CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2013
KIẾN NGHỊ SỐ 05 LIÊN QUAN ĐẾN DỰ ÁN ECOPARK
VĂN GIANG – HƯNG YÊN
(Kiến
nghị của các luật sư trợ giúp pháp lý cho những hộ dân bị thu hồi đất liên quan
đến dự án Ecopark – Văn Giang – Hưng Yên, đề nghị Thủ tướng Chính phủ và
Chính phủ trực tiếp xem xét, giải quyết những vấn đề liên quan đến dự án
Ecopark)
Kính
gửi: -
Ngài Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Chính phủ.
Đồng
kính gửi:
-
Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
-
Ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước
-
Ông Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội
-
Ông Nguyễn Xuân Phúc – Phó Thủ tướng Chính phủ
-
Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Nội chính Trung ương
- Các
Ông: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ; Tổng Thanh tra Chính phủ; Bộ
trưởng Bộ công an; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải; Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Tài chính; Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch đầu tư; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ trưởng Bộ
Xây dựng
- Các
cơ quan, đoàn thể: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hội nông dân Việt Nam; Ban dân
nguyện – Quốc hội; Ủy ban pháp luật Quốc hội
-
Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên
-
Các cơ quan truyền thông, báo chí
Chúng
tôi, những luật sư đang trợ giúp pháp lý cho những hộ dân tại Văn Giang – Hưng
Yên do việc họ bị thu hồi đất, liên quan đến dự án Ecopark gửi tới Ngài Thủ
tướng và các Quý vị lời chào trân trọng và xin trình bày, kiến nghị như sau:
Việc
thu hồi đất ở Văn Giang – Hưng Yên để xây dựng Khu đô thị Thương mại – Du lịch
Văn Giang (Dự án Ecopark) có nguồn gốc từ 02 quyết định do Ngài Nguyễn Tấn Dũng
ký khi Ngài là Phó Thủ tướng Chính phủ (quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định
742/QĐ-TTg). Hàng ngàn hộ nông dân Văn Giang đã liên tục khiếu nại từ năm
2006 đến nay nhưng vẫn chưa thấy có văn bản nào do Ngài Thủ tướng hoặc Phó Thủ
tướng thay mặt Ngài ký để giải quyết vụ việc. Sau vụ cưỡng chế ngày 24/04/2012,
09 đại diện của những hộ dân bị thu hồi đất đã yêu cầu chúng tôi trợ giúp pháp
lý để giải quyết vụ việc. Chúng tôi đã gửi Kiến nghị số 01 đề ngày 22/05/2012 đến
Ngài nhưng không thấy hồi âm. Chúng tôi đã gửi Kiến nghị số 03 đề ngày
24/07/2012 tới Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP) để đề nghị Ông
Bộ trưởng giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết những khiếu nại, tố cáo, nhưng
cũng không có hồi âm.
Nay
chúng tôi xin gửi Kiến nghị số 05 tới Quý Ngài với hi vọng, Ngài Thủ tướng sẽ
quan tâm, trực tiếp giải quyết hoặc lập một tổ chuyên gia để giúp Ngài giải
quyết. Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, thẩm quyền để xem xét hủy bỏ đối
với những văn bản do Thủ tướng ban hành thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH) và Quốc hội. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng Thủ tướng Chính phủ và
Chính phủ có quyền xem xét lại chính những văn bản do mình ban hành. Mặc dù các
hộ dân Văn Giang đã kiên trì khiếu nại tới UBTVQH và Quốc hội, nhưng chúng tôi
– các luật sư trợ giúp pháp lý vẫn mong muốn chính Ngài Thủ tướng và Chính phủ
sẽ xem xét, quyết định giải quyết những vấn đề đang trong tầm tay của Thủ tướng
Chính phủ và Chính phủ.
Cho
phép chúng tôi không trình bày lại toàn bộ sự việc thu hồi đất tại Văn Giang –
Hưng Yên, mà xin trình bày về những nội dung, vấn đề quan trọng sau:
1,
Quyết định số 303/QĐ-TTg ngày 30/3/2004 và Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày
30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành không đúng thẩm quyền.
2,
Hai quyết định trên không căn cứ và cũng không có dấu hiệu phù hợp Quy hoạch
sử dụng đất đã được phê duyệt trước đó và đang có hiệu lực.
3,
Quyết định 742/QĐ-TTg không ghi cụ thể tên người bị thu hồi đất, diện tích đất
bị thu hồi và cũng không giao cho người bị thu hồi đất nên không phải là
quyết định thu hồi đất có giá trị đối với họ.
4,
Có nhiều dấu hiệu cho thấy có “nhóm lợi ích” không vì dân vì nước đã tìm cách chạy
luật, báo cáo và tham mưu thiếu trung thực, bỏ qua những quy định của pháp luật
để giao cho một nhóm người không thực sự có khả năng về tài chính, chuyên môn
500 ha đất tại Văn Giang với giá đền bù rẻ mạt, bất chấp ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống, lao
động của hàng ngàn hộ dân với hàng vạn nhân khẩu tại Văn Giang.
5,
Có hàng loạt vi phạm pháp luật trong việc ban hành những văn bản liên quan đến
Dự án Ecopark, khi thực hiện Dự án này, đỉnh điểm là cưỡng chế để thu hồi đất
trái pháp luật.
6,
Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân Văn Giang không được các cấp chính
quyền, tòa án xem xét, giải quyết nghiêm chỉnh từ sau vụ cưỡng chế ngày
24/04/2012.
7,
Những vấn đề các Bộ, ngành cần sáng tỏ để giúp Ngài Thủ tướng và Chính phủ giải
quyết.
8,
Đề xuất hướng giải quyết.
Chúng
tôi xin trình bày từng nội dung, vấn đề:
1,
Hai quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định 742/QĐ-TTg năm 2004 ban hành không đúng
thẩm quyền.
a,
Quyết định 303/QĐ-TTg ngày 30/03/2004 có nội dung phê duyệt điều chỉnh bổ
sung kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm (2001-2005) tỉnh Hưng Yên. Theo Điều 18
Khoản 2 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) quy
định: “Chính phủ xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đai của Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm và kế
hoạch điều chỉnh, bổ sung hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương…”. Như vậy, Luật quy định thẩm quyền phê duyệt
này thuộc Chính phủ, không thuộc Thủ tướng Chính phủ.
b,
Quyết định 742/QĐ-TTg ngày 30/06/2004 về việc giao đất để thực hiện dự án xây
dựng đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên đoạn từ huyện Văn Giang đến xã
Dân Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên theo phương thức sử dụng quỹ đất để
tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo Điều 23 khoản 1 điểm a Luật Đất đai trên:
“Chính phủ quyết định giao đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao
đất có thu tiền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án”.
Như
vậy, Chính phủ có thẩm quyền quyết định giao đất trong trường hợp này, Thủ
tướng Chính phủ không có thẩm quyền này.
c,
Có người cho rằng Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định những vấn đề
thuộc thẩm quyền của Chính phủ không do Chính phủ quyết định tập thể và dẫn
chiếu Quy chế làm việc của Chính phủ được ban hành theo Nghị định số
11/1998/NĐ-CP ngày 24/01/1998. Tuy nhiên Quy chế này đã bị thay thế bởi Quy chế
được ban hành theo Nghị định số 23/2003/NĐ-CP ngày 12/03/2003. Theo Quy chế năm
2003, (i)Chính phủ quyết định tập thể những vấn đề mà pháp luật quy định
thuộc thẩm quyền của Chính phủ (ii) Thủ tướng quyết định những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Thủ tướng và những vấn đề được Chính phủ giao giải quyết.
d,
Các nghị định hướng dẫn Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998,
2001) đều không giao cho Thủ tướng quyết định 02 nội dung trên. Ngày 08/05/2012,
chúng tôi đã đề nghị ông Vũ Đức Đam – Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP cung cấp văn
bản xác định Chính phủ có giao cho Thủ tướng ban hành 02 quyết định có nội dung
trên nhưng đến nay chưa được cung cấp. Chúng tôi đã tìm hiểu các nghị định,
nghị quyết của Chính phủ trong các năm 2003, 2004 nhưng không thấy Chính phủ có
giao cho Thủ tướng để giải quyết những vấn đề trên.
2,
Hai quyết định Quyết định số 303/QĐ -TTg ngày 30/3/2004 và Quyết định số 742/QĐ-TTg
ngày 30/06/2004 của Thủ tướng Chính phủ không căn cứ vào quy hoạch sử dụng
đất đai đã được duyệt.
a,
Theo Điều 28 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2001), việc thu
hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế
hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Theo Điều 17
Luật đất đai trên và Điều 11 Nghị định 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất đai 05 năm
và hàng năm là quy hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định hoặc xét duyệt. Trong 02 quyết định nêu trên
và trong 02 Tờ trình của Bộ TN-MT liên quan đến 02 quyết định này đều
không nêu căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của tỉnh Hưng Yên được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 438/QĐ-TTg ngày 04/06/2002.
b,
Theo Nghị định 68/2001/NĐ-CP, Bản đồ hiện trạng sử dụng đất đai, bản đồ quy
hoạch sử dụng đất, bản đồ chuyên đề phải đi kèm hồ sơ xét duyệt Quy hoạch sử
dụng đất đai. Chúng tôi đã yêu cầu Bộ TN-MT cung cấp những bản đồ này cùng Quy
hoạch được phê duyệt, nhưng đến nay Bộ TN-MT chưa cung cấp.
c,
Ngày 21/08/2003, UBND tỉnh Hưng Yên có Quyết định số 1613/QĐ-UB về việc phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội huyện Văn Giang giai đoạn
2001 – 2010 và định hướng đến năm 2020, không thấy có quy hoạch, kế hoạch
xây dựng khu đô thị thương mại du lịch Văn Giang (như dự án Ecopark), cũng có
nghĩa tại thời điểm này chưa có quy hoạch sử dụng đất để xây dựng đô thị tại
Văn Giang. Mặt khác, theo bà con, vào thời điểm năm 2002-2003, họ được địa
phương khuyến khích chuyển từ đất trồng lúa sang đất trồng cây quả, cảnh có giá
trị cao, phù hợp với Quy hoạch tổng thể trên. Do đó không có cơ sở để xác định
500 ha đất (trong đó phần lớn là đất nông nghiệp) tại Văn Giang được quy hoạch chuyển
đổi làm đất đô thị tại thời điểm 2003 – 2004.
d,
Trong buổi đối thoại ngày 08/11/2012 giữa những đại diện của nhiều hộ dân bị
thu hồi đất tại Văn Giang với ông Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT,
người ký 02 Tờ trình của Bộ TN-MT, ông Võ đã thừa nhận nội dung 02 quyết định
trên không phù hợp Quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt.
e,
Ngày 21/06/2007, Chính phủ mới có Nghị quyết số 31/2007/NQ-CP xét duyệt, điều
chỉnh Quy hoạch sử dụng đất của tỉnh Hưng Yên từ năm 2001-2010 (thay thế quyết
định 438/QĐ-TTg ngày 04/06/2002 nêu trên).
3, Quyết
định 742/QĐ-TTg không phải là quyết định thu hồi đất có giá trị đối với
các hộ dân liên quan tại Văn Giang.
a,
Bộ TN-MT và chính quyền tỉnh Hưng Yên cho rằng quyết định 742/QĐ-TTg là quyết
định thu hồi đất có hiệu lực đối với các hộ dân liên quan tại Văn Giang, mặc dù
không giao quyết định này cho họ và cho rằng Luật đất đai 1993 không quy định
phải ban hành quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân hoặc ghi tên người bị thu
hồi đất, diện tích đất bị thu hồi, (chỉ có Luật đất đai 2003 có quy định).
b,
Quan điểm trên không phù hợp pháp luật tại mọi thời điểm (từ năm 2004 đến nay).
Luật đất đai 1993 (sửa đổi, bổ sung 1998, 2001) và Luật khiếu nại, tố cáo 1998
(sửa đổi bổ sung 2004, 2005) đều đảm bảo cho các hộ dân quyền sử dụng đất và
nếu bị thu hồi được quyền nhận Quyết định thu hồi đất đúng luật, ghi rõ tên họ
và diện tích đất bị thu hồi của họ. Cụ thể như sau:
Khoản
2, Điều 3 Luật đất đai 1993 (sửa đổi bổ sung 1998, 2001) nêu rõ: “3- Nhà
nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm
nghiệp có đất sản xuất”.
Điều
21 Luật đất đai 1993 này cũng quy định: “Việc quyết định giao đất đang có
người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu
hồi đất đó”.
Điều
28 Luật đất đai 1993 quy định: “Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
giao đất nào thì có quyền thu hồi đất đó.
Việc
thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế
hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.”
Điều
31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung 2004, 2005) quy định:
“Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành
chính hoặc biết được có hành vi hành chính”.
Khoản
10, Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 định nghĩa về quyết định hành chính như
sau: “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành
chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về
một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính”.
c,
Như vậy, việc thu hồi đất phải căn cứ bằng một quyết định hành chính, trong đó
ghi tên (hoặc gắn liền một danh sách) một hoặc một số hộ dân cụ thể, cùng diện
tích đất bị thu hồi của từng hộ dân. Người dân phải nhận được quyết
định hành chính (có ghi rõ tên họ và diện tích bị thu hồi) để chấp hành hoặc
thực hiện quyền khiếu nại. Nếu người dân chưa nhận được quyết định thu hồi
đất (có ghi rõ tên họ và diện tích bị thu hồi), họ không có nghĩa vụ phải thi
hành quyết định thu hồi đất. Do đó, quyết định 742/QĐ – TTg (không ghi tên
người bị thu hồi, diện tích đất của người bị thu hồi) không thể coi là quyết
định thu hồi đất của những hộ dân Văn Giang.
d,
Việc không giao quyết định thu hồi đất cho người bị thu hồi đất, khiến họ không
có quyền khiếu nại, đã xâm phạm quyền khiếu nại của công dân được quy
định tại Điều 74 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
4,
Có nhiều dấu hiệu cho thấy có “nhóm lợi ích” đã tìm cách chạy luật, báo
cáo không trung thực đến Phó Thủ tướng Chính phủ.
a,
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng (Vihajico), được cấp Đăng
ký kinh doanh ngày 19/08/2004, vốn điều lệ 70 tỷ đồng (đến năm 2006 mới đóng đủ
vốn này). Trong các cổ đông, không có cổ đông nào có kinh nghiệm xây dựng đường
bộ.
b,
Ngay sau khi thành lập, công ty này được chính quyền tỉnh Hưng Yên ưu ái chỉ
định thực hiện các dự án xây dựng đường giao thông liên tỉnh, khu đô thị với
500 ha đất, theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng, tổng vốn đầu tư
tạm tính của 02 Dự án này tại thời điểm 2004 là khoảng 4500 tỷ đồng, gấp gần
65 lần vốn điều lệ.
c,
Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên không nằm trong quy
hoạch giao thông đường bộ toàn quốc (được Thủ tướng Chính phủ thông qua theo
quyết định 162/QĐ-TTg ngày 15/11/2002) và Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh
Hưng Yên (theo Quyết định 2978/1999/QĐ-UB của UBND tỉnh Hưng Yên ngày
29/12/1999, đã được Bộ GTVT cho ý kiến). Tuy nhiên, một nhóm quan chức tỉnh
Hưng Yên cùng Vihajico đã báo cáo về một dự án đường cao tốc trọng điểm Hà Nội
– Hưng Yên (theo thông tin của ông Đặng Hùng Võ cung cấp). Thực tế, nếu các ban
ngành quan tâm đến giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên, chỉ cần nâng cấp một
số đoạn đường sẵn có của Hưng Yên. Tuy nhiên, nhóm lợi ích đưa ra dự án đường
giao thông trọng điểm chỉ là cớ nhằm có được 500 ha đất giáp Hà Nội, có vị trí
đắc địa với giá đền bù rẻ mạt (dự tính ban đầu 20 triệu đồng/1 sào = 360m2 đất),
đường giao thông nếu xây cũng chỉ nhằm tăng giá trị của khu đô thị xây trên 500
ha đất này.
d,
Nhóm lợi ích này tìm cách được giao đất theo phương thức đổi đất lấy hạ tầng
trước ngày 01/07/2004 khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực. Theo Luật đất đai 2003,
phải tiến hành đấu thầu, đấu giá, (không có cơ hội cho nhóm lợi ích này).
Họ
đã không làm đúng theo tinh thần của công văn số 1495/CP-NN ngày 31/10/2003,
theo đó dự kiến tỉnh Hưng Yên đổi 02 dự án giaothông bằng quỹ
đất từ 300-500 ha tại Văn Giang. Thực tế, nhờ việc báo cáo không trung thực
từ nhóm quan chức tham mưu, tỉnh Hưng Yên chỉ đổi 01 dự án bằng quỹ đất 500
ha, có lợi cho nhóm lợi ích này.
e,
Nhóm lợi ích này đã bỏ qua những quy định theo Điều 23 Nghị định 04/2000/NĐ-CP,
được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 66/2001/NĐ-CP. Theo đó, chỉ được trình
Chính phủ giao đất để đổi lấy hạ tầng sau khi tổ chức
nghiệm thu và xác định đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng, định giá khu
đất sẽ trả cho chủ đầu tư đã bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Nói
cách khác, chỉ khi chủ đầu tư đã xây xong công trình hạ tầng theo cam kết,
Chính phủ mới giao đất cho Chủ đầu tư. Nhóm lợi ích này (thông qua những quan
chức nhất định đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ), đã tạo điều kiện để
có các giấy tờ giao đất cho Vihajico (với tốc độ nhanh chóng chưa từng có trong
lịch sử về thực hiện thủ tục đất đai tại Việt Nam) khi Vihajico chưa
thực hiện xây dựng công trình hạ tầng, tạo điều kiện cho Vihajico “lấy mỡ
nó rán nó”, “tay không bắt giặc”. Công ty này đã bán hàng nghìn căn
biệt thự, căn hộ, đã hưởng lợi nhuận nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành hạ tầng.
f,
Nhóm lợi ích này không quan tâm đến thực trạng sản xuất, kinh doanh của hàng
ngàn hộ nông dân tại Văn Giang, đang được thuận lợi khi chuyển sang trồng cây
cảnh theo truyền thống của một số xã tại Văn Giang và do đó cũng không có báo
cáo trung thực tới Phó Thủ tướng về thực trạng này (cũng như giải pháp đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng cho các hộ dân). Lợi ích của hàng nghìn hộ nông
dân, với hàng chục nghìn nhân khẩu bị coi nhẹ, so với lợi ích của
Vihajico.
g,
Nhiều cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đã tỏ ra dễ dãi, khi tiếp
nhận nhà đầu tư Vihajico, bỏ qua nhiều quy định của pháp luật tại thời điểm đó
nhằm giao đất cho Vihajico (xem phần sau).
5,
Những vi phạm pháp luật từ một số cơ quan nhà nước liên quan đến Dự án Ecopark
(ngoài những vi phạm nêu trên).
a, UBND
tỉnh Hưng Yên không công bố, công khai (theo Quyết định 22/2003/QĐ-BTC ngày
18/02/2003) về danh mục các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng được sử dụng quỹ
đất, danh mục quỹ đất dùng để tạo vốn cho từng công trình (trong đó có dự án
đường giao thông, quỹ đất tại Văn Giang).
b,
Do không công bố, công khai nên không thể xác định được có hay không nhà đầu tư
khác xin thực hiện những dự án trên, nên việc UBND tỉnh Hưng Yên xác định
Vihajico là nhà đầu tư duy nhất (để chỉ định, bỏ qua đấu thầu, đấu giá) không
có cơ sở, trái Quyết định 22/2003/QĐ – BTC.
c,
Do Vihajico mới thành lập vào tháng 8/2003, vốn điều lệ 70 tỷ đồng, chưa có
kinh nghiệm xây dựng hạ tầng, không có cổ đông nào có kinh nghiệm xây dựng
đường bộ nên không đủ các điều kiện (vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm) theo quy định
tại Điều 7 Quyết định 22/2003/QĐ-BTC. Việc UBND tỉnh Hưng Yên lựa chọn Vihajico
là trái Quyết định này.
d,
Theo các hộ dân Văn Giang, chỉ đến năm 2006, họ và chính quyền địa phương cấp
xã mới biết được địa phương có ý định xây dựng khu đô thị thương mại – du lịch
Văn Giang. Như vậy, khi phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng khu đô thị thương
mại – du lịch Văn Giang tới năm 2020 theo Quyết định 632/QĐ-UB ngày 25/03/2004,
UBND tỉnh Hưng Yên đã không tuân thủ theo khoản 6 Điều 8 Nghị định
52/1999/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định số 07/2003/NĐ-CP: “… Quy hoạch xây
dựng đô thị và nông thôn khi nghiên cứu lập dự án, cơ quan tổ chức lập dự án
phải công bố công khai, trưng cầu ý kiến của nhân dân và Hội đồng nhân dân sống
trên vùng quy hoạch…”.
e,
Bộ TN-MT khi thẩm tra Tờ trình ngày 25/02/2004 của UBND tỉnh Hưng Yên về việc
điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất năm 2004, 2005 đã không thẩm tra đề
nghị này có phù hợp với Quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước đó không,
đã không phát hiện UBND tỉnh trình không đúng thời điểm theo quy định tại Nghị
định 68/2001/NĐ-CP về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Lẽ ra, Bộ TN-MT
phải hướng dẫn UBND tỉnh Hưng Yên thực hiện theo chỉ thị 05/2004/CT-TTg
ngày 09/02/2004 về triển khai thi hành Luật đất đai 2003, để thực hiện rà soát,
phê duyệt, điều chỉnh Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo Luật đất đai
2003. Ngày 12/03/2004 bằng Tờ trình số 14/TTr.BTNMT, Bộ TN-MT vội vã
chấp nhận Tờ trình này của UBND tỉnh Hưng Yên là không thực hiện theo Chỉ thị
05/2004/CT-TTg. Tờ trình số 14/TTr.BTNMT không nêu những căn cứ pháp lý là trái
thông lệ và những quy định tối thiểu của một văn bản hành chính.
f,
Dự án giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội là dự án xây dựng đường quốc lộ,
thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của Bộ GT-VT. UBND tỉnh Hưng Yên tự ý phê
duyệt Dự án này (đoạn từ Văn Giang đến Dân Tiến – Khoái Châu, đoạn qua Khu đô
thị thương mại – du lịch Văn Giang kéo dài) theo Quyết định 1431/QĐ-UB ngày
25/06/2004 mà không có ý kiến, phê duyệt, chấp thuận từ Bộ GT-VT là trái các
quy định của pháp luật về giao thông đường bộ có hiệu lực tại thời điểm đó
(Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông đường bộ, Nghị định 167/1999/NĐ-CP về
tổ chức quản lý đường bộ). Theo Điều 13 và Điều 14 Nghị định 167/1999/NĐ-CP
này, nguồn vốn để đầu tư đường bộ thuộc hệ thống quốc lộ được bố trí từ
nguồn ngân sách trung ương và các nguồn vốn khác. Như vậy, việc phê duyệt dự án
này còn phải có ý kiến của Bộ Tài chính (ngoài Bộ GT-VT). Chính từ không có ý
kiến từ 02 Bộ này, UBND tự ý ra quyết định (mà không có kinh nghiệm), dẫn
đến không xác định được trách nhiệm bố trí nguồn vốn, một nguyên nhân
quan trọng cho việc Dự án giao thông này đến nay chưa hoàn thành.
g,
UBND tỉnh Hưng Yên xác định Dự án giao thông trên là Dự án của địa phương, có
vốn đầu tư trên 500 tỷ đồng, tức thuộc nhóm A nhưng không thông qua HĐND tỉnh
Hưng Yên là làm trái quy định “Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách
địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công
khai” theo Nghị định số 07/2003/NĐ-CP.
h,
Khi cưỡng chế giải phóng mặt bằng ngày 07/01/2009 đối với trên 200 hộ dân,
chính quyền tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang không ban hành quyết định cưỡng
chế theo quy định của pháp luật (các hộ dân không nhận được quyết định cưỡng
chế, kể cả khi yêu cầu chính quyền cung cấp quyết định cưỡng chế).
Ngày
24/04/2012, chính quyền tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang tiếp tục cưỡng chế thu
hồi đất, nhưng không có quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của Luật
đất đai.
Có
nhiều hình ảnh cho thấy đã huy động lực lượng quá mức cần thiết cho những việc
cưỡng chế, gây ảnh hưởng xấu đối với dư luận trong và ngoài nước.
6, Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân Văn Giang
không được các cấp chính quyền, tòa án xem xét, giải quyết nghiêm chỉnh.
a,
Các hộ dân khiếu nại việc cưỡng chế ngày 07/01/2009, tỉnh Hưng Yên và UBND
huyện Văn Giang đã không giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đối
với việc cưỡng chế ngày 24/04/2012, các hộ dân đã khiếu nại, UBND huyện Văn
Giang đã thụ lý nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết, mặc dù đã quá thời hạn theo
quy định của Luật Khiếu nại và Tố cáo (nay là luật Khiếu nại).
Các
hộ dân đã khởi kiện ra Tòa án tại Hưng Yên, nhưng Tòa án đều không thụ lý đơn
khởi kiện của các hộ dân với những lý do không chính đáng.
Tóm
lại, các cơ quan địa phương, tòa án tỉnh Hưng Yên tìm mọi cách để không giải
quyết khiếu nại của các hộ dân bị thu hồi đất tại Văn Giang, đây là nguyên nhân
chính dẫn đến các hộ dân buộc phải khiếu nại, tố cáo vượt cấp.
b,
Thanh tra Chính phủ (“TTrCP”) đã 02 lần xem xét khiếu nại, tố cáo của các hộ
dân Văn Giang (Văn bản 168/TTCP-V4 ngày 26/01/2007 và báo cáo 2288/BC-TTCP ngày
17/9/2009) nhưng chưa giải quyết triệt để, đúng pháp luật, có nhiều thiếu sót,
cụ thể như sau:
-
Những hộ dân này cho rằng quyết định số 303/QĐ- và số 742/QĐ-TTg được ban hành
không đúng thẩm quyền, họ đã nêu vấn đề này ngay từ năm 2006 và khiếu nại từ
năm 2009 lên Chính phủ và Quốc hội. Tuy nhiên, trong cả 02 văn bản của TTrCP
đều không thấy đề cập đến nội dung này. Việc xem xét giá trị pháp lý của 02
quyết định này thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội,
vượt quá thẩm quyền của TTrCP. Tuy nhiên, với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ
giải quyết các khiếu nại, tố cáo, lẽ ra TTrCP cần báo cáo với Chính phủ
về nội dung khiếu kiện này của những người dân bị thu hồi đất để Chính phủ xem
xét theo thẩm quyền.
-
TTrCP cho rằng các dự án này phù hợp với quy hoạch, trình tự, thủ tục lập, thẩm
định, phê duyệt đúng quy định hiện hành. Nhưng TTrCP không nêu rõ những văn bản
nào của cơ quan có thẩm quyền nào đã phê duyệt những quy hoạch nêu trên trước
khi ban hành 02 quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
không nêu rõ việc thẩm định và phê duyệt dự án phù hợp như thế nào với những
văn bản pháp luật nào? (Chúng tôi đã chứng minh ở phần trên về việc không phù
hợp quy hoạch của những dự án này, cũng như những vi phạm về trình tự lập, thẩm
định, phê duyệt dự án, có nêu cụ thể những quy định pháp luật bị vi phạm).
-
Văn bản 168/TTCP-V4 ngày 26/01/2007 thừa nhận UBND tỉnh Hưng Yên đã không làm
đúng các quy định của pháp luật khi lựa chọn chủ đầu tư, năng lực tài chính của
Chủ đầu tư còn hạn chế (vốn điều lệ 70 tỷ đồng). Lẽ ra TTrCP cần kiến
nghị Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Hưng Yên phải thực hiện lại việc lựa chọn Chủ
đầu tư theo đúng pháp luật, không chấp nhận một doanh nghiệp có năng lực tài
chính hạn chế lại làm chủ 02 dự án đầu tư có trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
-
Theo báo cáo 2288/BC-TTCP ngày 17/9/2009, chủ đầu tư dự kiến thông tuyến vào
tháng 11/2009. Thực tế, đến nay (tháng 1/2013) đoạn đường do chủ đầu tư xây vẫn
chưa xong. Như vậy, chủ đầu tư đã báo cáo thiếu trung thực và cán bộ TTrCP được
giao nhiệm vụ đã quan liêu, không kiểm tra thực tế, báo cáo sai lệch tới Thủ
tướng Chính phủ.
-
Báo cáo 2288/BC-TTCP ngày 17/9/2009 có ghi nhận sự kiện cưỡng chế giải phóng
mặt bằng ngày 07/01/2009 đối với trên 200 hộ dân, dẫn đến khiếu kiện tập trung
đông người, phức tạp. Nhưng TTrCP đã không tìm hiểu và kết luận việc cưỡng chế
này có đúng pháp luật hay không. Thực tế, tỉnh Hưng Yên và huyện Văn Giang
không có văn bản quyết định cưỡng chế nào để thông báo tới những hộ dân liên
quan. Rõ ràng việc cưỡng chế không có quyết định hợp pháp là trái pháp luật,
TTrCP lẽ ra phải kết luận. Việc TTrCP không có kết luận dứt khoát đã dung
túng thái độ coi thường pháp luật từ nhiều cán bộ của chính quyền địa phương, gây
bức xúc trong nhân dân Văn Giang.
-
Sau ngày 24/04/2012, các hộ dân và các luật sư đã đề nghị TTrCP đối thoại, làm
rõ những vấn đề liên quan, trong đó có những vấn đề mới phát sinh nhưng đến nay
TTrCP vẫn chưa tổ chức đối thoại và cũng không có văn bản trả lời.
c,
Bộ TN-MT đã tổ chức đối thoại với các hộ dân, nhưng đều tìm cách né tránh, trả
lời những vấn đề cốt lõi của sự việc. Các hộ dân đã khiếu nại các văn bản số
14/TTr.BTNMT và Tờ trình số 99/TTr.BTNMT tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban
hành các quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg năm 2004, nhưng đến nay vẫn chưa
thấy Bộ TN-MT thụ lý, giải quyết.
Tóm
lại, chúng tôi chưa thấy cơ quan có thẩm quyền nào của Trung ương và địa phương
nghiêm chỉnh xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các hộ dân, đặc biệt sau
ngày 24/04/2012, mặc dù vào tháng 5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ
đạo các Bộ ngành phải xem xét, giải quyết và báo cáo công khai, và chúng tôi
cùng các hộ dân kiên trì gửi các kiến nghị đến những cơ quan này.
7, Những vấn đề các Bộ, ngành cần sáng tỏ để giúp
Ngài Thủ tướng và Chính phủ giải quyết.
Chúng
tôi đề nghị các Bộ, ngành theo thẩm quyền của mình làm rõ những vấn đề sau đây:
a,
Bộ TN-MT cần nêu rõ dựa vào những điều khoản nào của văn bản pháp luật nào, quy
hoạch nào (trong đó có quy hoạch sử dụng đất nào kèm theo bản đồ quy hoạch) đã
được phê duyệt hợp pháp để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết
định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg năm 2004.
b,
Bộ Tư pháp cần làm rõ quyết định 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg là văn bản quy
phạm pháp luật hay là quyết định hành chính? Nếu là văn bản quy phạm pháp luật,
nhưng không đăng công báo có hậu quả pháp lý như thế nào? Nếu là quyết định
hành chính, nhưng không ghi cụ thể đối tượng và vấn đề phải thi hành, không
giao cho các hộ dân, họ có nghĩa vụ phải thi hành không? Có hậu quả pháp lý như
thế nào? Thủ tướng Chính phủ ban hành 02 quyết định này có nội dung thuộc thẩm
quyền của Chính phủ (trong khi không có văn bản của Chính phủ giao nhiệm vụ cho
Thủ tướng) có phù hợp pháp luật tại thời điểm ban hành hay không? (Nếu phù hợp,
cần dẫn chứng cụ thể điều khoản nào, văn bản pháp luật nào có hiệu lực tại thời
điểm ban hành).
c,
VPCP cần làm rõ có Nghị quyết, Nghị định nào của Chính phủ giao cho Thủ tướng
Chính phủ quyết định nội dung 02 văn bản 303/QĐ-TTg và 742/QĐ-TTg hay không?
d,
TTrCP cần làm rõ tại sao không báo cáo cho Thủ tướng và Chính phủ việc các hộ
dân Văn Giang đang khiếu nại về thẩm quyền ban hành và nội dung 02 quyết định
nêu trên của Thủ tướng? Tại sao TTrCP không phát hiện chính quyền địa phương
huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên khi cưỡng chế thu hồi đất không có các quyết
định cưỡng chế theo đúng quy định của luật Đất đai?
e,
Bộ Công an cần làm rõ có việc huy động những lực lượng không thuộc địa phương
quản lý cho việc cưỡng chế (có thông qua người có thẩm quyền?), đã sử dụng pháo
nghiệp vụ (mà người dân đã thu được hàng trăm tang vật) có đúng quy định?
f,
Bộ Kế hoạch và Đầu Tư (Bộ KH&ĐT) làm rõ các Dự án liên quan đã làm đúng các
thủ tục theo quy định của pháp luật về thẩm định, phê duyệt Dự án? Tại sao
những đề xuất trong công văn số 3796/BKH/TĐ&GSĐT ngày 18/6/2004 không được
tỉnh Hưng Yên thực hiện.
g,
Bộ Tài chính cần làm rõ việc chỉ định chủ đầu tư (Vihajico) có đúng trình tự pháp
luật không? Việc giao cho Chủ đầu tư đất trong khi chủ đầu tư chưa hoàn thành
xong hạ tầng có đúng pháp luật không? Việc UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt Dự án
đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên (có giá trị trên 500 tỷ đồng)
không thông qua Hội đồng nhân dân có đúng pháp luật không?
h,
Bộ Giao thông vận tải (Bộ GT-VT) xác định Dự án đường giao thông liên tỉnh Hà
Nội – Hưng Yên có phải là dự án xây dựng đường Quốc lộ không? Bộ GT-VT đã có ý
kiến, phê duyệt về dự án này trước ngày 30/06/2004 không? Việc UBND tỉnh Hưng
Yên tự phê duyệt Dự án này có vượt quá thẩm quyền không?
i,
Bộ Xây dựng cần xác định Quy hoạch xây dựng khu đô thị thương mại – du lịch Văn
Giang ngày 25/03/2004 đã lấy ý kiến của HĐND và người dân huyện Văn Giang và
tỉnh Hưng Yên chưa? Nếu chưa lấy ý kiến, có phù hợp pháp luật không?
k,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cần làm rõ tình hình
hàng ngàn hộ dân bị thu hồi đất, việc làm, thu nhập, cuộc sống của họ bị ảnh
hưởng như thế nào, xác định một sào đất trồng cây cảnh tại Văn Giang hàng năm
sau khi trừ chi phí đem lại cho hộ dân thu nhập bao nhiêu? (Có đúng 50 triệu
đồng/năm, và nếu đúng như vậy, đương nhiên không ai có thể chấp nhận mức bồi
thường 50 triệu/sào để mất đất vĩnh viễn).
l,
UBND tỉnh Hưng Yên làm rõ vào các năm 2002, 2003 đã hướng dẫn, khuyến khích
nông dân Văn Giang chuyển đổi đất nông nghiệp từ trồng lúa sang trồng cây quả,
cảnh có giá trị cao không? Tại sao quyết định giao đất cho Vihajico, trong khi
chưa có quyết định thu hồi đất của các hộ dân và Vihajico chưa hoàn thành hạ
tầng? Giải thích tại sao cưỡng chế thu hồi đất của nông dân nhưng không có
quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai? Tại sao UBND
huyện Văn Giang không giải quyết các khiếu nại của các hộ dân?
8, Đề xuất hướng giải quyết.
a,
Chúng tôi tiếp tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ áp dụng Điều 8 Khoản 7 và Điều
20 Khoản 4 Luật Tổ chức Chính phủ thành lập một Ủy ban lâm thời (tổ chuyên gia)
để giải quyết những vấn đề liên quan đến Dự án Ecopark như Kiến nghị số 01 của
chúng tôi.
b,
Các cơ quan hữu quan cần khuyến khích và tạo điều kiện cho Vihajico
thương lượng trực tiếp với các hộ dân khiếu kiện để đạt được một phương
án có thể chấp nhận được. Chúng tôi đã tiếp xúc với lãnh đạo Vihajico, có vẻ họ
sẵn sàng chấp nhận thương lượng, nhưng lo ngại có một số người có ảnh hưởng
ngăn cản cách thức giải quyết này.
c,
Đề xuất của các hộ dân đang khiếu kiện, trong đó có những hộ dân có kinh nghiệm
trồng cây cảnh (Văn Giang có một số làng chuyên cây cảnh có truyền thống và nổi
tiếng ở miền Bắc), giữ lại khoảng 130ha đất để họ chuyên trồng cây cảnh trong
Dự án đô thị sinh thái Ecopark. Đây là đề xuất hợp lý và thiện chí của các hộ
dân, nếu chấp nhận sẽ giải quyết được toàn bộ những vấn đề của Dự án.
Các
xã Xuân Quan, Cửu Cao, Phụng Công huyện Văn Giang có lịch sử hàng nghìn năm.
Tên Phụng Công do Hai Bà Trưng đặt, để biết ơn những người dân đã che chở hai
Bà. Những xã trên có lịch sử oai hùng trong kháng chiến chống Pháp (chống càn)
và chống Mỹ (trận địa pháo phòng không). Những nông dân Văn Giang đã tin tưởng
theo Đảng cộng sản Việt Nam,
để người cày có ruộng. Họ có niềm tin Đảng và Nhà nước sẽ bảo đảm quyền
căn bản này của nông dân, không vì lợi ích của bất cứ nhóm người nào khiến
quyền căn bản của họ bị tước đoạt, và buộc họ phải khiếu kiện triền miên.
Chúng
tôi trân trọng đề nghị Ngài Thủ tướng và các cơ quan chức năng quan tâm đến
kiến nghị này và sớm giải quyết, để các hộ dân Văn Giang an tâm sống, làm việc
trên mảnh đất của mình.
Chúng
tôi xin đề nghị lãnh đạo các cơ quan chức năng bố trí lịch làm việc với chúng
tôi và đại diện các hộ dân để chúng tôi trình bày rõ hơn về nội dung sự việc và
nguyện vọng của các hộ dân.
Nhân
dịp đầu xuân, chúng tôi xin chúc các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các
Bộ, ngành sức khỏe và thành công trong năm mới.
Trân
trọng./.
Các
luật sư đang trợ giúp pháp lý cho những hộ dân bị thu hồi đất liên quan đến dự
án Ecopark – Văn Giang – Hưng Yên ký tên.
Địa chỉ
liên hệ: số 81 phố chùa Láng, phường
Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Điện thoại: 04 3775 4788.
Nơi gửi:
- Như
trên
- Đại
diện những hộ dân bị thu hồi đất tại Văn Giang – Hưng Yên yêu cầu luật sư trợ
giúp pháp lý.
Tài liệu kèm theo Kiến
nghị:
- Tên các văn bản pháp luật tham khảo.
- Các tài liệu liên quan đến Dự án Ecopark
- Những khiếu nại, tố cáo của các hộ dân
- Các kiến nghị và các văn bản của luật sư
- Những trao đổi của Luật sư, đại diện các hộ dân với BộTN-MT, với ông Đặng Hùng Võ và những tài liệu liên quan khác.
....
Toi hoan nghenh cach phan tich va kien nghi cua cac luat su tro giup phap ly cho nhan dan Van giang.
Trả lờiXóaToi tin tuong voi tinh than Doan ket,Dung cam va Kien tri cua nhan dan Van giang se duoc cac can bo,cac co quan chinh quyen giai quyet thoa dang dung voi luat phap,hop voi long dan.
Thực đáng kính phục các luật sư đang trợ giúp pháp lý cho người dân bị cưỡng chế đất ở Văn Giang. Các lý luận, dẫn chứng quá rõ ràng, đố ai còn cãi đường nào được! Nhưng tôi phục nhất là hướng giải quyết mà bản kiến nghị này đề xuất. Tôi nghĩ đó là một đề nghị rất thiện chí từ phía các luật sư và từ người dân Văn Giang.
Trả lờiXóaPhía những nông dân bị cướp đất, bị gây khó dễ, đe dọa, trù giập thời gian dài, và nhất là bị khủng bố trong trận càn 'long trời lở đất' ngày 24/4 năm ngoái, thiện chí của họ là quá lớn khi họ đồng ý với đề xuất này. Điều này một lần nữa chứng tỏ người dân Việt Nam mình rất hiếu hòa và đại độ, rất có tinh thần xây dựng.
Phía các luật sư, tôi nghĩ bản kiến nghị này không chỉ chứng tỏ các vị rất giỏi về chuyên môn, rất tận tụy với trách nhiệm, rất ngay thẳng và dũng cảm trong tinh thần thượng tôn luật pháp... mà hơn hết, các vị quả là những người thực lòng vì nước vì dân, đặt sự bình an và phát triển của toàn xã hội lên trên những quyền lợi cục bộ, ngay cả khi những quyền lợi đó là chính đáng! Kính phục các vị!
Tôi không phải dân Văn Giang và gia đình tôi cũng chưa bao giờ bị thu hồi đất.Nhưng tôi cũng mong các Ngài ở trên cao(ở đầu bản kiến nghị,nơi kính gửi),hãy một lần đưa mắt nhìn xuống,các Ngài chỉ cần phẩy tay một cái là dân đen Văn Giang sẽ bớt khổ.
Trả lờiXóaMong các luật sư hãy làm hết mình,để những thằng dân đen như chúng tôi còn chút hy vọng,còn cố ngoi ngóp để mong nhìn thấy tý chút công lý trong thời buổi trắng,đen lẫn lộn này.
Chấn Phong.
Rất cảm ơn các luật sư đã kiên trì đi đến chân lý để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà con nông dân 3 xã của Văn Giang bị chính quyền tỉnh Hưng yên dùng công an,quân đội,dân quân du kích...cưỡng đoạt ruộng đất của bà con một cách trái pháp luật.
Trả lờiXóaTôi đề nghị các luât sư trợ giúp pháp lý cùng bàn với bà con tiếp tục làm văn bản trưng cầu ý kiến lấy chữ ký của mọi từng lớp nhân dân trong và ngoài nước ủng hộ cho bà con gửi cho các cấp lãnh đạo của Việt nam yêu cầu phải xử lý triệt để đúng pháp luật.