Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

TƯỜNG THUẬT CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA BỘ TNMT VÀ BÀ CON VĂN GIANG - Phần II


TƯỜNG THUẬT CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VỚI NGƯỜI DÂN VĂN GIANG

Phần Hai
7. Tại sao tờ trình của UBND tỉnh Hưng Yên liên quan đến quyết định 303/QĐ – TTg không được Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên thông qua theo quy định của Luật Đất đai nhưng vẫn được Bộ TN–MT bỏ qua, không báo cáo cho Thủ tướng Chính phủ biết về thiếu sót này của UBND tỉnh Hưng Yên?
Ông Hiển cho rằng tất cả các dự án đổi đất lấy hạ tầng đều phải trình Chính phủ. UBND tỉnh Hưng Yên đã trình Thủ tướng và được Thủ tướng đồng ý. Chủ trương này phải được tỉnh ủy, HĐND thống nhất, hoặc thường vụ tỉnh ủy, thường trực HĐND và UBND tỉnh thông qua
Luật sư Hải đã đề nghị ông Hiển nêu rõ văn bản nghị quyết của HĐND tỉnh vì theo Luật Đất đai phải được HĐND tỉnh thông qua việc bổ sung, sửa đổi kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm trước khi trình Chính phủ.
Ông Hiển có viện dẫn Thông báo 435 ngày 05/12/2003 của thường vụ tỉnh Hưng Yên về triển khai chủ trương, có nêu đã được thường trực HĐND thông qua.
Luật sư Hải cho rằng, thường vụ tỉnh ủy không làm thay chức năng của HĐND, thường vụ Tỉnh ủy không có trách nhiệm phải báo cáo cho Bộ TN-MT và Bộ TN-MT không có quyền và nghĩa vụ xem xét văn bản của thường vụ Tỉnh ủy. Nếu không thấy HĐND tỉnh có nghị quyết phải yêu cầu địa phương thông qua HĐND tỉnh trước khi trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Yêu cầu Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
8. Dựa trên dự án khả thi nào đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (theo Điều 22 khoản 2 điểm a Luật Đất đai 1993 được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001), Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 742/QĐ-TTg?
Ông Hiển có viện dẫn 02 văn bản của UBND tỉnh Hưng Yên là QĐ 1430/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án xây dựng hạ tầng KĐT Văn Giang và QĐ 1431/QĐ-UB ngày 25/06/2004 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội.
Luật sư Hải: Thủ tướng không thể căn cứ 02 dự án do Tỉnh Hưng Yên phê duyệt để ra quyết định giao đất. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản 3796 ngày 18/06/2004 đã khẳng định 02 dự án xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nêu trên cần hoàn thiện thủ tục để trình Thủ tướng cho phép đầu tư. Tại thời điểm Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, Bộ đã chỉ ra cần xem xét năng lực tài chính của Chủ đầu tư (tại thời điểm đó vốn điều lệ của chủ đầu tư không quá 70 tỷ đồng), và nhiều điểm khác mà Chủ đầu tư chưa đáp ứng. Đến thời điểm 30/6/2004, chưa thấy có dự án khả thi nào của Chủ đầu tư được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định cho phép đầu tư theo quy định của pháp luật. Dự án đường giao thông liên tỉnh (nối thị xã Hưng Yên – Hà Nội) là dự án xây đường quốc lộ, theo quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ GTVT, chưa thấy ý kiến của Bộ GTVT về dự án này. Quy hoạch giao thông đường bộ toàn quốc đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định 162/2002/QĐ-TTg  ngày 15/11/2012 và Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 được UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt ngày 29/12/1999 (đã được Bộ GTVT cho ý kiến) đều không thấy nêu đường nối cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên, tức dự án đường đường bộ  trên trái quy hoạch và chưa được Bộ GTVT thẩm định.
Ông Hiển cho rằng Thủ tướng đã cho phép tỉnh Hưng Yên phê duyệt các dự án trên (tức ủy quyền cho phê duyệt dự án) theo công văn ngày 31/10/2003 của Thủ tướng (do Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký). UBND tỉnh đã lấy ý kiến của các Bộ ngành liên quan như Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ TN-MT. Bộ KH&ĐT chỉ là một ý kiến tham khảo, nhưng không phủ định được quyết định của Thủ tướng.
Luật sư Hải khẳng định, Thủ tướng cho phép Hưng Yên, nhưng phải làm theo quy định của pháp luật. Bộ KH&ĐT cơ quan có chuyên môn cao nhất về thẩm định các dự án đã  xác  định dự án trình lên chưa đủ khả thi. Dự án đường giao thông trái quy hoạch, cũng là trái pháp luật. UBND tỉnh không được tự ý quyết định những dự án quan trọng này, trái các quy định của pháp luật. Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
9. Tại sao trong quyết định giao đất 742/QĐ-TTg không ghi rõ tên, địa chỉ người hoặc đơn vị được giao đất mà lại ghi chung chung là chủ đầu tư và giao cho UBND tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư tức người được giao đất, thực chất là ủy quyền cho cấp dưới lựa chọn người được giao đất? Phải chăng Bộ TN-MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định trái điều 25 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) “Cơ quan có thẩm quyền giao đất… không được ủy quyền cho cấp dưới”?
Ông Hiển nhắc lại  Thủ tướng đã ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt dự án tại công văn số 1495/CP-NN ngày 31/10/2003. UBND tỉnh đã phê duyệt dự án ghi rõ Chủ đầu tư là công ty CP đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng. Trong quyết định của Thủ tướng ghi chủ đầu tư tức Công ty Việt Hưng này.
Luật sư Hải cho biết quyết định của Thủ tướng không ghi tên và địa chỉ của công ty Việt Hưng. Tờ trình Thủ tướng của UBND tỉnh Hưng Yên ngày 28/06/2004 có tiêu đề về việc thu hồi đất, giao cho (i) công ty Cổ phần và phát triển đô thị Việt Hưng  để xây dựng (ii) hạ tầng kỹ thuật KDT thương mại – du lịch Văn Giang và (iii) tuyến đường giao thông liên tỉnh Hưng Yên – Hà Nội (đoạn từ huyện Văn Giang đến xã Dân Tiến – Khoái Châu). Tuy nhiên, quyết định của Thủ tướng trong nội dung không ghi chấp nhận nội dung (i) và (ii) của Tờ trình trên của tỉnh Hưng Yên, chỉ đề cập đến nội dung (iii), tức không phải chấp nhận toàn bộ đề nghị của tỉnh Hưng Yên trong Tờ trình. Và tại mục 1 Điều 2 giao cho tỉnh Hưng Yên lựa chọn và quyết định Chủ đầu tư, tức ủy quyền cho UBND tỉnh Hưng Yên giao đất cho Chủ đầu tư, trái Điều 25 Luật đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001) đã viện dẫn trên. Bộ TN-MT phải chịu trách nhiệm về việc đã tham mưu trái luật cho Thủ tướng Chính phủ.
Luật sư Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
10. Quyết định 742/QĐ- TTg đồng thời là quyết định thu hồi đất. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết trường hợp thu hồi đất này được áp dụng theo điều khoản nào của Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi, bổ sung những năm 1998, 2001)?
Ông Hiển: Căn cứ vào khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai đã được sửa đổi năm 2001; Điều 21, Điều 28 Luật Đất đai 1993.
Ông Sơn (người dân Văn Giang) : về nguyên tắc, phải thu hồi đất rồi mới giao, vậy Thủ tướng căn cứ vào đâu để giao đất?
Luật sư Hải: Ông  Hiển đã nhầm lẫn khi viện dẫn về thẩm quyền thu hồi đất. Chúng tôi yêu cầu ông làm rõ trường hợp thu hồi đất được áp dụng theo quy định nào của Luật đất đai 1993 ( áp dụng theo điều 26  hay điều 27 Luật đất đai và thuộc trường hợp nào trong các điều luật này?).  Luật sư Hải loại trừ áp dụng điều 26 (vì các trường hợp này không thuộc trường hợp của dự án KĐT Văn Giang), loại trừ trường hợp dự án phục vụ quốc phòng, an ninh theo Điều 27, chỉ còn trường hợp vì lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng.
Ông Hiển đã viện dẫn Nghị định 22/1998 ngày 24/4/1998 (Điều 1 khoản 2) và đưa ra quan điểm của cá nhân ông về dự án này là cả lợi ích quốc gia lẫn lợi ích công cộng. Về thắc mắc của ông Sơn, ông Hiển cho biết việc quyết định thu hồì đất đồng thời với quyết định giao đất có thể được quy định trong một văn bản.
LS Hải khẳng định không thể có lợi ích quốc gia trong dự án này. Còn lợi ích công cộng, Điều 58 Luật đất đai 1993 có quy định về đất sử dụng vào mục đích công cộng và trích dẫn điều luật này, không có trường hợp như trường hợp dự án KĐT Văn Giang.
Ông Hiển cho biết: Dự án này là dự án đổi đất lấy hạ tầng, đây là lợi ích công cộng. Trên một góc độ nào đó, lợi ích công cộng cũng là lợi ích quốc gia. Lợi ích công cộng khác với mục đích công cộng.
LS Hải đề nghị Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản vấn đề này.
11. Hiện những hộ dân vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) liên quan đến nhà đất bị thu hồi. Vậy giấy tờ này có giá trị không? Tại sao không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân? (Đề nghị trích rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển dẫn chiếu theo điểm e, mục 4, chương 4 Thông tư số 1990/2001 ngày 30/11/2001, giấy CNQSDĐ đã cấp cho diện tích đất đã bị thu hồi thì không còn giá trị.
Luật sư Hải:  Quy định trên không còn hiệu lực từ 01/07/2004 (thời điểm Luật đất đai mới có hiệu lực) và việc thu hồi đất trên thực tế diễn ra sau ngày này. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết văn bản nào quy định để giải quyết những trường hợp chuyển tiếp giữa 02 luật Đất đai mới và cũ. Đề nghị trích rõ điều khoản nào quy định không cần giao quyết định thu hồi đất cho từng người dân.
Ông Hiển: Chỉ Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định 181 mới quy định có quyết định thu hồi đất cho từng người sử dụng đất, còn Luật đất đai 1993 không nói rõ quy định này.
Ông Sơn: Cần phải hiểu Điều 21 và Điều 28 Luật Đất đai 1993 (được sửa đổi bổ sung những năm 1998, 2001) đã quy định QĐ thu hồi đất phải ghi rõ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Ông Sơn cho biết trong một cuộc đối thoại với Thanh tra Nhà nước, Ông Lê Tiến Hào – Phó Tổng thanh tra có nói với bà con (chúng tôi có ghi âm): “Đây là kết luận của Thanh tra, ruộng vẫn làm, sổ đỏ vẫn có trong tay bà con, bà con không nhận tiền, ruộng vẫn thuộc bà con”.
Ông Hiển: Ông Hào nói thế nào chúng tôi không biết, Thông tư 01 ngày 13/4/2005  đã hướng dẫn việc này, ông đọc một quy định trong Thông tư này.
LS Hải: Thông tư này không nói đến vấn đề thu hồi đất mà không cần có QĐ thu hồi đất cho từng người sử dụng đất. Dự án đổi đất lấy hạ tầng được coi là 1 dạng đầu tư có nguồn vốn từ ngân sách, nên không thuộc điều chỉnh của đoạn ông Hiển vừa đọc (chỉ áp dụng đối với dự án không có nguồn vốn ngân sách).
Bà Đỗ Thị Dơi : Việc thu hồi đất ngay cả cán bộ xã đến năm 2006 cũng không biết, chúng tôi xin đề nghị ông sao văn bản trả lời cho chúng tôi.
Ông Hiển đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản.
12. Đề nghị Bộ TN-MT cho biết việc cưỡng chế thu hồi đất đai và hỗ trợ thi công của tỉnh Hưng Yên tại Văn Giang có đúng quy định của Luật Đất đai không? (Nếu đúng, ghi rõ điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng).
Ông Hiển nói việc cưỡng chế thu hồi đất và áp dụng biện pháp hỗ trợ thi công là việc của tỉnh Hưng Yên chứ không phải của Bộ TN-MT. Luật đất đai không hướng dẫn trình tự, thủ tục cưỡng chế mà phải theo luật khác. Ông Hiển còn cho biết, trước khi có vụ cưỡng chế này, Thủ tướng Chính phủ (cụ thể Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) đã có thông báo kết luận, sau khi họp với các ban ngành trung ương và tỉnh Hưng Yên. Nếu bà con có khiếu nại gì về việc cưỡng chế thu hồi đất và hỗ trợ thi công thì thực hiện thủ tục khiếu nại tại Tòa án, tôi biết bà con cũng đang có khiếu nại tại Tòa. Hiện nay Thủ tướng đang giao cho Tổng thanh tra xem xét vấn đề này.
Luật sư Hà Huy Sơn cho biết các quyết định cưỡng chế không phải là quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo Luật đất đai, mà là cưỡng chế thực hiện quyết định xử phạt hành chính ( tức cưỡng chế phạt tiền, nếu có).
Luật sư Hải: Ông Hiển đã cho biết, các ban ngành đã họp, tức Bộ TN-MT đã tham gia tham mưu cho Chính phủ và địa phương, sau đó đã kiểm tra lại việc thực hiện ở địa phương nên phải biết rõ việc này, phải có chính kiến đúng sai, không thể nước đôi. Bộ TN-MT quản lý các vấn đề đất đai trên toàn quốc, trong đó có việc thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất, các nông dân mất đất đang chăm chú theo dõi quan điểm của Bộ TN-MT, vì vậy Bộ TN-MT cần tỏ thái độ dứt khoát.
Ông Đàm Văn Đồng (người dân Văn Giang) đã đưa một nội dung báo chí trong đó đăng ông Bộ trưởng Bộ TN-MT đã cử Thứ trưởng đi kiểm tra, nhưng không gặp người dân Văn Giang, song vẫn nói việc cưỡng chế, thu hồi đất là đúng. Ông Đồng đã lên tận bàn chủ tọa đưa tài liệu này cho ông Hiển.
Buổi đối thoại kéo dài đến 12h30’. Mặc dù vẫn còn rất nhiều vấn đề cần làm rõ, bà con vẫn còn muốn đối thoại tiếp, nhưng luật sư Hải đã khuyên bà con tôn trọng thỏa thuận, tôn trọng Bộ TN-MT, những vấn đề thắc mắc sẽ kiến nghị bằng văn bản tới Bộ TN-MT, ông Hiển cũng đồng ý sẽ trả lời bằng văn bản tất cả những thắc mắc của luật sư cũng như của bà con Văn Giang.
Ông Hiển khẳng định sẽ cố gắng đáp ứng được lợi ích chính đáng của bà con nông dân Văn Giang, cho rằng buổi đối thoại này sẽ giúp ích cho Bộ TN-MT trong việc tham mưu cho Nhà nước những vấn đề liên quan đến đất đai, đặc biệt sắp tới Luật đất đai sẽ được sửa đổi toàn diện.
Sau đây là nhận xét chung của luật sư Trần Vũ Hải:
a- Đáng tiếc ông Bộ trưởng Bộ TN-MT đã không thực hiện cam kết trực tiếp đối thoại với người dân Văn Giang.
b-Bộ TN-MT  tỏ ra không chắc về mặt pháp lý nên không dám đưa ra văn bản phản hồi 12 nội dung kiến nghị của luật sư và bà con Văn Giang
c- Ghi nhận sự thiện chí của ông Thứ trưởng Bộ TN-MT trong việc điều hành buổi đối thoại và lắng nghe các ý kiến của luật sư và đại diện những hộ dân Văn Giang.
d-Tuy nhiên, ông Thứ trưởng đã lúng túng, có thể mới nhận nhiệm vụ về quản lý đất đai, nên chưa nắm chắc các văn bản cũ và mới về Luật đất đai.
Về những vấn đề cơ bản của buổi đối thoại:
(i) Thẩm quyền của Thủ tướng hay của Chính phủ trong việc quyết định những nội dung liên quan đến các quyết định 303/QĐ-TTg và quyết định 742/QĐ-TTg của năm 2004. Bộ TN-MT đã rõ ràng sai khi đưa ra một văn bản năm 2000 có nội dung không còn hiệu lực vào thời điểm đầu năm 2004 để biện minh Thủ tướng có thẩm quyền ra những quyết định này. Luật sư Trần Vũ Hải đã chứng minh có văn bản khác trong năm 2001 đã sửa đổi nội dung trên, quy định rõ thẩm quyền thuộc Chính phủ (không thuộc thẩm quyền của Thủ tướng như quy định trước đây).
(ii) Về 02 dự án liên quan: rõ ràng 02 dự án (dự án KĐT Văn Giang và dự án đường bộ Hà Nội – Hưng Yên)  này không được coi là những dự án khả thi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật đất đai. Hai dự án này trái với những quy hoạch về đất đai và giao thông đã được duyệt trước đó.
(iii) Việc không có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân là rõ ràng vi phạm quyền sử dụng đất của người dân theo Hiến pháp và Luật đất đai, dẫn đến đương nhiên việc cưỡng chế thu hồi đất của huyện Văn Giang và tỉnh Hưng Yên là trái pháp luật vì không thể cưỡng chế công dân thực hiện một quyết định mà họ không được ghi tên là đối tượng phải thực hiện và không nhận được quyết định đó.
Các hộ dân đề nghị VPLS Trần Vũ Hải các bước tiếp theo:
  1. Yêu cầu Bộ TN-MT trả lời bằng văn bản, nếu cần thiết tổ chức buổi đối thoại trong diện hẹp, nhưng cần công khai, có mặt báo chí.
  2. Do Bộ TN-MT cho biết, Thanh tra Chính phủ đang thụ lý vụ việc nên cần tiếp tục buổi đối thoại với Tổng Thanh tra
  3. Do vụ việc liên quan đến nhiều ngành, nên cần tiếp tục yêu cầu Văn phòng Chính phủ tổ chức đối thoại giữa các hộ dân Văn Giang với các ngành liên quan để làm rõ các vấn đề liên quan đến từng ngành.
Các hộ dân hi vọng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ sẽ giải quyết dứt điểm vụ việc này, tránh các hộ dân tiếp tục bức xúc, khiếu kiện lên Quốc hội và Trung ương Đảng, khiến tình hình sẽ phức tạp thêm.
Phóng viên tự do ghi nhận từ trụ sở Bộ TN-MT vào ngày 21.08.2012

2 nhận xét :

  1. kiễu cán bộ này hế thuốc chữa rồi .Chĩ thương cho Dân ta NGÀY CÀNG ĐÔNG ĐÃO trong thành phần dân oan .

    Trả lờiXóa
  2. HÌnh ảnh thu âm đâu quăng lên cho bà con thưởng lãm!

    Trả lờiXóa