Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT LÊN TIẾNG VỀ "CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG"

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011)

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

 
Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. 

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
 
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
 
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
 
 
Bức Công hàm ngày 14-9-1958 của
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”...

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

Nhóm PV Biển Đông

42 nhận xét :

  1. Rất hoan nghênh những gì ĐĐK đang làm. Hy vọng loạt hơn 30 bài của tòa soạn sẽ không bị đục bỏ một đoạn nào và ko bị gỡ. Với những việc phức tạp và lớn, mỗi viên gạch xây lên dù bé nhưng rất đáng trân trọng để chúng ta sớm có một cái nhà đẹp.
    Xin hỏi pác Diện, chủ nhật này chúng ta tiếp tục lên đường nữa ko ah?

    Trả lờiXóa
  2. Tại sao báo ĐĐK mạnh dạn "lên tiếng về công hàm Phạm Văn Đồng" trong khi các báo chuyên chống diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch như báo Nhân dân,Quân đội nhân dân,Công an nhân dân thì vẫn im re,không dám ho he!!!

    Trả lờiXóa
  3. Một bài phân tích rất toàn diện. Hoan hô các bác Quỹ Nghiên cứu Biển đông!
    Chắc các bác đang chuẩn bị bản tiếng Anh?!

    Trả lờiXóa
  4. Bác Phạm Văn Đồng người con ưu tú của dân tộc đâu dễ bị mắc lừa. Bác ứng xử như vậy là rất đúng đắn.
    Cần có nhiều bài như thế này trên các trang báo chính thống.

    Trả lờiXóa
  5. Tờ Nhân Dân nên học hỏi Tờ Đại Đoàn Kết về kiến thức Biển Đông mà viết bài ,chứ đừng giấu dốt hay e ngại gì cả ,dốt thì phải học thế thôi!

    Trả lờiXóa
  6. Việt nam chẳng có ý kiến gì cả mà cứ luôn tuyên bố Trường sa của Việt nam, thua cả Trung quốc? http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/31276/tq--noi-doa--voi-chuyen-nghi-si-philippines-tham-truong-sa.html

    Trả lờiXóa
  7. bao tuoi tre hay thanh nien len dang lai bai nay.

    Trả lờiXóa
  8. Đây cũng là câu trả lời cho một trong những kiến nghị của các vị trí thức. Hoan nghênh Nhà nước đã có thêm những bước đi tích cực.

    Trả lờiXóa
  9. Bài phân tích hoàn toàn chính xác về bản chất của bức công hàm năm 1958. Phía Trung Quốc gần đây viện dẫn bức công hàm này như một điểm yếu của Việt Nam. Nếu chúng ta né tránh vấn đề này chẳng khác nào chúng ta cũng coi đây là điều bất lợi. Tôi đề nghị phải có nhiều bài phân tích tương tự công bố rọng khắp để chứng minh rằng: Trung quốc nhiều lần tuyên bố lãnh hải của họ rộng 12 hải lý chứ không phải là vùng nước phía trong đường lưỡi bò. Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, đồng nghĩa với việc phủ nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc.

    Trả lờiXóa
  10. Nội dung công hàm của Ông Phạm Văn Đồng đã được công bố, phần nào đã giải đáp những ngờ vực, thắc mắc trong dân luận. Có thể chủ ý của Ông Phạm Văn Đồng là ủng hộ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung quốc trong bối cảnh cùng là đồng minh chống Mỹ, nhưng sai lầm lớn nhất của Ông Phạm Văn Đồng là đã quá tin vào "Đồng chí" Trung cộng mà tạo cơ hội cho Trung quốc lấy làm bằng chứng công nhận Hoàng sa và Trường Sa là của mình. Một số người cho rằng công hàm của Ông Phạm Văn Đồng là "Bán nước", nhưng tôi nghĩ Ông không có ý đó, và trong nội dung của công hàm cũng không nói đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Ai cũng biết Trung quốc dùng mọi thủ đoạn để thôn tính, cho dù những bằng chứng của họ không có giá trị về pháp lý như "Cái lưỡi bò" chẳng hạn.

    Trả lờiXóa
  11. Nào, xin mời các nhơn sỹ cho ý kiến, mời mời !

    Trả lờiXóa
  12. Cuộc chiến pháp lý giữa Việt Nam và TQ đã bắt đầu!. Đây có thể coi là phản ứng đầu tiên của Việt Nam đối với luận điệu của TQ? Như vậy là đã bắt đầu hé mở!

    Trả lờiXóa
  13. "Cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm văn Đồng không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm và đã trả giá trong bàn đàm phán Geneve năm 1954, khi bàn về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nhưng kinh nghiệm ấy cũng không ngăn ông được khi giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc vì Việt Nam đã tạo nên ấn tượng rằng Việt Nam đã tự nguyện chấp nhận những hy sinh vì lợi ích của đường lối chung về “cùng tồn tại hòa bình” đang thịnh hành trong thế giới xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ".

    Trả lờiXóa
  14. Đã lâu rồi mới thấy mội bài báo hay và đúng như thế này trên mặt báo Lề phải. Phần lớn thông tin nếu không muốn nói là toàn bộ không có gì mới vì đã tồn tại trên các blog nhiều năm nay. Cái đáng ca ngợi là lần đầu tiên ĐK dám đề cập tới vấn đề nhạy cảm. Hy vọng các báo khác học tập làm theo như ND, QD, ANTG...
    Đã thấy có xu hướng mới trong cách tiếp cận vấn đề Biển Đông hộ với lòng dân. Hy vọng bài không bị dỡ bỏ.
    Một lần nữa xin cám ơn quý Báo đã nói hộ lòng dân.
    TB: Đề nghị TDN nên quay lại báo ĐĐK. Mãnh vườn cũ của anh đã coa dấu hiệu hồi sinh.

    Trả lờiXóa
  15. Mong Đảng và Nhà nước ta phải thật sự vì dân, tin dân. Những trí thức yêu nước họ không hề thuộc phe phải nào, tất cả việc làm của họ là vì nhân dân và tổ quốc.

    Trả lờiXóa
  16. Bài này cần phải bổ sung văn kiện phản đối của Bộ Ngoại Giao chính phủ VNCH về chủ quyền của mình với 2 quần đảo HS và TS, khi TQ ra tuyên bố sai trái ngày 04/09/1958 !

    Trả lờiXóa
  17. Công hàm của ông Phạm Văn Đồng rỏ ràng không phải là hành động bán nước, nhưng cho thấy một sự mơ hồ (hay ngây thơ!) trong quan hệ với TQ của chính phủ VNDCCH!

    Trả lờiXóa
  18. Hiện tại chúng ta chưa đủ lực để giành lại Hoàng sa bằng biện pháp quân sự nhưng chúng ta hoàn toàn có thể mở 1 cuộc chiến pháp lý về chủ quyền biển đảo. Chờ đợi, im lặng, lẩn tránh như vậy là quá đủ rồi. Hoan hô báo Đại đoàn kết! Các tờ báo khác nên noi gương báo Đại đoàn kết. Cướp ,giết ,hiếp , lộ hàng lải nhải mãi mà không biết ngượng mồm à?

    Trả lờiXóa
  19. Dịch sang tiếng Tàu đi bác Diện ơi!

    Trả lờiXóa
  20. Đây là bài viết hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay để khẳng định Công hàm 1958 của TT PV Đồng hoàn toàn không phủ định quyền toàn vẹn lãnh thổ đối với 2 quần đảo HS và TS như lập luận từ phía TQ từ trước đến nay, mặt khác các dẫn chứng từ các Hội nghị quốc tế mà liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, bao gồm 2 quần đảo nói trên theo trình tự lịch sử hết sức thuyết phục cũng như trên thực tế kiểm soát và quá trình tranh chấp ở 2 quần đảo trên. Nên xem đây như một văn kiện mà các cơ quan tuyên truyền cũng như cơ quan hữu trách của nhà nước lấy làm cơ sở thực hiện, tranh đấu cũng như tài phán về mặt luật pháp.
    Ngoài ra còn rất nhiều cơ sở pháp lí và lịch sử khác chứng minh, ví dụ Hiệp ước Pháp- Thanh, Công hàm Pháp- Thanh, Sắc lệnh triều đình v/v cử người trông giữ...Thực tiễn hải chiến Hoàng Sa 1974, cuộc cướp các đảo thuộc TS 1988...phải công khai truyền thông để ND trong nước và quốc tế thấy rõ âm mưu của TQ không chỉ thôn tính 2 quần đảo HS, TS mà cả Biển Đông nằm trong đường Lưỡi Bò- 9 đoạn của họ.
    .........
    Khâm Kính

    Trả lờiXóa
  21. Bài viết rất xuất sắc: Đan bện chặt chẽ thực tại lịch sử, thực tiễn chính trị và cơ sở pháp lý để vừa đập tan luận điệu ngụy biện của Trung Quốc, vừa bẻ gãy tuyên truyền nối giáo cho giặc của các thành phần "chống Cọng" cuồng tín hải ngoại, vừa làm sáng tỏ được hành xữ yêu nước của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
    Yêu cầu phổ biến tối đa bài viết nầy.

    Trả lờiXóa
  22. Cái thời điểm ấy chắc chắn các lãnh đạo nhà ta cũng vắt óc ghê gớm lắm mới có một công hàm như thế! Cái lỗi của chúng ta là thông tin bị bưng bít, cái công hàm này tôi đọc lâu lắm rồi, từ ngày tôi chưa được bổ túc (tính đến trước ngày tham gia hiên trà nhà b. Diện) kiến thức về biển đông. Công hàm bị lạm dụng va xuyên tạc quá thể! Chúng ta quá bị động, dân hiểu sai, giờ nước sôi lửa bóng mới tạm có chút chính danh!
    Kiến nghị của các nhân sỹ trí thức một phần là muốn công chúng hiểu rõ hơn về công hàm này. Tuy nhiên, thái độ , quan điểm chính trị của Đảng, Nhà nước ta cần phải được thể hiện hơn nữa, trên mức báo Đại Đoàn kết. Như thế mới hết nhẽ những yêu cầu mà các nhân sỹ, trí thức thay mặt đông đảo quần chúng nhân dân kiến nghị lên các cơ quan nhà nước.

    Trả lờiXóa
  23. Báo Đại Đoàn Kết xứng đàng là tiếng nói của nhân dân. Báo Quân đội nhân dân và báo Nhân dân tự diễn biến hết rồi. Trong khi cả nước hướng về biển đảo, Trường Sa và Hoàng Sa thì họ cố tình đánh lạc hướng dư luận vào những "thế lực thù địch" mơ hồ, vô hình, và nhiều khi do họ tự nghĩ ra.

    Trả lờiXóa
  24. Nào, nhà nước ta hãy tiếp tục tung ra những đòn phản công lại những đòi hỏi ngang trái tham lam, hiểm độc của chính quyền Bắc Kinh. Chúng tôi, những người dân Việt Nam yêu nước chân chính sẽ luôn bên cạnh và chiến đấu cùng các ông .
    Toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng nhất !!

    Trả lờiXóa
  25. Đừng bàn những chuyện lăn tăn
    Nếu anh ngay thẳng sợ gì kẻ gian
    Nói cho Trung Quốc biết rằng
    Công hàm đó chẳng làm căng được gì.

    Trả lờiXóa
  26. Nếu phải học tập Đại đoàn kết thì đầu tiên phải là TTXVN

    Trả lờiXóa
  27. Bài phân tích ngắn gọn, diễn đạt rõ ràng. Chúng ta cần có các phiên bản bài này bằng các ngôn ngữ thông dụng trên thế giới. Rất cần sự góp tay của các bác am hiểm ngôn ngữ pháp luật và luật quốc tế !
    Xin cảm ơn báo Đại đoàn kết và TS. Nguyễn Xuân Diện đã đăng bài phân tích này !

    Trả lờiXóa
  28. Bà con ơi!
    Chúng ta hãy ủng hộ báo ĐĐK và bất kỳ báo nào có tấm lòng với nhân dân-đất nước bằng cách hãy mua, xem và vận động mua nhiều các báo này hàng ngày.Tôi đã mua 10 tờ ĐĐK gửi biếu bên nội , bên ngoại rồi.

    Trả lờiXóa
  29. Hoan hô báo Đại đoàn kết!
    Các tờ báo khác của Đảng, Nhà nước nên noi gương Đại đoàn kết!
    Hoàng sa - Trường sa là của Việt Nam!

    Trả lờiXóa
  30. Khi ông Đinh Đức Lập lên làm TBT Báo Đại Đoàn Kết, một số người hoài nghi về vị này. Nhưng qua lọat bài về Biển Đông, TS- HS, và đăng ý kiến về cần ghi công - vinh danh chiến sỹ VNCH hy sinh tại Hoàng Sa 1974, tôi thấy ông Lập thể hiện bản lãnh hơn hẳn nhiều vị Tổng Biên tập khác.
    Chúng ta cần hết sức ủng hộ cho vị Tổng Biên tập và BBT báo này vì việc làm đáp ứng lòng dân của Báo ĐĐK.
    Mong rằng các báo có đông độc giả như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, SGTT và nhất là báo " lớn" như Nhân Dân, QĐND, SàiGòn Giải phóng đăng lại bài này ( xin vì lợi ích Quốc gia mà bỏ đi tự ái vặt )

    Trả lờiXóa
  31. TuanVietNam.net cũng đã đăng rồi các bác ơi. Mong rằng sẽ như mư mọc sau nấm

    Trả lờiXóa
  32. Hy vọng sau bài báo nay, CP và BNG sẽ công khai bản thoả thuận ông Hồ Xuân Sơn ký với TQ vào cuối tháng 6 vừa qua. Nhưng cũng đừng có vội mơ!

    Trả lờiXóa
  33. Tuyệt vời Đại Đoàn Kết.Sau loạt bài này,tôi thực lòng cầu chúc Đại đoàn kết tìm lại được vị thế ngày xưa và phát triển hơn cả ngày xưa. Nhưng phải nhớ giữ vững tinh thần thế này nhé.

    Trả lờiXóa
  34. Báo Vietnamnet cũng đã đăng tải lại bài báo này:
    http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-07-20-cong-ham-1958-voi-chu-quyen-hoang-sa-va-truong-sa-cua-viet-nam

    Trả lờiXóa
  35. Phải chăng "Hạt thị" được nhả ra rồi!
    Muộn dù sao cũng còn hơn không.
    Tiếp tục sẽ thế nào đây?

    Trả lờiXóa
  36. Đồng tình với quan điểm của bài viết và rất đồng tình với quan điểm công hàm của TT Phạm Văn Đồng không hề có ý từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều người nói công hàm này chứng tỏ chính quyền VNDCCH đã từ bỏ hai quần đảo này là hoàn toàn sai trai, và vô tình đã cổ vũ và ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến pháp lý cam go bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.

    Trả lờiXóa
  37. Đại Đoàn Kết là lính tiên phong đi dò đường.Xe tăng đại bác còn nấp sau đống rơm đợi lệnh.

    Trả lờiXóa
  38. ĐĐK đúng là tiếng nói trí tuệ của dân tộc. Qua đây tôi càng thấu hiểu hơn về Bác PVĐ, Bác thật sự xứng đáng với sứ mệnh của dân tộc trong hoàn cảnh ấy. Cần phải tặng thưởng danh hiệu gì đó thật xứng đáng cho tác giả và Tổng biên tập báo ĐĐK, hơn nữa nên tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân được biết bài báo này, kể cả những người không biết đọc thì cử tuyên giáo viên đọc cho mà nghe mới được. Tôi cũng mong ngày mai, ngày mốt ... hay ngày mốt nữa... một nguyên thủ nước ta nói như vậy trên truyền hình VTV

    Trả lờiXóa
  39. Bọn TQ giả vờ ngu ngốc để lừa dư luận thôi, thực ra Chu Ân Lai lúc đó đã bị PVĐ qua mặt với cái gọi là công hàm này mà không làm gì được.

    Trả lờiXóa
  40. Nội dung quan trọng nhất của công hàm này là "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa". Vậy thiết tưởng cũng nên đăng lại toàn văn cái "bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa" thì mới gọi là rộng đường dư luận. Vì chỉ có như vậy thì nhân dân mới biết Đảng và nhà nước ta đã "tán thành và đồng ý" cái gì.

    Trả lờiXóa
  41. http://bee.net.vn/channel/1983/201107/Van-de-Bien-dong-Phai-giup-nhieu-nguoi-Trung-Quoc-tinh-ngo-1806208/
    Bài viết về Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng được nhà nghiên cứu Trung Quốc Dương Danh Dy rất quan tâm. Ông cho biết, vừa qua ông đã sưu tâm được thêm một tư liệu rất thú vị:

    “Đó là một bài báo đăng trên Nhân dân Nhật báo, cơ quan chính thức của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1953. Bài báo năm đó viết rõ ràng là Quần đảo Senkaku (theo cách gọi của Nhật Bản) hay quần đảo Điếu Ngư (theo cách gọi của Trung Quốc) là thuộc lãnh thổ Nhật Bản. Có thể hiểu, vì muốn lôi kéo Nhật Bản chống Mỹ nên Trung Quốc đã viết như vậy. Nhưng bây giờ, vì lợi ích của mình, Trung Quốc đã tuyên bố đảo Senkaku (hay đảo Điều Ngư) thuộc lãnh thổ của họ. Tôi sẽ công bố toàn văn bài báo vào một thời điểm thích hợp”.

    Trả lờiXóa
  42. Chứng cớ Hoàng Sa. Năm 1974 các đảo Hoàng Sa là do Việt Nam CỘng Hòa chiếm giữ. TQ có chứng minh được VNCH đã chiếm của TQ không? Không đâu. TQ là nước thường bóp méo sự thật sao cho có lợi cho mình. Người Việt cần làm sáng tỏ chân lý đó.
    Việc thừa nhận lãnh hải 12 hải lý thì có gì lạ? Chúng ta đừng mắc mưu TQ khi họ muốn đưa lãnh hải của Việt Nam thành vùng tranh chấp. CHúng ta không mắc lừa TQ khi họ muốn thỏa thuận "gạt bỏ bất đồng, cùng khai thác". Hãy thử đến Bắc Kinh để cùng khai thác xem họ có đồng ý không.

    Trả lờiXóa