phẳng, công
khai minh bạch thì TKV phải tìm nguồn vốn bổ xung cho nguồn vốn tự có. Về cơ
bản có hai cách bổ xung đi vay và huy động vốn góp, trong đó có góp vồn theo
phương thức góp vốn cổ phần, gắn với hình thành và phát triển thị trường sơ cấp
trên thị trường chứng khoán. Cần phải tính toán hiệu quả của phương án sử dụng
vốn đầu tư. Trong lĩnh vực này, luôn phải có tối thiểu hai phương án thực hiện
mục tiêu để lựa chọn phương án có hiệu quả nhất. Việc đưa ra hai phương án kết
nối Tân Rai-Nhân Cơ với cảng biển bằng đường bộ hay đường sắt là sự thể hiện
vấn đề này. Do đó, để làm cho ngân sách nhà nước, cũng như vốn đầu tư của các
chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có thể là nằm ở việc lập một hay
nhiều phương án đầu tư để thực hiện mục tiêu đề ra? Thủ trưởng, người có quyền
quyết định chủ trương đầu tư là người đòi hỏi bộ máy giúp việc phải lập và tính
toán chính xác phương án đầu tư và hiệu quả của vốn đầu tư, trình Thủ trưởng
phê duyệt hay loại xẩy ra tình trạng Thủ trưởng là người quyết định chủ trương
đầu tư một cách chủ quan, duy ý chí, ... để rồi bắt buộc bộ máy giúp việc phải
lập phương án đầu tư để thực hiện chủ trương của Thủ trưởng chứ không phải là
để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Thông thường để ngân
sách được sạch sẽ thì phải có phương án gây vốn. Vốn phải dựa vào bán trái
phiếu doanh nghiệp (enterprise bonds) cho dân chúng, thông qua 1 công ty
đánh giá tài chính. Muốn bán được thì phải có đánh giá khả năng hoàn vốn và trả
lãi+ vốn. Người mua như thế thấy rõ được rủi ro của loại bonds này mà quyết
định mua hay không mua. Nguyên tắc là nếu doanh nghiệp quốc doanh trên lỗ thì
người mua bonds có thể mất vốn. Theo cách làm trên, nếu thị trường đánh giá là
đầu tư trên không thể có lời thì tất nhiên không bán được trái phiếu, và do đó
không thể xây dựng doanh nghiệp. Cách làm này là cách làm của các doanh nghiệp
gọi là phi lợi nhuận (hay tự quản) ở Mỹ và nhiều nước. Doanh nghiệp có thể làm
lời nhưng lời phải tái đầu tư chứ không thể đem chia cho cổ phần vì không có cổ
phần viên. Chỉ có cách làm này mới tránh được cái gọi là doanh nghiệp quốc
doanh mà ngân sách phải chịu trách nhiệm bù lỗ.
Ở Mỹ và các nước tiên
tiến, người ta rất xa lạ với vốn cổ phần công ty nhà nước, nói chung là xa lạ
với công ty quốc doanh. Công ty tự quản phi lợi nhuận, dịch từ chữ (non-profit organization).
Nếu là tư nhân thì thường với mục đích từ thiện hay văn hóa, như lập nhà
thương, bảo tàng. Nếu là nhà nước thì với mục đích phục vụ xã hội và nền kinh
tế nói chung. Ở Mỹ không có ý niệm công ty quốc doanh, mà chỉ có công ty phi
lợi nhuận nhà nước tự quản. Thí dụ như Tennesse Valley Authority nhằm cung cấp
điện cho khu vực Tennesse, New York and New Jersey Port Authority nhằm
quản lý các phi trường và hải cảng và chuyên chở trong khu vực nằm giữa hai
bang NY-NJ. Đây là công ty nhà nước địa phương nhưng tự quản. Trong các công ty
tự quản, hội đồng quản trị do nhà nước hai bang chỉ định theo nhiệm kỳ, nhưng
giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê. Lợi nhuận công ty tự quản tùy mục
đích có thể được miễn thuế. Công cụ để gây vốn là bán trái phiếu dài hạn
(bonds) ít nhất là 10 năm trở lên. Các công ty tự quản nhà nước dựa vào vốn bán
trái phiếu, mà không dựa vào thuế hay vốn vay ngân hàng. Lý do không dựa vào
vốn vay ngân hàng vì hai lý do: bấp bênh lãi suất và qua hình thức trái phiếu, Chính
phủ có thể miễn thuế đối với lãi trái phiếu do đó khuyến khích dân chúng
mua. Việc gây vốn qua trái phiếu cũng chính là cách làm cho dân chúng gắn
bó với các đầu tư trên vì chính họ bị ảnh hưởng nếu như doanh nghiệp thua lỗ
mất khả năng trả lãi/vốn trái phiếu.
Phản biện cho TKV khó như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3
Có chuyên gia nhận xét quan trọng đối với Tây Nguyên (trong đó có bauxite) là hạ tầng phải đi trước một bước như Bộ Chính trị đã yêu cầu trong Thông báo 245. Trong hạ tầng (giao thông vận tải, điện, nước), nếu có nhiều tiền cũng chỉ phát triển được giao thông vận tải, còn điện (thủy điện) và nước thì không thể. Muốn giải quyết triệt để, và khi nay đã có tiền làm đường sắt, thì bauxite chắc chắn phải là theo lời dạy của COMECON (SEV) trước kia là đưa các nhà máy alumina xuống bờ biển. Như vậy kiểu gì cũng nên đóng cửa ngay Nhân Cơ để chờ cơ hội. Phản biện bây giờ khó thật nhất là nói với TKV cũng khó giống như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3.
Từ tháng 2/1010 đến 3/2013, tức là chỉ sau có 25 tháng, tổng mức đầu tư của dự án Nhân Cơ đã tăng từ 11.365 tỷ (lấy chẵn) lên 14.889 tỷ, tức là, bình quân mỗi tháng tăng lên thêm 140,9 tỷ đ/tháng. Tốc độ tăng tổng mức đầu tư là 1,3%/tháng. (Con số tương tự của Tân Rai có khá hơn, chỉ tăng 93,5 tỷ đồng/tháng). Như vậy, cứ cái "đà" này, với cung cách quản lý dự án như ở Nhân Cơ, kiểu gì cũng tăng, càng kéo dài càng tăng, càng nhanh chóng dừng sớm Nhân Cơ thì mỗi tháng còn đỡ thiệt hại thêm 140,9 tỷ đồng vốn đầu tư.
Về thải "ướt" và "khô": Bùn đỏ của Tân Rai có 2 pha rắn và lỏng. Pha rắn chủ yếu gồm các chất ô xít kim loại, pha lỏng là chất xút NaOH độc hại nguy hiểm. Nếu tỷ lệ 2 pha rắn/lỏng là 50/50 thì TKV gọi là gì ("khô" hay "ướt") cũng được (không ai thèm chấp). Nhưng nếu pha rắn chỉ có 46,5% thì đó là "ướt" vì pha lỏng (NaOH) chiếm hơn 50% trong chất thải ra. Cái "công nghệ" như TKV nói, chính là công nghệ thải "ướt". Tất nhiên, do chất xút vừa độc hại cho người ngoài, nhưng cũng rất đắt đối với chủ đầu tư (khoảng 14 triệu đồng/tấn) nên phải thu hồi lại. Chỉ có điều khác nhau: "khô"- thu hồi ngay tối đa trong dây truyền nhà máy, còn "ướt" cứ thải ra ngoài, chờ một thời gian để 2 pha rắn và lỏng tách nhau ra rồi sẽ thu về tái sử dụng (giống hệt như ở Hungary).
Chất lượng alumina: Alumina của TKV có tên gọi chung là Cancined Alumina. Nhưng nếu căn cứ theo thành phần hóa học và vật lý thì khách hàng Marubeni gọi alumina của TKV thuộc dạng "Coarse Alumina" hay (Sandy Type). Cũng giống như đường ăn, ta thường gọi loại đường tốt là "đường trắng", còn loại chất lượng thấp hơn là "đường cát" vì mầu giống như cát. Trong Alumina người ta cũng dùng khái niệm "cát" (sỏi) là "Sandy Type" để gọi alumina của TKV.
Cũng giống như bùn đỏ có chứa hơn 50% chất xút nhưng TKV vẫn gọi là "khô", TKV có gọi alumina của mình là "vàng" hay "bạch kim" cũng được, nhưng trong kỹ thuật thì phải rõ ràng theo các con số, và trong thương mại quốc tế cũng chẳng lừa được ai.
TKV phải tính lại bài toán kinh tế
Tạm gác các vấn đề còn nhiều bất cập của dự án bauxite về tác động xấu đến môi trường, ý nghĩa chính trị an ninh quốc phòng, theo tôi hiểu chỉ riêng về bài toán kinh tế TKV phải tính lại theo phương pháp luận và cách tiếp cận cụ thể dưới đây:
Phản biện cho TKV khó như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3
Có chuyên gia nhận xét quan trọng đối với Tây Nguyên (trong đó có bauxite) là hạ tầng phải đi trước một bước như Bộ Chính trị đã yêu cầu trong Thông báo 245. Trong hạ tầng (giao thông vận tải, điện, nước), nếu có nhiều tiền cũng chỉ phát triển được giao thông vận tải, còn điện (thủy điện) và nước thì không thể. Muốn giải quyết triệt để, và khi nay đã có tiền làm đường sắt, thì bauxite chắc chắn phải là theo lời dạy của COMECON (SEV) trước kia là đưa các nhà máy alumina xuống bờ biển. Như vậy kiểu gì cũng nên đóng cửa ngay Nhân Cơ để chờ cơ hội. Phản biện bây giờ khó thật nhất là nói với TKV cũng khó giống như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3.
Từ tháng 2/1010 đến 3/2013, tức là chỉ sau có 25 tháng, tổng mức đầu tư của dự án Nhân Cơ đã tăng từ 11.365 tỷ (lấy chẵn) lên 14.889 tỷ, tức là, bình quân mỗi tháng tăng lên thêm 140,9 tỷ đ/tháng. Tốc độ tăng tổng mức đầu tư là 1,3%/tháng. (Con số tương tự của Tân Rai có khá hơn, chỉ tăng 93,5 tỷ đồng/tháng). Như vậy, cứ cái "đà" này, với cung cách quản lý dự án như ở Nhân Cơ, kiểu gì cũng tăng, càng kéo dài càng tăng, càng nhanh chóng dừng sớm Nhân Cơ thì mỗi tháng còn đỡ thiệt hại thêm 140,9 tỷ đồng vốn đầu tư.
Về thải "ướt" và "khô": Bùn đỏ của Tân Rai có 2 pha rắn và lỏng. Pha rắn chủ yếu gồm các chất ô xít kim loại, pha lỏng là chất xút NaOH độc hại nguy hiểm. Nếu tỷ lệ 2 pha rắn/lỏng là 50/50 thì TKV gọi là gì ("khô" hay "ướt") cũng được (không ai thèm chấp). Nhưng nếu pha rắn chỉ có 46,5% thì đó là "ướt" vì pha lỏng (NaOH) chiếm hơn 50% trong chất thải ra. Cái "công nghệ" như TKV nói, chính là công nghệ thải "ướt". Tất nhiên, do chất xút vừa độc hại cho người ngoài, nhưng cũng rất đắt đối với chủ đầu tư (khoảng 14 triệu đồng/tấn) nên phải thu hồi lại. Chỉ có điều khác nhau: "khô"- thu hồi ngay tối đa trong dây truyền nhà máy, còn "ướt" cứ thải ra ngoài, chờ một thời gian để 2 pha rắn và lỏng tách nhau ra rồi sẽ thu về tái sử dụng (giống hệt như ở Hungary).
Chất lượng alumina: Alumina của TKV có tên gọi chung là Cancined Alumina. Nhưng nếu căn cứ theo thành phần hóa học và vật lý thì khách hàng Marubeni gọi alumina của TKV thuộc dạng "Coarse Alumina" hay (Sandy Type). Cũng giống như đường ăn, ta thường gọi loại đường tốt là "đường trắng", còn loại chất lượng thấp hơn là "đường cát" vì mầu giống như cát. Trong Alumina người ta cũng dùng khái niệm "cát" (sỏi) là "Sandy Type" để gọi alumina của TKV.
Cũng giống như bùn đỏ có chứa hơn 50% chất xút nhưng TKV vẫn gọi là "khô", TKV có gọi alumina của mình là "vàng" hay "bạch kim" cũng được, nhưng trong kỹ thuật thì phải rõ ràng theo các con số, và trong thương mại quốc tế cũng chẳng lừa được ai.
TKV phải tính lại bài toán kinh tế
Tạm gác các vấn đề còn nhiều bất cập của dự án bauxite về tác động xấu đến môi trường, ý nghĩa chính trị an ninh quốc phòng, theo tôi hiểu chỉ riêng về bài toán kinh tế TKV phải tính lại theo phương pháp luận và cách tiếp cận cụ thể dưới đây:
I. Cách tính lợi nhuận theo kế toán doanh nghiệp
A.
|
Giá thành f.ob. (có thể
tính cho toàn bộ sản lượng nhà máy rồi tính cho 1 tấn aluminia)
|
DIỄN GIẢI
|
=
|
Giá quặng bauxit dùng
để sản xuất ra alumina
Chính là resource rent mà VN trong trường hợp
tài nguyên do nhà nước sở hữu được gọi là thuế tài nguyên. Đây là chi phí mà
công ty khai thác phải trả để sử dụng tài nguyên. Nó được định nghĩa là thu
nhập (thí dụ một tấn alumina) trừ đi tổng chi phí sản xuất cộng thêm lợi nhuận
trung bình cho số vốn bỏ ra để sản xuất ra nó.
Thí
dụ giá 1 con tôm hùm là $5.00, chi phí sản xuất (lao động và vật chất) cộng với
chi phí vốn bỏ ra và lợi nhuận trung bình là $3.00, thì resource rent là
$2.00.
|
Việc
tính này là điều bình thường cần tính khi một quốc gia thương lượng để đi đến
ký kết hợp đồng khai thác dầu thô. Điển hình nhất là khi một bên bỏ 100% vốn
khai thác và điều hành khai thác. Bên có sở hữu nguồn dầu thô được phân chia
một tỷ lệ dầu thô nhất định sau khi bơm dầu lên. Cơ sở để tính toán là phân
chia thu nhập thuần thu được từ dầu
thô (tức là giá dầu thô trên thị trường trừ đi chi phí khai thác).
Giá
của quặng này có thể tính dựa vào các hợp đồng đã đạt được giữa các nhà khai
thác tài nguyên bauxit trả cho chính phủ các nước trên thế giới. Giá này phải cần đến chuyên gia quốc tế đã
làm việc trong ngành.
|
+
|
Chi phí về hàng hóa và
dịch vụ để sản xuất ra alumina
|
Gồm
tất cả chi phí về hàng hóa và dịch vụ dùng để sản xuất ra 1 tấn alumina. Hàng
hóa dịch vụ ở đây bao gồm toàn bộ chi phí về:
Điện,
nước, than, chi phí bảo quản và các
chi phí quản lý khác
|
+
|
Chi phí bảo vệ/hoàn nguyên môi trường
|
|
+
|
Chi phí về lao động
|
Công
trả cho lao động kể cả lao động quản lý
|
+
|
Chi
phí trả lãi
|
|
+
|
Thuế
sản xuất nếu có (thuế đăng ký doanh nghiệp, thuế sản phẩm, thuế đất)
|
|
+
|
Chi phí khấu hao tài sản nhà xưởng và
máy móc
|
|
+
|
Chi
phí chuyên chở ra cảng kể cả bốc dỡ đưa hàng lên tầu
|
|
+
|
Thuế
xuất khẩu
|
|
B
|
Giá bán được trên thị
trường f.o.b.
|
Đây
là giá mà người mua sẵn sàng trả sau khi hàng được đưa lên tầu. Chi phí về
chuyên chở khỏi cảng + bảo hiểm là trách nhiệm của người mua.
|
C
|
Thu nhập thuần theo
giá hiện tại (net present value)
|
|
=
|
B-A
|
C gọi là thu nhập thuần chính
là lợi nhuận theo cách tính của doanh nghiệp.
Tỷ lệ lợi nhuận = C/vốn tự có.
Vốn tự có = giá trị tài sản – giá trị vốn vay.
II. Cách tính hiệu quả trong đánh giá dự án
Để tính tổng thu nhập thuần
(net present value) của cả dự án thì phải tính. Trong trường hợp có C0 thì
Ci sẽ lớn hơn vì giá thành không cần tính khấu hao (tức là khấu hao
vốn đầu tư ban đầu C0). Nếu
tính như ở phần I thì C0=0.
Thời
kỳ
|
0
|
1
|
2
|
T
|
|||||
-
C0
|
C1
|
C2
|
CT
|
C0 = vốn đầu tư (gồm
cả vốn tự có và vốn vay).
Ci = thu nhập thuần
thời kỳ i, tính theo giá giá trị của thời kỳ hiện tại tức là thời điểm 1. Nếu chúng được tính theo giá của thời kỳ i
thì phải đưa về giá hiện tại, tức là trừ khử đi lạm phát. Khi giá bán trong hợp
đồng dài hạn cố định thì rõ ràng là giá trị hiện tại của giá bán đó sẽ nhỏ đi.
Nếu 100 là giá trị nhận được trong năm thứ 5 mà lạm phát p là 3% mỗi năm thì giá
trị 100 đó chỉ có giá trị trong hiện tại bằng = = 88.4. Kể từ năm 2001 đến nay lạm
phát trung bình ở Mỹ là khoảng 2.5%. Có
lẽ có thể lấy tốc độ lạm phát này để tính (khi tính bằng USD).
r là suất chiết khấu thực (sau khi trừ lạm phát)
thường là tính giống nhau cho từng thời kỳ. Suất chiết khấu hoàn toàn khác chỉ
số tăng giá (hay lạm phát). Thí dụ trong 5 năm nữa, chúng ta được trả giá là
100 và với lạm phát 2.5% năm thì giá trị hiện tại là 88.4 như đã nói ở trên.
Tuy nhiên như thế phải 5 năm nữa chúng ta mới nhận được 88.4. Như thế nếu muốn
nhận ngay vào thời kỳ 1 thì phải chiết khấu 88.4 và như thế chỉ được giá trị là
=76.2. Thường suất chiết khấu thực
được dùng là 3%.
Có
hai cách tính hiệu quả của dự án:
1) Với công thức ở trên, NPV là
thu nhập thuần thu được của dự án nếu như trong năm năm, mỗi năm nhận được Ci
(đã đưa về giá hiện tại). Cách tính này
thường giả định suất chiết khấu thật r = 0.03. Dự án chỉ nên làm nếu như NPV
dương. Có nghĩa là nếu âm thì sẽ không lấy lại được vốn.
2) Tính suất hoàn vốn nội tại,
tức là tính ra r, khi cho NPV = 0. Nếu r nhỏ hơn lãi suất thực (tức là khử lạm
phát) trên thị trường thì không nên đầu tư. Cách tính này có thể so sánh tỷ suất
hoàn vốn với lãi suất thực trên thị trường.
Lãi suất thực (real rate) =
(1 + lãi suất danh nghĩa (nominal rate) / (1 + lạm phát) - 1
= (1 + 6%) /
(1 + 4%) – 1 = 1.9%
ở đây, lãi suất danh nghĩa là 6%, lạm phát là 4%.
Nếu có hơn 1 phương án thì chọn
phương án có tỷ lệ hoàn vốn cao hơn hoặc NPV lớn hơn.
Xử
lý vấn đề lạm phát:
NPV là giá trị theo giá hiện tại.
·
Có thể tính C theo giá thu được tại thời điểm thu
tương lai và như thế suất chiết khấu là suất chiết khấu danh nghĩa.
·
Cũng có thể đưa C về giá hiện tại, khi đó suất chiết
khấu phải tính theo lãi suất thực.
Có lạm phát = 4%. Tiền vào ra theo giá thời điểm chi/thu. Suất
chiết khấu danh nghĩa = 6%. NPV tính bằng suất chiết khấu danh nghĩa.
0
|
1
|
2
|
3
|
4
|
Tổng
|
|
Tiền vào
|
0
|
624
|
648.96
|
674.9184
|
701.9151
|
|
Tiền ra
|
1500
|
104
|
108.16
|
112.4864
|
116.9859
|
|
Tiền vào thuần
|
-1500
|
520
|
540.8
|
562.432
|
584.9293
|
|
NPV
|
-1500
|
490.566
|
481.3101
|
472.2288
|
463.3188
|
407.4236
|
Không lạm phát (hay là mọi chi phí đưa về giá
hiện tại, suất chiết khấu thật = 1.019231)
0
|
1
|
2
|
3
|
4
|
Tổng
|
|
Tiền vào
|
600
|
600
|
600
|
600
|
||
Tiền ra
|
1500
|
100
|
100
|
100
|
100
|
|
Tiền vào thuần
|
-1500
|
500
|
500
|
500
|
500
|
|
NPV
|
-1500
|
490.566
|
481.3101
|
472.2288
|
463.3188
|
407.4236
|
Thay cho lời kết
Dự án bauxite Tây Nguyên
ngày càng được thực tế chứng minh là chủ trương sai của Đảng và Nhà nước. Nếu
ngay từ đầu, giá như người ta biết lắng nghe ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp và phản biện xã hội coi bauxite như của để dành cho thế hệ con cháu chờ
25-30 năm sau khi khoa học công nghệ phát triển, đất nước đủ tiềm lực mới khai
thác. Lịch sử không có 2 từ giá như. Chính TKV cũng không thể trốn tránh trách
nhiệm “bóc ngắn-cắn dài” đã góp phần làm tan hoang mảnh đất nghèo khó hình chữ
S thân yêu của chúng ta.
T.V.T
Không biết mấy ông KTV và những ông ủng hộ dự án này đọc có hiểu gì không nhỉ?
Trả lờiXóavận hành thì lỗ nhưng xây dựng nên một nhà máy là thành công lớn rồi, %, commision chi đầy đủ (tiền thật sẽ đút túi) sau đó cũng vừa hết nhiệm kỳ, nhiệm kỳ sau đồng chí nào số đen phải vận hành sản xuất thì mới lo bị lỗ
Trả lờiXóaĐúng! Ông quyết làm để lấy tiền hoa hồng đút túi! Còn chuyện lỗ lã sau này ông chẳng chịu!
XóaĐến nước này thì cứ để cho 2 nhà máy Tân Rai và Nhân Cơ chạy . Để xem nó sống được bao lâu . Đến khi nó vỡ lở te tua như Vinashin, Vinalines thì đem đấu gía . Vậy là mớ tiền đổ xuống sông xuống biển đã xong !
Trả lờiXóaĐã lỗ cầm chắc rồi thì sao các vị này không tính luôn vận chuyển bằng đường không luôn cho nó nhanh chóng nhỉ ? Chán lắm rồi !
Trả lờiXóaPhá sản thì ta lại TÁI CƠ CẤU là ổn hết.
Trả lờiXóaĐây mới chỉ là thử nghiệm thôi mà...
Trả lờiXóaTiền của nhà nước (dân) chứ của ai đâu mà cứ kêu ầm lên thế.
Sao TS Tô Văn Trường quá lãng mạn . Lời cuối cho em Bauxite Tây Nguyên. Em nỡ bỏ anh hay anh nỡ bỏ em ? Em nỡ bỏ anh vì em chưa xuân đã già hay anh nỡ bỏ em vì anh chẳng còn thiết tới em nữa . Tây nguyên vì em chẳng còn trinh nguyên . Tây nguyên bị lắm kẻ lông lá dầy vò !
Trả lờiXóaLời cuối cho em. Thôi anh đừng quá bi thương cho lòng em tan nát. Lời cuối cho em . Anh quyết dứt áo chia tay để em cô đơn lạnh lùng, bùn đỏ nhấn chìm em xuống rừng núi . Thôi chào anh, tạm biệt anh Trường, từ nay đừng nhìn em nữa ! Bauxite Tây Nguyên !
Phân tích như bác TVT đây thì đúng là một nhà kinh tế học thực sự và mọi việc là 2 x 5 rõ 10 rồi khỏi phải bàn cãi. Nhưng thực ra ai cũng biết là TKV và Đảng của chúng ta đã đâm lao thì phải theo lao mất rồi. Họ cũng biết cả đấy, ngay cả Bộ trưởng bộ CT Huy Hoàng khi phải trả lời trên VTV cũng trả lời nước đôi và không dám khẳng định cái gì cả, rồi thì lãnh đạo tập đoàn TKV cũng nói lấy được nhưng rất đuối lý. Làm ăn kinh tế mà hãy chờ xem thì đúng là hết chỗ để nói rồi....Pó tay.com. Để tiến hành một Đại dự án lớn như thế, chưa nói chuyện quốc phòng an ninh chỉ nói đến hiệu quả kinh tế thôi mà cứ như vào casino đánh bạc ấy, mà ai cũng biết 100 con bạc khát nước vào thì có đến 99 con bạc phải cháy túi ra về, vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.
Trả lờiXóaQuá thất vọng về cung cách làm ăn của mấy cái tập đoàn lớn nhất VN này. Chắc 100 năm sau vẫn không bằng được Thái Lan
đất (khoán sản) là của chung nhưng hiện tại do TVK đang quản lý. nhà máy xây dựng do tiền của dân (tiền chùa, quan niệm của mấy ông kinh tế gia của đảng)xúc đất(không phải của ai cả)dùng nhà máy (của dân xây dựng) sàng lọc mang sản phẩm đi bán. không phải bỏ ra 1 đồng vốn từ túi (của mấy ông TVK) mà thu về tiền tỉ (bảo đảm kinh tế gia của bọn giẩy chết cũng làm không tốt đến cở nầy). thế mà mấy ông bảo không lời là thế nào????????
Trả lờiXóaÔng Giám đốc BQL DA giải thích rằng : Một đời DA 30-40 năm, nếu 2 DA kia lỗ KH 12-13 năm, thì những năm còn lại vẫn có lãi. Cách giải thích theo kiểu " vụng chèo",nhằm đánh lừa dư luận.
Trả lờiXóaĐông ý rằng, đời 1 DA có thể là 30-40 năm và có khi còn hơn nữa. Nhưng những MMTB dùng cho DA đâu có thề dài như thế được, nhất là những loại MMTB hạng nặng chạy liên tục : như máy xúc,máy nghiền,máy san gạt....và các loại máy , nhà xưởng tiếp xúc với Hóa chất, tiếp xúc với nhệt độ cao . Những loại máy này giỏi lắn cũng chỉ chịu được 7-10 năm. Sau đó thì phải thanh lý và mua lại cái mới.
Nghĩa là DA tiếp tục DA và lỗ lại hoàn lỗ, không có được con số KH 12-13 năm sau đâu mà lỗ mãi mãi.
Thông thường các DA cũng chỉ tính lỗ KH tối đa là 2 năm thôi, còn kéo dài thêm thì chính Chủ Đầu tư sẽ bị cách chức vì tính toán đầu tư không có HQ.