Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

HỒ GƯƠM - ĐỀN NGỌC SƠN VÀ HỘI HƯỚNG THIỆN

 
 HỘI HƯỚNG THIỆN VÀ ĐỀN NGỌC SƠN
TẢO TRANG

1. Nhân một câu đối trong đền.

Đền Ngọc Sơn là một trong những di tích khan hiếm tập trung nhiều câu đối có giá trị văn học cao. Có một câu đối trong đền được nhiều người nhắc tới, và cũng có người thắc mắc về nội dung:

Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

(Gươm báu muôn ngàn vàng ẩn náu dưới nước thu,
Lòng băng tuyết một tấm ấp ủ trong bình ngọc).

Câu trên ghi lại sự tích gươm vàng do Lê Lợi hoàn lại cho rùa thần dưới hồ, rất hợp với đền Ngọc Sơn đặt giữa hồ Hoàn Kiếm. Câu sau lấy ở bài thơ tứ tuyệt của Vương Xương Linh đời Đường (Phù Dung lâu tống Tân Tiệm), có hai câu cuối: "Lạc Dương thân hữu như tương vấn, Nhất phiến băng tâm tại Ngọc hồ = Bạn thiết Lạc Dương như có thăm hỏi, bình ngọc vẫn nguyên tấm lòng tuyết băng". Một số người cho rằng vế sau của câu đối không liên can gì đến đền Ngọc Sơn, cũng như với mọi đền miếu nói chung. Nhưng thực ra câu đối này, với vế sau tưởng như vu vơ lại có một giá trị lịch sử nhất định, nó ghi lại phần nào quá trình hình thành đền Ngọc Sơn. Theo bài văn do Tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trên bia dựng năm 1847 (hiện còn tại đền), tại nơi đây, tương truyền là đài câu cá cuối triều Lê. Về sau, một nhà từ thiện là Tín Trai, nhân có miếu Quan Đế cũ, mới mở rộng sửa sang thành ngôi chùa Ngọc Sơn. Khoảng đầu triều Thiệu Trị (1840-1847), các con ông Tín Trai đã nhượng chùa cho Hội hướng thiện, một hội vốn do những người trong khoa mục thành lập, thờ thần Văn Xương (coi về văn học), lúc ấy chưa có đền. Hội đã dỡ bỏ gác chuông chùa, thành lập đền "Ngọc Sơn Đế Quân", bắt đầu xây dựng từ mùa đông năm 1841, đến mùa thu năm 1842 thì hoàn thành. Bài văn viết ở đoạn kết: "Cảnh như thế không trơ trọi. Nếu cố gắng làm điều lành, thần linh sẽ chứng giám". "Làm điều lành" là mục đích Hội hướng thiện. Có làm điều lành mới có được tâm hồn thanh cao trong sạch, "Một tấm lòng băng tuyết trong bình ngọc". Vế sau của câu đối Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ chính nhắc nhở mục tiêu sáng lập ra ngôi đền của hội.

Không chỉ sáng lập đền, hội hướng thiện còn giữ vai trò chủ chốt trong việc bảo quản, tu tạo các công trình kiến trúc và cảnh quan, tổ chức hoạt động nhiều mặt, khiến đền Ngọc Sơn trở thành một di tích danh thắng bậc nhất ở trung tâm Thủ đô.

2. Hội hướng thiện, hội hướng về thực hiện điều tốt lành.

Hội hướng thiện, do những nhà trong khoa mục thành lập, là hội các nhà Nho. Bài văn bia trùng tu miếu Văn Xương, khắc năm 1865 của án sát Đặng Lương Hiên, tức Đặng Huy Tá (1817-1873) có mấy câu: "Miếu thờ Văn Xương... để dạy mọi người làm điều thiện mà thôi. Nhưng người ta làm điều thiện, không gì thiết yếu bằng ngăn lòng dục của người, bảo tồn lẽ phải của trời, chẳng cầu phúc mà phúc tự nó đến. Lời dạy của đạo Nho ta, sáng chói trong kinh sách, còn cần gì thêm". Bài văn bia đề cao đạo Nho, coi như phận vụ hàng đầu là làm điều thiện. "Vi thiện tối lạc = Làm việc thiện là điều vui hơn hết" là một cổ ngữ thường được nhắc tới giữa các nhà Nho. Hội hướng thiện từ khi có trụ sở ở đền Ngọc Sơn, nhiều khi còn được gọi là Phả Ngọc Sơn, Hội trưởng được gọi là Phả trưởng. Hai vị Hội trưởng (hay Phả trưởng để phân biệt với các hội khác) đầu tiên là hai nhà Nho có uy tín bậc nhất thời bấy giờ: Vũ Tông Phan (1800 - 1851), Tiến sĩ, Đốc học về hưu, mở trường Hồ Đình bên Hồ Gươm; Nguyễn Văn Siêu (1796 - 1872), Phó bảng, án sát về hưu, mở trường Phương Đình ở giáp Giang Nguyên (phố Nguyễn Văn Siêu hiện nay), cách Hồ Gươm không xa. Cả hai đều là những nhà giáo dục nổi tiếng đương thời, sách Khoa bảng lục ghi hai trường trên, học trò nhiều người thành đạt. Với hai vị Hội trưởng danh Nho đầu tiên, Hội hướng thiện đã có những hoạt động sôi nổi theo đúng tên gọi - hướng về những điều tốt lành, và không ngừng tiếp tục đi theo con đường sáng đẹp đó ở những giai đoạn tiếp sau.

Hội chủ yếu thờ thần Văn Xương, vị thần giữ sổ tước lộc cõi trần, nên nhiều học trò thường đến lễ, nhất là trước khi đi thi, cầu xin được trợ giúp việc đỗ đạt. Hội tin ở "Văn Xương Đế Quân", nhưng không quên nhắc nhở những người đến lễ: muốn được thần giúp, đầu tiên phải tự mình "hướng thiện", làm điều lành, không chỉ học giỏi, mà đồng thời phải trau dồi đạo đức. Vào đền Ngọc Sơn, câu đối được thấy ban đầu sau hai cột trông ra đường đã thuyết minh điều này:

Nhân gian văn tự vô quyền, toàn bằng âm đức;
Thiên thượng chủ tư hữu nhãn, đãn khán đan điền.

(Ở cõi đời người, chữ nghĩa không có quyền, toàn dựa vào âm đức;
Trên cõi trời, chủ khảo có mắt, chỉ nhìn xét tấm lòng son).

"Chủ khảo trên trời" chỉ thần Văn Xương, giữ sổ tước lộc cõi trần, khi cho ai đỗ, chỉ dựa vào việc xem xét "tấm lòng son" của họ, có thực tốt lành không. ("âm đức" chỉ việc tốt được làm không có ý phô trương, không có hoặc ít người biết, hoặc việc tốt của cha mẹ tổ tiên, khiến con cháu được hưởng điều hạnh phúc)... Như vậy, muốn được thần phù hộ cho thi đỗ, đức hạnh của người đi thi có tác dụng chủ chốt, hơn cả tài văn học ("chữ nghĩa không quyền").

Một hoạt động cụ thể mang ý nghĩa tích cực của các Hội viên Hội hướng thiện là tham gia nhóm "công quá". "Công" chỉ thành tích làm điều tốt, kể cả ý nghĩ và sự việc cụ thể. "Quá" là những điều lỗi lầm, trái với "công". "Công quá" có thể dịch gọn là "công và tội". "Tăng công bớt tội", "làm điều thiện tránh bỏ điều ác", là mục đích của việc tu thân, công việc này của nhóm "công quá" trong Hội hướng thiện "được tiến hành với sự tin tưởng vào sự hỗ trợ chứng giám của thần linh", tập hợp thành một nhóm gọi là "Thiện đàn" hay "Thiện đường". ở giá sách viện Hán Nôm có một cuốn Công quá cách hiệu biên, in tại đền Ngọc Sơn năm l903, cho thấy việc thực hành phép tu thân này. Sách chủ yếu tập hợp những bài "giáng bút" của một số danh nhân, được coi như dù đã khuất, vẫn để tâm giáo dục người đời, khuyến thiện, trừ ác. Đây là những nhân vật lịch sử Trung Quốc, được tôn xưng là "Tam Thánh": Văn Đế tức Văn Xương, tên thật là Trương á Tử, đời Tấn (265 - 419); Võ Đế tức Quan Vũ đời Tam Quốc (168 -265); Lã Tổ tức Lã Động Tân, đời Đường (618-906). Ngoài ra có cả bài giáng bút của Trần Hưng Đạo, của Phạm Ngũ Lão, và của Hưng Vũ Vương, con Trần Hưng Đạo (người viết chưa xác định được tên thật, và là anh hay em của Trần Quốc Tảng). Ngay ở trang đầu, bài giáng bút của Hán Thọ Đình hầu Quan Công cho biết: "Đền Ngọc Sơn của đất Thăng Long nước Việt, trong đó có Tập Thiện đường" "nhà Tập Thiện". Nhà để làm gì ? Cốt để cho các người trong Hội thực hành cách thức tu theo "công quá". Nhà này Văn Thánh làm chủ, Lã Tiên (chỉ Lã Động Tân) phù trợ, năm trước ban cho tên nhà, năm nay ban cho sách Hiệu công quá cách (cách thức xác định công tội).

Sách đưa ra những bảng kê khá đầy đủ, với nhiều chi tiết, đánh giá công và tội bằng những con số cụ thể, như cho điểm các sự việc (dĩ nhiên nếu là tội thì điểm sẽ trừ vào điểm công, như danh từ hiện nay gọi điểm tội là "điểm âm". Thí dụ: thờ bố mẹ hết sức kính trọng, chăm nom đầy đủ việc ăn uống, mỗi ngày là 1 công. Thờ đúng phép kế mẫu thứ mẫu (vợ lẽ của cha), ông chú bà chú, ông bác bà bác ruột, tính công gấp đôi (đối với các vị sau, thông thường ít coi trọng nên cần đôn đốc); khuyên người thân sửa lỗi làm điều lành, mỗi việc: 10 công; nếu người thân phạm tới luân thường, mình nhiều lần can gián khiến cảm hóa hối cải : 100 công (tr.39a). Trái lại, thờ bố mẹ không kính trọng, dù có phụng dưỡng, mỗi ngày l tội (nhất quá) (bảo đảm ăn uống nhưng thiếu lòng kính yêu). Đối với kế mẫu tội như trên, đối với thứ mẫu, chú bác ruột (cả ông, bà), tội giảm một nửa. Tài sản giữ riêng cho mình, tranh giành nhiều ít, khiến người thân phẫn nộ, mỗi việc 100 tội (tr.47a) Mấy thí dụ khác: ăn chay, một ngày: 3 công; gặp chuyện trái ý vẫn bình tĩnh đối phó: việc nhỏ 1 công, việc lớn 10 công; bị phụ nữ không đứng đắn dụ dỗ, vẫn giữ được dạ ngay thẳng không nhiễm dâm ô: 300 công (tr 45a); về tội ngờ cha mẹ, yêu chuộng không công bằng rồi sinh oán hận: l000 tội (71b); riêng giữ chặt ý mình, không nghe người nói: l0 tội đến l00 tội (tr.72a). Ngoài ra, còn có mục "công tội người làm quan" (tr.79a-83a).

Hội viên trong nhóm "công quá" có nhiệm vụ tự kiểm điểm hàng ngày, lập bảng kê công tội, nếu thấy kết quả công thắng tội thì tự hào và quyết tâm phát huy, nếu thấy kết quả ngược lại thì tự răn và quyết tâm sửa chữa. Các hội viên - cũng gọi là "đàn viên"- để phân biệt với những người không ở trong nhóm "công quá" - ghi sổ hàng ngày, và thường kỳ, vào ngày rằm mồng một trong tháng, tới bàn thờ Tam thánh (tại nhà riêng hay tại đền) tường trình việc đã làm, tỏ rõ quyết tâm tiến bộ, xin được sự chứng giám và hỗ trợ của thần linh (bằng tờ sớ hay bằng lời khấn miệng).

Cách tu bằng việc tự xét "công quá", dựa theo sách Công quá cách hiệu biên, gồm chủ yếu những bài văn "giáng bút". Cũng nhiều người cho loại văn này thuộc mê tín dị đoan, nhưng không thể phủ nhận tác dụng của chúng trong việc khuyến thiện, vì đã được lòng người chấp nhận, vì thấy những điều dạy phù hợp với đạo lý làm người, thêm lòng tin tưởng ở những sức mạnh huyền bí đã phán truyền, chứng giám và thưởng phạt tuỳ theo công tội. Đó chưa kể đến sức hấp dẫn của lời văn, đối với những hội viên phần lớn là những nhà Nho học. Đơn cử một số câu thơ giáng bút (phụ lục ở cuối sách) "huấn" (răn dạy) cho từng cá nhân. "Huấn" Bùi Ngọc Giáp ("Giáp": tên ngọc): Lương ngọc tu trác, vụ tại tòng sư (âm đúng: si). Tinh thần dạ tịnh, quả dục tự y (Ngọc tốt cần mài, Cốt biết theo thầy, Đêm khuya tĩnh lặng, ít dục vọng, tự sửa mình) (tr.I34a). "Huấn" Trần Quang Phụ: Sơn thâm thủy trường, Bảo tại hà phương, Ngã vi nhất chỉ, Tâm thị thiện hương (Núi thẳm sông dài, Của báu nơi nao, Ta chỉ một chỗ: Thiện tại lòng mình) (tr.I35a). Hay "huấn" Đào Huống Mai: Mai sắc thị mĩ, Tài chi hữu địa, Thả hữu bàng tâm, Hối khủng vị dĩ (Sắc mai đã đẹp, Trồng đúng chỗ rồi, Nếu có dạ khác, Sợ hối chưa thôi) (tr.I35a). Những câu thơ trên lời dịch chưa thật chỉnh và chưa lột được hết ý tứ, nhất là rất có thể có những hoàn cảnh cụ thể của người xin thơ không được ghi lại. Dù sao, thiết nghĩ những câu thơ "huấn thị" vẫn có thể coi là những lời khuyên tu thân xử thế có hình tượng văn học, và có giá trị ứng dụng phổ biến.

3. Hội hướng thiện và thời cục

Hiện chưa xác định được thời điểm thành lập Hội hướng thiện, nhưng có điều chắc chắn là chỉ sau năm 1842, khi xây dựng xong trụ sở mới là đền Văn Xương, tức đền Ngọc Sơn thay thế chùa Ngọc Sơn, Hội mới thật có khí thế tác động đến đời sống văn hóa Hà Nội. Hội đã có liên tiếp hai vị cầm đầu là hai nhà văn học lớn, đồng thời là hai bậc thầy gương mẫu. Tiến sĩ Vũ Tông Phan với trường Hồ Đình, Phó bảng Nguyễn Văn Siêu với trường Phương Đình, hai trường nổi tiếng, được ghi trong sách Khoa bảng lục, với thành tích đào tạo được nhiều học trò thành đạt. Trường Hồ Đình - cũng gọi là trường Tự Tháp - nằm sát bờ phía Tây Hồ Gươm, còn trường Phương Đình ở phía đông, cách hồ không xa mấy. Chung quanh hồ, còn có hai trường khác lừng danh không kém tuy sau ít năm, trường Vũ Thạch (đầu phố Bà Triệu của Cử nhân Nguyễn Huy Đức, trường Kim Cổ ở phố Hàng Gai của Cử nhân Ngô Văn Dạng. Học trò những trường này, phần lớn không thể không đến đền Ngọc Sơn, như đã được viết trong văn bia Vũ Tông Phan: "Kẻ sĩ phu kết bạn với nhau yêu cảnh này, vì mến tên hồ này mà việc tu dưỡng du ngoạn nghỉ ngơi đều có nơi chốn" (bản dịch trong Tuyển tập Văn bia H., Q.2, Nxb. KHXH, l978 tr.69). Có thể nói sau khi Gia Long dời Quốc tử giám vào kinh đô mới Phú Xuân, khu vực Quốc tử giám cũ, nay chỉ còn là Văn miếu, không còn là nơi tụ tập các Nho sĩ tham gia các cuộc bình văn hay theo học trường cao cấp nhất của cả nước. Trung tâm hoạt động tinh thần này có thể nói đã chuyển tới khu vực Hồ Gươm, với những trường học nổi tiếng, và đền Ngọc Sơn, trụ sở của Hội hướng thiện.


Trong những năm đen tối của thời kỳ Pháp thống trị, sau khi Hà Nội trở thành thuộc địa của Pháp năm 1885 tách khỏi hẳn sự cai trị của triều đình Huế, việc quản lý Văn miếu trao cho quan lại tỉnh Hà Đông, đền Ngọc Sơn với Hội hướng thiện càng tỏ rõ là một trung tâm tập hợp giới Nho sĩ có nhiệt huyết, luôn quan tâm đến thời cục. Dân gian còn truyền cho nhau bài vè được gọi là "Vụ đền Ngọc Sơn" vào tháng 3 năm Bính Ngọ (1906). Hồi này có bệnh dịch hạch hoành hành, rất nhiều người bị chết. Thực dân Pháp sợ cả bọn chúng cũng bị lây, nên đã thi hành những biện pháp tàn bạo, người bị bệnh nặng chưa chết cũng đẩy lên xe đưa đi chôn, đốt cả giường nằm và đồ đạc người bị bệnh. Một cá nhân khiếu nại đến tòa Đốc lý, không có kết quả. Được sự đồng ý của Hội hướng thiện tức Hội phả đền Ngọc Sơn, dân chúng đã tụ tập tại đền bàn cách làm đơn gửi tòa Đốc lý, nếu cần lên cả Thống sứ, Toàn quyền để đạt hiệu quả. Bọn Pháp biết tin đã huy động cảnh binh đến vây bắt, nhiều người sợ hãi nhảy cả xuống hồ tìm kế thoát thân. Một bài vè dài tới 11 câu đã ghi lại sự kiện này, và được truyền đi rộng rãi (X. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội in lần 2, l972, Hội Văn nghệ Hà Nội, tr.64-75). Trong bài có những câu cho thấy sự tham gia của Hội phả:

... Bỗng một phút thấy uy Pháp tới,
Vây trong ngoài bổ lưới bốn bên.
Hai mươi người chủ hội viên,
Thiện nam tín nữ đảo điên rụng rời...

"Hai mươi người chủ hội viên" tức cả ban chấp hành cùng hội viên Hội phả đều tham gia buổi họp và bị khủng bố.

Cũng vào thời kỳ này, tại đền Ngọc Sơn và tại nhiều đền khác ở Hà Nội cũng như ở tỉnh khác, có phong trào "phù kê", cầu thần linh giáng bút. Những bài thơ cầu được là của "Tam thánh" (Võ Đế, Văn Đế, Lã Tổ), và cả những vĩ nhân Việt Nam được thần thánh hóa như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Liễu Hạnh v.v. nói chung khuyên làm điều thiện, giữ vững luân thường, đồng thời cũng "dạy bảo" tinh thần yêu nước thương nòi, nhất là trong các bài của các "thần-danh nhân đất Việt". Bọn Pháp rất thính, đã đánh hơi thấy phong trào, và tìm mọi cách ngăn chặn. Một thông tư "mật" (confidentiel) của Thống sứ Bắc kỳ gửi Công sứ các tỉnh ra chỉ thị phải lưu ý "đến những tổ chức tuyên truyền rất lợi hại bị chiếm lĩnh bởi những người cầm đầu đảng chống Pháp", yêu cầu cho biết về các đền miếu địa phương, danh sách những sách in được gọi dưới tên chung là "thiện thư".


Cũng trong hồ sơ này, có tờ "ghi chú" (note), nói tới đền Ngọc Sơn, Quán Thánh (Grand Bouddha), (với những hội) có sáng lập viên là Trần Lưu Huệ, Nguyễn Thượng Hiền hay Đào Nguyên Phổ, Cử Can (tức Lương Văn Can), kèm tên các hội viên (ông đồ Tam áng, Lang Chuyên...) với quỹ nhiều chục triệu đồng (Hồ sơ số 4472- Archives centrales de L'Indochine - Mairie de Hanoi = Cục Lưu trữ trung ương Đông Dương - Thị chính Hà Nội) (Tư liệu này được xem và ghi lại vào năm 1963, người viết sơ suất không ghi cụ thể nơi giữ, không nhớ rõ là Cục Lưu trữ Trung ương hay Thư viện Khoa học Xã hội Hà Nội). Như vậy, bọn Pháp cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của những '"thiện thư", những bài thơ giáng bút, ngoài nội dung khuyên làm điều lành, tránh điều dữ, còn động viên lòng yêu nước, kêu gọi đồng bào đoàn kết, thương yêu lẫn nhau, là điều mà bọn thực dân sợ nhất... Chúng không dám công khai cấm in hay tịch thu những sách này (tuy cũng có những nơi những lúc bọn cầm quyền không ngại ngang nhiên thực hiện điều trên). Nhưng mặt khác, chúng tìm cách ngăn chặn, cho cảnh binh tới bắt người đang tiến hành việc "cầu cơ", xin giáng bút. Nhà thơ Đào Khê Ngô Ngọc Du còn để lại một bài tứ tuyệt chữ Hán về chuyện một người (chắc hẳn là có học, một "Nho sĩ") đang được Thánh Quan (Quan Vũ) nhập vào để cho thơ tại đền Ngọc Sơn, thì bị cảnh binh bắt đưa về đồn (chắc là đồn Hàng Trống), và bắt nộp phạt năm hào để được thả:

Thánh Đế vô đoan diệc tọa lao,
Pháp tù lễ ý bất như Tào.
Quá quan trảm tướng uy hà tại,
Nhẫn khí tùy nhân nạp ngũ mao.

(Thánh quan vô cớ phải ngồi lao,
Bọn Pháp hung hăng chẳng giống Tào.
Chém tướng quá quan oai chẳng thấy,
Theo người nuốt giận nộp năm hào).

Bài thơ nhắc tích Quan Vũ (Quan Vân Trường) thời Tam Quốc, có lần bị Tào Tháo bao vây, để bảo vệ an toàn cho hai chị dâu (vợ Lưu Bị), nên đành chịu hàng với điều kiện "Hàng Hán bất hàng Tào" và được Tào Tháo kính phục đối xử rất trọng thể, khi rời bỏ Tào Tháo về với Lưu Bị, đã chém giết năm tướng giỏi của quân Tào ở quan ải ra chặn đường. Bài thơ giọng trào phúng chứng tỏ thái độ của một số nhà nho khá đông thường chê việc "ngồi đồng" xin thơ thánh. Nhưng nó cũng đánh dấu một thời kỳ mà ngay chính nhiều nhà nho cũng đã lợi dụng việc làm này để cổ vũ tinh thần dân tộc dưới dạng hoạt động tôn giáo.

4. Hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật

Hội hướng thiện là hội các nhà nho chú trọng hàng đầu tới đạo lý, nhưng cũng không quên kết hợp với văn hóa văn nghệ. Nho giáo phân biệt "chất" và "văn". "Chất" có nghĩa "thuần phác, chân thực", chỉ tâm hồn đạo đức bên trong. "Văn" có nghĩa "vẻ đẹp", chỉ vẻ đẹp của thái độ vui sống, phóng khoáng, của cách cư xử hoà nhã thanh lịch. Sách Luận ngữ (thiên Ung dã) có câu: "Chất thắng văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử. Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử = Chất trội hơn văn thành quê kệch, văn trội hơn chất thành hào nhoáng. Cả chất lẫn văn đều hoàn mỹ, sau đó mới là quân tử". ở Hội hướng thiện, về "chất" tức trau dồi đạo lý, về "văn" tức hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Mặt thứ hai này thể hiện ở mấy khía cạnh: in sách và bảo quản ván in, yêu thiên nhiên và làm đẹp thiên nhiên, sáng tác văn học.

a. In sách và bảo quản ván in.

Dưới chế độ phong kiến, có thể nói một chức năng quan trọng của một nơi được coi như trung tâm văn hoá, là in ấn, và tàng trữ những ván khắc để sẵn sàng in lại nếu cần. Khi Quốc tử giám ở Thăng Long bị dời vào Phú Xuân, kho ván in đã chuyển vào trong đó. Với cách thức in thời trước, không thể biết được số lượng cụ thể những ấn phẩm đã được lưu hành. Việc đánh giá hoạt động văn hóa của một cơ sở về mặt này, chỉ bằng vào số lượng và nội dung các ván in còn lưu trữ tại nơi đó. Hội hướng thiện tại đền Ngọc Sơn từng khắc ván, in sách lưu trữ các ván in, góp phần phổ biến sách Hán Nôm, phần lớn là sách chữ Hán. Năm 1966, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã cho kiểm kê các ván in còn giữ tại đền, với một số nhỏ tại chùa Liên Phái. Theo báo cáo kết quả việc kiểm kê ngày 14-4-1966 của phòng Bảo tồn - Bảo tàng của Sở, phụ trách công việc này, kèm theo danh sách các ván in có phân loại tại đền Ngọc Sơn, thấy nổi bật mấy điểm:

- Về số lượng: 1156 ván in.

- Về nội dung: phần lớn thuộc những sách có tính cách tôn giáo, kinh khuyến thiện, kinh giáng bút (với những bài huy động tinh thần yêu nước như đã nói ở phần trên), những sách về Phật giáo, Đạo giáo. Dĩ nhiên có nhiều bộ ván về các "kinh" thuộc Tam Thánh là ba vị được thờ ở đền như Văn Đế toàn thư, Quan Đế bảo huấn (Võ Đế), Lã Tổ toàn thư (Những sách này hiện có trong Thư mục Viện Hán Nôm in năm 1993, nhưng cũng có sách không có trong thư mục, như Tam giáo tâm pháp 154 ván. Về mặt nghệ thuật, có nhiều ván khắc có tranh minh họa, ở những tác phẩm như Tứ thập bát hiếu thi họa của Đặng Huy Trứ, Cảm ứng thiên, Kim cương kinh nhân quả... Về chữ viết, có Ma nhai kỷ công văn, gồm những ván khắc bài văn với nét chữ thảo của Nguyễn Trung Ngạn, ghi chiến công năm 1333 của Trần Minh Tông đánh thắng Ai Lao. Đặc biệt, về văn học lịch sử, có mấy tác phẩm nổi tiếng còn đủ bộ ván in, như Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Phượng Sơn từ chí lược của Nguyễn Thu (sách này tư liệu khá đầy đủ về Chu Văn An: tiểu sử, thơ, đền thờ, văn thơ ca ngợi sự nghiệp), Khán Sơn đình thi tập, Trữ nguyệt đường của Đặng Huy Tá (1816-1872). Có khá nhiều ván khắc những tác phẩm văn học của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu như Phương Đình văn loại, Phương Đình tùy bút, Anh ngôn tập, Vạn lý tập, rất tiếc thiếu một số ván, không thật đủ bộ. Có cả một cuốn về ngôn ngữ học Đại Nam quốc ngữ của Nguyễn Văn San.

Trong phần kết luận của bản báo cáo trên, có đoạn viết: "Việc kiểm kê và sơ bộ phân loại những ván in của đền Ngọc Sơn đã cung cấp cho cơ quan Bảo tồn - Bảo tàng Hà Nội những hiện vật gốc rất có giá trị để tìm hiểu nhận định về truyền thống văn học và đời sống văn hóa tư tưởng của nhân dân thủ đô Hà Nội vào khoảng đầu triều Nguyễn và thời kỳ Pháp thuộc, nhất là ở giai đoạn đầu. Riêng đối với đền Ngọc Sơn, việc kiểm kê này đã làm nổi bật địa vị đặc biệt của di tích này trong hoạt động văn hóa và trào lưu tư tưởng của Hà Nội ở vào thời kỳ trên. 

Rõ ràng kho ván in nói trên là một chứng tích minh bạch về vai trò trung tâm văn hóa của Hà Nội trước đây. Và được như vậy, là do công sức của Hội hướng thiện (Hội phả đền).

b. Thú thưởng ngoạn và xây dựng.

Trong bài văn bia về đền Ngọc Sơn của Tiến sĩ Vũ Tông Phan đã nói ở trên, phần cuối có lời nhắc nhở: "... Kẻ sĩ phu... vì mến tên hồ mà yêu phong cảnh, việc tu dưỡng du ngoạn nghỉ ngơi trong Hội, nay đều có nơi chốn. Hứng vui ngắm trăng dưới nước, hóng gió trên non có thể giúp nhiều cho lòng thiện của riêng mình". Như vậy lòng thiện sẽ được tăng cường, khi có thêm sự thanh cao của tâm hồn do thú thưởng ngoạn thiên nhiên, đúng với lý tưởng "văn chất bân bân" của người quân tử. Chính thú thưởng ngoạn đã là nguồn cảm hứng cho sáng tác văn học. Hội hướng thiện có hai vị Hội trưởng đầu tiên đều để lại những tác phẩm nói về cảnh đẹp của đền ở Hồ Gươm. Vũ Tông Phan có Kiếm Hồ thập vịnh. Nguyễn Văn Siêu từng viết bài Ký về Hồ Gươm, và không ít bài thơ về đề tài này rải rác trong các thi tập của ông.

Thú thưỏng ngoạn đã tăng thêm gấp bội, khi dưới thời nhà thơ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu làm Hội trưởng, đã được tiến hành trùng tu đền Ngọc Sơn để có quy mô tráng lệ như ta thấy hiện nay. Phong cảnh thiên nhiên được kết hợp hài hòa với công trình nhân tạo. Những bộ phận kiến trúc với những tên gọi đầy gợi cảm: cầu Thê Húc (nơi đậu ánh sáng ban mai), Tháp Bút với tựa đề "Tả thanh thiên " (viết lên trời xanh), Đài Nghiên với bài minh trong đó có câu "làm tỏ rõ vẻ đẹp cảnh và người, bao hàm khí tốt lành của trời đất" (thổ văn vật, hàm nguyên khí), Lầu Đắc nguyệt (thâu tóm ánh trăng) Đình Trấn Ba (chắn sóng, ý nói chắn sóng dữ phá hoại sự thanh bình). Văn bia Đặng Tá, trùng tu miếu Văn Xương cũng như sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của Doãn Kế Thiện, về việc trùng tu đền chỉ nói tới công của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, nhưng chắc chắn không thể thiếu sự tham gia đắc lực của Hội hướng thiện (mà ông là Hội trưởng), trong công cuộc huy động việc quyên góp, hay đôn đốc việc thi công.

c. Hoạt động sáng tác văn học.

Về mặt này, Hội hướng thiện có thể tự hào, coi như một truyền thống tốt đẹp. Không kể hai vị Hội trưởng đầu tiên nổi tiếng trên văn đàn, một Hội trưởng kế tiếp là Nguyễn Trọng Hợp, cũng được nhiều người biết đến không kém, với những bộ sách Kim Giang thi tập, Kim Giang văn tập và nhiều tác phẩm khác. Ngoài ra, thành viên của Hội đa số là những nhà trí thức, những cuộc hội họp xướng họa thi ca là chuyện thường tình. Xin ghi lại mấy bài còn ở trong trí nhớ nhiều người. Bài của Lê Đại (1875 -l951), nhà chí sĩ trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục, từng bị đày Côn Đảo, nhà văn và cũng là nhà bút thiếp nổi tiếng, tên hiệu là Từ Long:
Mây ám Thành Rồng trận gió tan,
Trời quang lại thấy mặt giang san.
Mặt hồ chẳng cạn, gươm còn đó,
Đá núi y nguyên, ngọc vẫn toàn.
Cung điện sửa sang nơi phụng sự,
Lâu đài tô điểm nét du quan.
Ai người mến cảnh dừng chân lại,
Ngắm cảnh Bồng Lai dưới thế gian.

Mấy chục năm sau, cũng về đề tài Hồ Gươm đền Ngọc, Cụ Lê Hào, một cây bút cứng của tổ thơ trong Hội, viết:

Dâu bể bao lần đất cố đô,
Hồ Gươm phong cảnh vẫn còn xưa.
Một bầu non nước ngôi đền Ngọc,
Bốn mặt tang thương ngọn tháp Rùa.
Thưởng gió tự do chiều nắng hạ,
Nhớ trời cách mạng sáng mùa thu.
Trăng khuya sóng nước in hình kiếm,
Nhớ kiếm thần trao chiến thắng Ngô.

Bài thơ viết năm 1971 cho thấy niềm phấn khởi của một nhà Nho cao tuổi dưới chế độ mới. Một bài khác cũng phản ánh tâm trạng tương tự, nhưng về đề tài khác, chào mừng chiến thắng của quân dân Thủ đô chống cuộc tập kích của không quân Hoa Kỳ năm 1966, bài thơ 4 câu của cụ Vũ Bội Hoàn từng giữ chức Hội trưởng Hội hướng thiện: 

Năm trước ngựa xanh xua giặc Pháp,
Năm nay ngựa đỏ thắng Hoa Kỳ.
Một đàn lang sói thi nhau cút
Sông Nhị rồng vàng lại hiện phi.

Bài thơ 4 câu, câu nào cũng có 1 hay 2 con vật: "ngựa xanh", "ngựa đỏ" chỉ 2 năm Ngọ (năm Ngọ là năm ngựa). "ngựa xanh" chỉ năm Giáp Ngọ, "Ngựa đỏ" chỉ năm Bính Ngọ, vì theo thuyết ngũ hành, "giáp" thuộc "mộc" màu xanh, 'bính" thuộc "hỏa" màu đỏ. Giáp Ngọ là năm 1954, năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bính Ngọ là năm 1966, năm Hà Nội bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. "Sông Nhị rồng vàng" nhắc tới tích thuyền ngự của Lý Công uẩn, khi tới sông Cái bên thành Đại La để đặt Kinh đô mới, thì có rồng vàng xuất hiện, do đó mới có tên "Thăng Long".

5. Một điển hình về bảo vệ di tích

Dĩ nhiên, trong suốt thời gian dài hàng thế kỷ, Hội hướng thiện - Hội phả đền Ngọc Sơn, bên cạnh những việc làm đáng khích lệ trình bày ở trên, không khỏi có những khuyết điểm, đặc biệt về mặt tín ngưỡng đã dẫn đến mê tín dị đoan, chiều theo thị hiếu của quần chúng ít hiểu biết. Tuy nhiên, phải nhận rằng phần thành tích là chủ yếu, trong việc gìn giữ sửa sang, bảo đảm hoạt động thường xuyên của đền, xứng đáng một nơi thờ tự trang nghiêm, được đông đảo khách thập phương tới hành hương thăm viếng, một di tích danh thắng mang nhiều ý nghĩa bậc nhất của Thủ đô.

Theo đường lối của Nhà nước ta trong việc bảo vệ và phát huy tác dụng các di tích danh thắng, có vai trò quan trọng của "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" nói trong Thông tư số 206 - VH/TT của Bộ Văn hóa, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 14-LCT ngày 4-4-1984 của Hội đồng Nhà nước, và Nghị định số 288 ngày 31-12-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về "bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh". Về mặt này, có thể nói hiếm có một di tích danh thắng nào trong nứơc, lại có được một "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" có lịch sử lâu đời, gắn bó mật thiết với di tích, bảo vệ tôn tạo và phát huy tác dụng đạt được những thành quả rực rỡ như Hội hướng thiện (Hội phả) của đền Ngọc Sơn.

Mong sao ở thời kỳ hiện nay, dưới một dạng thích hợp với công cuộc đổi mới, đền Ngọc Sơn sẽ được tiếp tục và đẩy mạnh những hoạt động trước đây, đem lại cho ngôi đền một vị trí xứng đáng hơn nữa. Có thể có một phòng trưng bày phong phú, đầy sức hấp dẫn, với những ván in các tác phẩm quý, những sách được in từ những ván khắc, tiểu sử và tác phẩm của những Hội trưởng - và cả những hội viên tiêu biểu từ trước đến nay.
Hà Nội có thể tự hào có đền Ngọc Sơn trên Hồ Gươm, một di tích danh thắng hiếm thấy ở một Thủ đô nào khác, vì ở ngay giữa trung tâm thành phố, kết hợp được vẻ đẹp thiên nhiên với kiến trúc cổ kính hài hòa, với ý nghĩa sâu sắc, thêm tính huyền thoại về truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm, kèm theo tín ngưỡng dân gian, ý thức tôn trọng đạo lý, thú thưởng thức những câu đối với nét chữ điêu luyện, nội dung sâu sắc, rung động tâm hồn. Những nét đẹp trên gắn liền với công sức đóng góp của Hội hướng thiện Ngọc Sơn. Phải chăng tổ chức này có thể coi như phần nào điển hình của "Hội bảo vệ di tích thắng cảnh" nếu được nhân rộng ra, đó cũng là điều hãnh diện cho ngành Bảo tồn - Bảo tàng và cả ngành du lịch của một nước vẫn được coi là có nền văn hiến ngàn năm.
T.T
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 4 - 1997.

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

HỒ GƯƠM - NƠI GHI DẤU MỘT CA NỮ TÀI DANH VÀ NHÂN HẬU


Người ca nữ tài danh trong phủ chúa 
Nguyễn Xuân Diện sưu tầm

Trên phố Hàng Trống phía gần trụ sử báo Nhân Dân, ở số 82 có một ngôi đền nhỏ bé, quanh năm thơm ngát hương hoa. Đó là đền Đông Hương, hay còn gọi là đền Hàng Trống. Ngôi đền này liên quan đến một ca nữ thanh sắc vẹn toàn lừng danh trong phủ chúa dưới thời Lê - Trịnh.

Đó là nàng Nguyễn Thị Huệ, người ở thôn Cựu Lâu bên hồ Lục Thuỷ (hồ Hoàn Kiếm ngày nay). Cha của nàng là một nhà nho lỡ vận, sống bằng nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người; mẹ nàng là một ca nương của giáo phường Cựu Lâu. Năm 21 tuổi, trong một đêm hát ở phủ chúa nàng đã lọt vào mắt xanh của An Đô vương Trịnh Cương rồi được nhà chúa vời vào cung. Nàng rất được nhà chúa yêu vì, và ban cho nàng danh hiệu Ngọc Kiều phu nhân. Vào một năm nọ, Kinh thành Thăng Long bị một trận dịch lớn, theo phương thuốc của cha truyền lại, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc và cứu được rất nhiều người.

Về già nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống yên tĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Dân trong vùng đã xây một ngôi đền thờ nàng ở phố Hàng Trống, trên mảnh đất có ngôi nhà mà chúa Trịnh Cương xây tặng mẹ nàng khi bà còn sống. Nay đền toạ lạc ở số 82 phố Hàng Trống.

Tục ở phố Hàng Trống từ xưa đến nay không riêng ở đền mà ngay các tư gia có việc vui mừng cũng không tìm ả đào về hát. Vì một năm, nhân ngày tiệc, dân phố tìm ả đào về hát thờ, một cô đương hát tự nhiên ngã lăn ra, miệng sùi bọt mép mê man bất tỉnh. Dân làng sợ hãi kêu khấn. Nữ thần ứng vào bà đồng già bảo rằng: “Các ngươi đem ả đào về đây hát là làm điều vô lễ với ta, nếu lần sau còn như thế nữa ta sẽ vật chết ngay”. Một lúc người ả đào dần dần tỉnh lại, khoẻ mạnh như thường. Từ đấy dân phố Hàng Trống không ai dám tìm ả đào về hát ở đền hoặc ở nhà nữa.

Nàng là Huệ - tên một loài hoa đẹp, trắng tinh khôi, thơm ngan ngát và thanh tịnh. Để tỏ lòng thành kính trước người ca nữ tài danh, nhân hậu và hào hiệp, những người đến lễ đền Hàng Trống từ xưa đều không mang hoa huệ vào đền, dù là để dâng lên nàng với tất cả sự thành tâm nhất.

HỒ GƯƠM - THÁP HÒA PHONG VÀ DẤU ẤN CHÙA XƯA


Tháp Hòa Phong và dấu ấn chùa xưa
Thiền Phong Phạm Tuấn

Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân,
Thưa chư vị, xung quanh Hồ Gươm có 3 ngọn tháp nổi tiếng. Đó là Tháp Bút, Tháp Rùa và tháp Hòa Phong. Tháp Rùa và Tháp Bút thì nhiều người biết. Tháp Hòa Phong đẹp mà ít người biết. Vì vậy, xin trân trọng giới thiệu bài viết của Thiền Phong Phạm Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) để ngày mai, tham gia tuần hành yêu nước xung quanh Hồ Gươm, chúng ta càng hiểu hơn về những dấu ấn của dĩ vãng đang như ở trên mỗi nhịp bước chân đi...
Bên bờ nam hồ Hoàn Kiếm, phía đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay còn lại một ngôi tháp mang vẻ rêu phong cổ kính như đồng hành với thời gian. Đó là tháp Hoà Phong. Tháp Hoà Phong mang vẻ đẹp và tâm hồn của người Hà Nội đã hơn 200 năm, mà ít người biết về ngọn nguồn của ngôi tháp gạch này và lịch sử gắn liền với một ngôi chùa bên bờ hồ Hoàn Kiếm mà nay đã vang bóng một thời.

Dải đất Bưu điện Hà Nội bên bờ hồ Hoàn Kiếm bây giờ là thôn Cựu Lâu xưa, những năm đầu niên hiệu Thiệu Trị nhà Nguyễn, Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đăng Giai chủ hưng công cho dựng ngôi chùa Liên Trì Hải Hội trên nền cũ lầu Ngũ Long với quy mô to lớn nhất chốn kinh kỳ được hoàn thành vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), gồm 36 nóc, gần 200 gian. Chùa vô cùng lộng lẫy và trang hoàng, sử sách còn ghi chép lại. Chùa dựng xong Hoà Thượng Phúc Điền trụ trì và cho ấn tống rất nhiều kinh sách trong công cuộc hoằng dương Phật pháp. Cứ liệu ghi chép về ngôi chùa này sớm nhất hiện nay là sách Nội địa dư được Lương Đình Công soạn năm Tự Đức thứ 4 (1851) ghi rằng “chùa Liên Trì ở thôn Cựu Lâu,....năm đầu Thiệu Trị, Nguyễn Tây Thúc (Đăng Giai) dựng xây vô cùng tráng lệ, 8 ngòi trồng sen vây quanh, gọi là chùa Liên Hoa”. Về sau nhiều thư tịch cũng như Trương Vĩnh Ký ra Bắc đều hết lời khen ngợi chùa Liên Trì.

Chùa Liên Trì Hải Hội có rất nhiều tên gọi như chùa Liên Trì, chùa Báo Ân, chùa Đại sứ quán Hà Nội (Hà Nội Đại sứ quán tự), chùa Sùng Hưng, chùa Quan Thượng (gọi theo phẩm hàm của quan Thượng thư Nguyễn Đăng Giai), Chùa Liên Hoa, chùa Cửu tỉnh, người Pháp thì gọi là chùa Thụ Hình vì dựa trên cảnh xử tội trong tranh Thập điện Diêm vương treo trên tường Phật điện. Nhưng chùa tên chính là Liên Trì Hải Hội và được gọi tắt là Liên Trì (ao sen).


Chùa Liên Trì được dựng xây trên ý tưởng tôn giáo đạo Phật. Toàn bộ ngôi chùa là một tổng thể kiến trúc đồ sộ mà ngày nay chỉ còn lại những hình vẽ của người Pháp cũng như mô tả rất sơ lược của sử sách. Nhưng ngôi chùa với tên gọi cho thấy ý nghĩa về một tầng thế giới mà người xây dụng ý. Chùa Liên Trì Hải Hội với dụng ý được chiết xuất từ bài kệ trong kinh A Di Đà: “Liên Trì Hải Hội, Di Đà Như lai, Quan Âm, Thế Chí toạ liên đài, Tiếp dẫn thượng kim giai, đại thệ hoằng khai, phổ nguyện ly trần ai, Nam Mô liên trì hội thượng, Phật Bồ Tát Ma Ha tát”. Một cõi Niết bàn ngay chốn trần gian, thể hiện toàn bộ ngôi chùa là một đoá sen lớn, ý nghĩa tầng thế giới siêu thoát trên đài sen tụ hội với đủ các chư vị Bồ tát và Phật Di lặc. Theo hình vẽ và mô tả thì chùa cách biệt thế giới bên ngoài bởi sự bao bọc các ngòi nước trồng sen và chỉ có một lối đi là chiếc cầu đá trước chùa nối tiếp ra tận tháp Hoà Phong làm cổng. Qua cầu là Tam quan đồ sộ, phía sau hai bên là hai tháp lớn, sau đó là toàn bộ ngôi chùa đồ sộ nguy nga. André Masson một học giả người Pháp đã mô tả hình dáng chùa: "ở phía đông nam hồ, chỗ ngày nay là sở Bưu Điện, sừng sững ngôi chùa đặc biệt nhất trong các ngôi chùa ở Hà Nội. Toà nhà chính của chùa được bao bởi một hồ tròn đầy sen, chính hồ sen này đã cho chùa cái tên Liên Trì" (Hà Nội giai đoạn 1873-1888, André Masson, Nxb. Hải Phòng, 2003). Vào khoảng năm 1889, người Pháp dựng xây khu nhượng địa bên bờ nam hồ Hoàn Kiếm và cho phá bỏ chùa Liên Trì, đến nay chỉ còn dấu tích vang bóng mà thôi.


Dấu tích của chùa còn lại tới nay là tháp Hoà Phong, với vẻ đẹp cổ kính, lặng lẽ bên hồ. Tháp cao ba tầng, cửa tháp theo bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc, các cửa đều có chữ Hán làm ngạch nêu tên như: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hoà Phong tháp, Báo Thiên tháp,...tầng trên còn có hình bát quái và chữ Phạn. Nói rõ tổng thể kiến trúc của chùa trong đó nhấn mạnh tới tháp Hoà Phong, André Masson viết: “trong vô số "tháp, tháp chuông, hàng hiên lôi cuốn du khách từ rất xa”,...chỉ còn lại tháp Hoà Phong Tháp, tháp của gió thuận. Công trình nhỏ bé này rất đơn giản nhưng có tỷ lệ duyên dáng. Tháp gồm phần dưới bằng gạch, mỗi mặt trổ một cửa, phần trên là tháp xây trên sàn bốn góc trang trí bốn con nghê. Nằm bên bờ hồ, tháp là điểm khởi đầu đường vào chùa”.

Chùa xưa đã mất, chỉ còn lại giai thoại về vị quan Thượng “làm cho tổn Bắc lại hao Đoài” và tháp Hoà Phong cổ kính rêu phong. Những hàng liễu rủ bóng như tôn thêm cho vẻ đẹp của tháp cổ. Người người sáng chiều qua lại đã bao đời bên tháp. Thời gian cứ trôi và ngôi tháp vĩnh hằng làm một chứng tích cho tâm hồn và lịch sử của đất và người Hà Nội.


* Xin cảm ơn Thiền Phong Phạm Tuấn đã chia sẻ bài viết này với Nguyễn Xuân Diện-Blog.

THƯ NGỎ GỬI TÂN CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN SINH HÙNG


THƯ NGỎ
Kính gửi: Ông Nguyễn Sinh Hùng, Tân Chủ tịch Quốc hội 
nước CHXHCN Việt Nam
Thưa ông,

Là một công dân luôn theo dõi tình hình tranh chấp trên biển Đông, tôi đã nức lòng khi nghe Tân Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trương Tấn Sang trả lời báo chí vào chiều ngày 25/7/2011: “Vấn đề chủ quyền quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Bất cứ nước nào dù to hay bé cũng đều có nhận thức như vậy. Giữ vững độc lập chủ quyền, trong đó có chủ quyền biển đảo, trước hết phải dựa vào cơ sở quan trọng là luật pháp (luật quốc nội và luật quốc tế)…

Nước lớn có vị thế khác. Nước nhỏ như chúng ta có vị thế khác, phải dựa vào sức mạnh tập thể, cộng đồng, dựa vào luật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền của mình. Điều đó là dứt khoát, đương nhiên. Từ đó chúng ta luật hóa bằng luật quốc nội để xác lập, thực hiện việc chiếm hữu về ba mặt: pháp lý, lịch sử và về thực tế (khai thác và sử dụng vùng thuộc chủ quyền của mình)”.

Tôi càng vững tâm hơn khi nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu nhậm chức trước Quốc hội vào ngày 3/8/2011: “Triển khai thực hiện kiên định và đồng bộ các giải pháp để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”.

Nhưng niềm vui đó bị vụt tắt khi được biết rằng trong báo cáo trong báo cáo của Chính phủ về vấn đề biển Đông tại Quốc hội vào chiều 4/8/2011 là một phiên họp kín và nội dung của nó như thế nào người dân không hề biết vì không có một thông tin nào liên quan đến cuộc họp này được các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước đăng tải.

Kính thưa ông Chủ tịch Quốc hội,

Xin phép được nêu lên một thắc mắc rất bình thường là có gì bí mật trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông mà nhà nước và quốc hội không thể thông báo cho nhân dân. Phải chăng đã “có Đảng và nhà nước lo” nên người dân như chúng tôi không cần phải bận tâm?

Là người quan tâm nghiên cứu đến chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa, tôi biết rằng về pháp lý việc phát hiện, chiếm hữu, quản lý liên tục và khai thác có hiệu quả các vùng đất mới phải thuộc về nhà nước, và uyền đàm phán, ký kết các hiệp ước với nước ngoài là trách nhiệm của chính phủ và chỉ có hiệu lực khi đã được quốc hội – là cơ quan quyền lực cao nhất – phê chuẩn. Chẳng lẽ, nếu một mai ngoại bang đe dọa chủ quyền của Việt Nam và tình thế bắt buộc chúng ta phải chiến đấu bảo vệ tổ quốc thì chỉ có 200 ủy viên Trung ương Đảng và 500 đại biểu Quốc hội cầm súng ra trận thôi sao?

Thưa ông, bốn chữ “bí mật quốc gia” ở Việt Nam chúng ta đã có bài học kinh nghiệm xương máu.

Cho đến nay, phía Trung Quốc thường rêu rao, rằng “Thứ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, Tham tán đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung Quốc”. Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Ðường”(1) , và quan trong hơn hết là bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào tháng 9/1958 gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã luôn bị phía nhà nước Trung Quốc trựng dụng như một chứng cứ trong việc xác nhận chủ quyền của họ trên biển Đông(2).

Hơn nữa, mới đây, khi được hỏi “Được báo cáo rằng có cái gọi là “biểu tình chống Trung Quốc” ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam vào ngày 9 tháng 12 năm 2007. Ông có ý kiến gì?”,Tần Cương, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại hai sự kiện nầy, tuyên bố như sau:

“Các đảo ở biển Nam Trung Hoa và lĩnh vực phụ cận là thuộc chủ quyền của Trung Quốc không thể tranh cãi, đó là lập trường nhất quán của chính phủ Trung Quốc.Chúng tôi thừa biết rằng chính quyền Việt Nam có những khẳng định [chủ quyền] khác nhau vào những thời kỳ lịch sử khác nhau của nó”(3)

Điều cần đáng quan tâm hơn là kể từ sau sự kiện ngày 2/3/2011, khi tàu tuần tra Trung Quốc hoạt động trong khu vực Bãi Cỏ Rong (mà Philippines đang chiếm đóng trái phép của Việt Nam), tiếp cận một tàu khảo sát địa chấn của Philippines và ra lệnh cho con tàu này rời khỏi khu vực đã dẫn đến nguy cơ xung đột bằng vũ lực Trung-Phi cho đến ngày hôm nay và nhiều lần Philippines tuyên bố chủ quyền của họ tại khu vực này kể cả việc các quan chức cao cấp của Philippines tổ chức đi thị sát nơi đây thì tôi cũng chưa nghe một lời phản đối  sự xâm phạm chủ quyền hay kháng nghị  nào từ Bộ Ngoại giao nước ta. Tôi nghĩ rằng, sự im lặng của Việt Nam trong thời gian qua trước việc Philippines lên tiếng và có hành động thực thi chủ quyền của họ ở khu vực bãi Cỏ Rong là một sai lầm nghiệm trọng, vô tình hay chủ ý thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc lẫn Philippines đối với Bãi Cỏ Rong.

Thưa ông Chủ tịch Quốc hội,

Tôi xin nhắc lại rằng, khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là “chủ quyền thuộc ngã” và khi Trung Quốc tuyên bố biển Đông là khu vực “lợi ích cốt lõi” của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chặn tham vọng của phương Bắc. Lịch sử Việt Nam có nhiều bài để học. Vấn đề là học như thế nào và hành ra sao để ngăn chặn được nguy cơ không chỉ riêng cho dân tộc mà còn là nguy cơ đối với đảng cầm quyền và những người lãnh đạo đất nước.

Xin gửi đến ông lời chào trân trọng.

Viết tại Tp.HCM ngay sau kỳ họp thứ nhât của Quốc hội Khóa 13 bế mạc.
Đinh Kim Phúc

Chú thích:
(1) Bản tin của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 17-11-2000.
(2) Li Jinmin, Nguồn gốc và sự tranh cãi đang diễn ra về vấn đề Biển Đông, Beijing Review ngày 1/8/2011.
(3) Trang Web Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 11-12-2007.

NGÀY MAI CHÚNG TA CÙNG TUẦN HÀNH ĐỂ THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC

"Tuần hành là hành động thể hiện lòng yêu nước"
(Dân trí) - “Tôi cho rằng, tuần hành cũng là một hành động để thể hiện lòng yêu nước của người dân với chủ quyền biển đảo”, đại biểu Nguyễn Tấn Tuân nêu quan điểm.
“Buồn vì đánh giá người dân tự phát”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang theo dõi phiên thảo luận tại hội trưởng (ảnh: Việt Hưng).
Tại buổi thảo luận của Quốc hội chiều 5/8, đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) cho rằng, tình hình biển Đông có diễn biến phức tạp, Chính phủ đã chủ động đấu tranh ngoại giao, có các biện pháp đồng bộ để nêu cao chủ quyền, phản đối những hành vi gây hấn. Chính phủ cũng đã có báo cáo về vấn đề này.
Tuy nhiên, đại biểu vẫn chưa hài lòng, chưa yên tâm khi tình hình biển Đông còn rất phức tạp. Đại biểu kỳ vọng nhiệm kỳ này “cố gắng lấy lại quần đảo Hoàng Sa”.
Đại biểu Nguyễn Tấn Tuân (Khánh Hòa) cho biết, nhiều cử tri bày tỏ bức xúc trước hiện tượng ngư dân Việt Nam đánh bắt ở ngư trường của mình bị tàu nước ngoài xua đuối. Tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam cũng bị cắt cáp. Ngoài ra còn nhiều hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo khác.
Nhận xét Chính phủ đã kịp thời có báo cáo và các chương trình gắn với phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng nhưng ông Tuân đề xuất Quốc hội cũng cần có chính kiến, yêu cầu Chính phủ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế các vùng biển đảo như nào để kết hợp được việc bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia.  
Ông Tuân gợi ý: “Nếu Chính phủ tạo ra, củng cố được các tuyến vành đai vững chắc trên biển đảo bằng các chương trình phát triển kinh tế như vận tải biển, khai thác dầu khí, nuôi trồng, đánh bắt hải sản thì lúc đó người dân cũng có nhiều điều kiện thể hiện lòng yêu nước bằng cách bám biển để bảo vệ chủ quyền”.
Đại biểu cũng đặt vấn đề Quốc hội cần xem xét hành động thế nào, làm gì để người dân thể hiện lòng yêu nước một cách đúng đắn. Nói về những cuộc tuần hành hòa bình của người dân để phản đối tình trạng xâm phạm chủ quyền, ông Tuân bày tỏ đã rất buồn về những thông tin cho rằng người dân làm cái này cái kia, mổ xẻ đó là hành động tự phát hay tự giác. “Tôi cho đó cũng là một hành động để thể hiện lòng yêu nước của người dân với chủ quyền biển đảo của chúng ta” – ông Tuân nói.
Ăn uống kham khổ hơn để đối phó lạm phát
Đề cập đến tình hình tăng trưởng, thu ngân sách đạt được 6 tháng đầu năm ông Nguyễn Bá Thuyền phân tích, kết quả đạt được là do lạm phát mang lại, không phải do sản xuất phát triển. “Đồng tiền mất giá ghê gớm. Ngày xưa đi chợ tiền xu, giờ tiền nghìn. Như vậy là tiền mất giá cả nghìn lần. Người dân mất niềm tin vào tiền đồng” – ông Thuyền phân tích.
Đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng: "Yếu kém điều hành đẩy lạm phát lên" (ảnh: Việt Hưng).
So sánh với lần lạm phát trước (2008) dẫn tới dư nợ tín dụng buộc phải thắt dưới 30%, lần này mục tiêu là dưới 20%, đại biểu cho rằng còn khó khăn hơn nhiều. Ông Thuyền đề nghị bổ sung thêm gói kích cầu kinh tế như lần trước nhưng cần tập trung chủ yếu cho nông nghiệp, nông dân, không để xảy ra tình trạng dùng đồng tiền hỗ trợ để đáo nợ ngân hàng, không mang lại tác dụng.
Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền “phê” cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn yếu. Dẫn lại những phát biểu ấn tượng của Thủ tướng, các Bộ trưởng mới nhậm chức, đại biểu nhấn mạnh: “Người dân rất kỳ vọng Chính phủ mới có trái tim nóng bỏng, cái đầu lạnh và bàn tay sạch”. 
Đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng (Bình Dương) cũng làm phép so sánh tình hình hiện tại với lần lạm phát 2008. Gói kích cầu triển khai sau chính sách thắt chặt đột ngột khi đó được cho là một nguyên nhân dẫn tới lần lạm phát này. Tuy nhiên, ông Đáng cho rằng nguyên nhân chủ yếu là khiếm khuyết của nền kinh tế, yếu kém trong điều hành đã đẩy lạm phát lên chứ không phải vì kích cầu.
Ông Đáng khái quát, từ năm 2007-2010, giá tiêu dùng đã tăng tới hơn 60%, trung bình cao hơn cả mức tăng trưởng 7-8% hàng năm. Giá trị thực của tăng trưởng theo đó không nhiều, thậm chí “âm”. Đời sống người dân theo đó ngày càng khó khăn hơn, nhất là khi mặt hàng tăng giá cao nhất là lương thực thực phẩm.
“Thịt, trứng, rau mấy tháng qua giá đã tăng cao gấp đôi. Người lao động đành đối phó bằng cách ăn uống kham khổ hơn” – đại biểu day dứt. Đại biểu kiến nghị các chính sách điều hành kiên quyết, hiệu quả hơn, nếu không thì mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 15-17% trong năm nay cũng khó lòng đạt được.
Cùng chung lo lắng này, đại biểu Dương Hoàng Hương (Phú Thọ) nêu con số, so với tháng 12/2010, giá tiêu dùng đến tháng 6 đã tăng 13%, trong đó lương thực thực phẩm tăng 21%. Đầu tháng 7 vừa qua giá thực phẩm tiếp tục tăng. Bà Hương yêu cầu tập trung điều hành giá điện, xăng dầu từ này đến cuối năm. Việc “thả” giá điện theo thị trường, bà Hương nhấn mạnh, cần chọn thời điểm thích hợp để triển khai, không phải trong một vài tháng tới. 
P.Thảo 
Nguồn: Dân trí.

VỀ CUỘC BIỂU TÌNH NGÀY CHỦ NHẬT 07.08.2011

 VỀ CUỘC BIỂU TÌNH NGÀY CHỦ NHẬT 07.08.2011


Đây là lời cam kết của Công an đối với các 
cuộc biểu tình yêu nước
 từ nay trở về sau trên phạm vi cả nước

VỀ CUỘC BIỂU TÌNH YÊU NƯƠC NGÀY CHỦ NHẬT 07.08.2011

Những người yêu nước Việt Nam thông báo về cuộc biểu tình:

Thời gian: 08h30 ngày Chủ Nhật 07.08.2011

Địa điểm tập trung: Khu vực HỒ GƯƠM

(Chân tượng đài Lý Thái Tổ, chân tượng đài Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, Quảng trường Đông Kinh Nghĩa thục [cạnh tòa nhà Hàm Cá Mập]).

Đúng  8h30 tất cả mọi người tập trung về Vườn hoa chân tượng đài Lý Thái Tổ.

Chúng tôi trân trọng đề nghị các lực lượng an ninh bố trí lực lượng giúp phân luồng giao thông và bảo vệ an ninh cho đoàn biểu tình yêu nước. 

Đề nghị các cơ quan thông tấn báo chí và truyền thông trong nước và quốc tế đưa phóng viên tới để ghi nhận và phản ánh đầy đủ và chân thực cuộc biểu tình yêu nước của nhân dân Việt Nam.

Xin hãy cùng nhau lại xem Cẩm nang biểu tình, tại đây.

 TỔ QUỐC VIỆT NAM ANH HÙNG MUÔN NĂM!
ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM TOÀN VẸN LÃNH THỔ MUÔN NĂM!
_______________________________
 

BÀI PHÁT BIỂU CỦA PHÓ BÍ THƯ TỈNH ỦY KHÁNH HÒA TẠI QUỐC HỘI

PHÓ BÍ THƯ TỈNH ỦY KHÁNH HÒA: "PHẢI CÓ HÀNH ĐỘNG THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC, ĐỐI VỚI BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG"

Kéo thuyền vào đảo An Bang (6/2011)
Mai Thanh Hải Blog - Chiều nay (5/8), tại phiên Thảo luận ở hội trường về "Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011; các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước 6 tháng cuối năm 2011", duy nhất Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Nguyễn Tấn Tuân (Khánh Hòa), Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa dành nhiều thời gian đề cập đến vấn đề Biển Đông, biện pháp bảo vệ chủ quyền và... thể hiện lòng yêu nước của người dân.

Xin trân trọng giới thiệu những ý kiến... quý hiếm của ĐBQH Nguyễn Tiến Tuân
--------------------------------------------------------------------------------
ĐBQH Nguyễn Tiến Tuân
... "Vấn đề thứ ba, chúng tôi rất quan tâm trong giải pháp thứ 8, mà Chính phủ đặt ra đó là về An ninh - Quốc phòng. Giải pháp thứ 8 nêu ra tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả, các chủ trương nghị quyết của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực Quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, trước tình hình và diễn biến phức tạp, chúng ta cần hành động kiên quyết kịp thời phù hợp với pháp luật quốc tế đúng với chủ trương của Đảng, Nhà nước, huy động sức mạnh của toàn dân để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Tôi nghĩ, đây là một chủ trương mà để bảo đảm ổn định xã hội, giữ được chủ quyền của đất nước và chúng ta tập trung phát triển kinh tế. Vừa qua, chúng tôi cũng đã nhận được rất nhiều ý kiến cử tri đặt vấn đề, và người dân rất bức xúc trước việc ngư dân của chúng ta, đánh bắt ở các ngư trường, thì bị tàu nước ngoài xua đuổi. Tàu thăm dò dầu khí của chúng ta, thì cũng bị họ cắt cáp và rất nhiều hành động xâm phạm đến chủ quyền biển đảo.

Tôi nghĩ rằng, Chính phủ cũng đã có báo cáo và cũng đã có các chương trình để gắn việc phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng. Riêng đối với Quốc hội, tôi nghĩ cũng phải có một chính kiến và đề nghị Chính phủ báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế ở các vùng biển đảo như thế nào, để trên cơ sở ở đó, chúng ta kết hợp được việc phát triển kinh tế và bảo đảm An ninh Quốc phòng.

Nói về vấn đề này, cũng báo cáo với Quốc hội là cử tri của Khánh Hòa rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước, đã vì Trường Sa thân yêu và xây dựng Trường Sa ngày càng vững mạnh.
Bộ đội Trường Sa nhận quà từ đất liền

Chúng tôi nghĩ rằng, nếu Chính phủ tạo ra được các vành đai vững chắc trên tuyến huyện đảo, bằng các chương trình phát triển kinh tế mũi nhọn như vận tải biển, khai thác dầu khí, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, thì lúc đó tôi nghĩ, người dân sẽ có nhiều điều kiện để thể hiện lòng yêu nước của mình, bằng việc bám biển để chúng ta giữ được chủ quyền biển đảo.

Nhân đây chúng tôi xin đề nghị Quốc hội cần đặt ra nhiều vấn đề như trong giải pháp thứ 8. Tức là chúng ta phải có hành động, để thể hiện lòng yêu nước của chúng ta, đối với biển đảo quê hương. Trong đó, vấn đề đặt ra nhiều nhất là nhân dân ta cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước cho đúng. Vừa rồi, chúng tôi rất buồn khi thấy một số thông tin cho rằng, người dân như thế này, thế khác, đó là tự phát hay tự giác.

Tôi cho rằng cái này cũng là hành động để thể hiện tấm lòng yêu nước của người dân đối với chủ quyền biển đảo của chúng ta. Xin hết!"...
 

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

PGS.TS TRẦN NGỌC VƯƠNG: MỘT CÁI NHÌN KHOA HỌC VỀ QUAN HỆ VIỆT - TRUNG

Đường lưỡi bò của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Ảnh: Internet
Một cái nhìn khoa học về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

Tình hình “ biển Đông dậy sóng” thời gian qua không nằm ngoài bối cảnh tham vọng lãnh thổ lâu đời của Trung Quốc cũng như mối quan hệ lịch sử phức tạp giữa hai nước Việt - Trung. Phóng viên Đất Việt online đã có cuộc phỏng vấn PGS.TS Trần Ngọc Vương, ĐH Quốc gia Hà Nội, người đã nhiều năm nghiên cứu Trung Quốc, về điều này.

PV: Ông đánh giá thế  nào về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, không chỉ là mối quan hệ ngoại giao hiện tại, mà là dưới góc độ lịch sử, văn hóa?

PGS.TS. Trần Ngọc Vương: Thực tế thì từ trước đến nay, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là một quan hệ rất phức tạp. Dù công khai hay không công khai thừa nhận thì đó là một thực tế không ai có thể che giấu được.

Mối quan hệ phức tạp đó được thể hiện trên nhiều phương diện: chính trị, văn hóa, chủ nghĩa dân tộc, chân chính hay không chân chính, lành mạnh hay không lành mạnh, trong đó có cả tâm lý đám đông.

Trước hết, cần phải khẳng định quan hệ Việt – Trung từ quá khứ lịch sử đến tận ngày nay là một quan hệ nhiều chiều phong phú, đa dạng, phức tạp và đầy nghịch lý, mâu thuẫn. 

Năm 1998, tại Đại học Bắc Kinh, tại cuộc gặp mặt và trao đổi trực tiếp giữa học giả 2 nước Việt Nam, Trung Quốc, các học giả Trung Quốc đã hỏi tôi: Ông nghĩ như thế nào về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Tôi muốn nhắc lại một ý mà tôi đã trả lời lúc đó, như là một nhận thức đã trở thành công thức cố định: Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ít nhất phải nhìn trong 3 góc độ, 3 tư cách của Trung Quốc.

Trong lịch sử, Việt Nam tiếp thu nhiều từ Trung Quốc, cho nên tư cách đầu tiên của Trung Quốc đối với Việt Nam là tư cách ông thầy. Đây là điều không chối cãi được do Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trung Quốc cả một thiên niên kỷ. Trong suốt thời gian dài đó, người Việt đã học tập rất nhiều điều từ người Trung Quốc. Chúng ta không thể nào không kính trọng một dân tộc có nền văn minh, văn hóa thuộc loại hàng đầu thế giới. 

Tư cách 2: Trung Quốc với Việt Nam là bạn: Bạn ở đây được hiểu theo nhiều nghĩa và được quy định bởi nhiều điều kiện. 

Thứ nhất, là 2 nước láng giềng có chung đường biên giới rất dài cả trên đất liền và trên biển. Do có chung đường biên giới quá dài nên để có thể sống với nhau ổn định, cần có sự hữu nghị cả về phương diện cộng đồng, xã hội lẫn phương diện quốc gia.

Thứ hai, chữ “Bạn” ở đây được hiểu vừa là đối tác, vừa là đối thủ. Ngay trong một cộng đồng nhỏ cũng tồn tại những đối thủ, huống hồ là giữa 2 đất nước. Nếu bỏ qua tư cách đối thủ, tự anh sẽ làm hại anh do sẽ dẫn đến mất cảnh giác. Điều này được thể hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị. Nhưng không vì vậy mà yếu tố đối thủ làm triệt tiêu yếu tố đối tác, bằng hữu. 

Nhưng theo tôi, nếu xét trên tư cách bằng hữu, sự hợp tác giữa 2 nước chưa cao. Bởi muốn hợp tác có hiệu quả thì 2 nước phải có những mục tiêu và lợi ích chung. Phải có định hướng về tầm nhìn là cùng nhìn về 1 hướng thì sự hợp tác mới lâu bền và toàn diện. Nếu quay lưng lại với nhau hay người này tìm cách tranh thắng hơn so với người kia thì không thể hợp tác được. Trong hợp tác, nguyên tắc “Cả 2 cùng thắng” mới là nguyên tắc quan trọng nhất, chứ không phải kẻ thắng người thua. 

Tư cách bằng hữu này về lâu về dài vẫn cần phải duy trì để cùng tồn tại. 

Tư cách 3:Việt Nam thường xuyên là nạn nhân của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sự bành trướng đế chế của Trung Quốc: Trong thực tế, do nhiều lý do lịch sử, Việt Nam không phải là nước lớn để đặt đồng đẳng trên bàn cân so với Trung Quốc. Cho nên, tồn tại bên cạnh một đế chế khổng lổ có dân số chiếm 1/5 nhân loại không phải là điều đơn giản. Rõ ràng, so về tiềm lực, quốc lực, Việt Nam không phải là đối thủ cạnh tranh bình đẳng của Trung Quốc. Không nhận thức được điều này thì sẽ mất nước.Tôi cũng muốn sử dụng khái niệm “sự bành trướng đế chế” như là một thuật ngữ của khoa học lịch sử.

Chính vì điều này, ngay từ quá khứ lịch sử đã luôn đặt ra 1 tình huống, đó là: mất cân bằng.

Đối với nước nhỏ bé hơn, đây bao giờ cũng là hiểm họa. Điều này không có gì lạ, khắp nơi trên thế giới đều như vậy. Nói một cách lạnh lùng hơn, đây là một quy luật, có thể gọi là “chủ nghĩa Darwin xã hội”, đó là quy luật sinh tồn cạnh tranh về mặt xã hội.

Quy luật này chính các nhà kinh điển Mác – Lênin đã nhận thức và coi là quy luật bất di bất dịch: Quốc gia nào mạnh sẽ đi xâm lược, quốc gia nào yếu sẽ bị xâm lược. Không có một quốc gia đạo đức thuần túy nào từng xuất hiện trên trái đất. Chủ nghĩa bành trướng như là một lẽ đương nhiên của các nước lớn. Trung Quốc từ xưa đến nay, trừ những giai đoạn tự mâu thuẫn, tự đấu tranh nội bộ, khi họ đạt được sự thống nhất nhất định thì họ đều có tư thế nước lớn. Và khi có tư thế nước lớn, họ tự có thuộc tính bành trướng.

Khi bàn về đế chế Sa Hoàng, Lênin đã phải thừa nhận một thực tế khách quan, tất yếu: Khi nó đã là đế chế, là một quốc gia có quy mô lớn như đế chế Nga thì nó hút theo nó rất nhiều sự phụ thuộc, ép các cộng đồng dân tộc xung quanh nó trở thành vệ tinh. 

Tôi xin nhắc lại, đế chế nào, quốc gia lớn nào cũng vậy. Sức ảnh hưởng, bành trướng của các đế chế này là sức hút nam châm, có xu hướng hút và cuốn các nước xung quanh vào bên trong nó. Nếu chống lại được lực hút đó thì được độc lập, còn nếu không li tâm được thì tất yếu sẽ bị phụ thuộc. 

Tôi cho rằng, xu thế chung của nhân loại và nói riêng các quan hệ khu vực  trong khoảng một thiên niên kỷ trở lại đây là những quốc gia như Việt Nam ngày càng thể hiện tư thế độc lập hơn, tự quyết, tự chủ hơn so với các đế chế kiểu như Trung Quốc. Mặc dù có những thời điểm trong lịch sử, xu thế đó không phải là dạng đồ thị tiến thẳng, có những lúc người cầm quyền Việt Nam tỏ ra bạc nhược, yếu hèn, nhưng nhìn tổng thể thì Việt Nam ngày càng độc lập hơn.

Việt Nam hoàn toàn đủ nội lực để tự mình trở thành một quốc gia độc lập hơn nữa, bình đẳng hơn nữa với các thế lực bên ngoài. Điều kiện của quốc tế hiện đại cho phép thực hiện được, hiện thực hóa được xu hướng đó. 

PV: Tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề cần giải quyết trong quan hệ giữa hai nước.  Một bước tiến  có thể nói khá quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp này  là  các bên đồng thuận không sử  dụng vũ lực.  Vậy vì sao gần đây tình hình lại đột ngột “nóng” lên, cùng  với đó là sự đe dọa  sử dụng vũ lực  từ phía Trung Quốc? 

PGS Trần Ngọc Vương: Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua, chúng ta có cái nhìn toàn cảnh và rõ ràng hơn về cái gọi là việc sắp xếp lại trật tự thế giới,  cấu trúc lại những vùng ảnh hưởng trên thế giới. Nhìn theo nhiều lĩnh vực, có thể xuất hiện những cường quốc khác nhau, thậm chí có thể gọi là những siêu cường khu vực. Nhìn một cách tổng thể, rõ ràng Trung Quốc đang có khát vọng trở thành một siêu cường, ít nhất là siêu cường khu vực. 

Từ năm 1978, khi khởi xướng lên việc định hướng lại và cải cách kinh tế để tạo vị thế của Trung Quốc, cho đến gần đây, Trung Quốc nêu lên một số mệnh đề mà tôi cho rằng đặc biệt cần chú ý.

Thứ nhất là mệnh đề: “Một hữu đới đầu” - Nhất quyết không đi đầu. Họ chấp nhận không làm người dẫn đầu, không gánh vác trách nhiệm trước thế giới. Điều này có thể dễ dàng hiểu được, cũng là do họ chưa đủ điều kiện để làm vậy dù họ muốn. Tôi cho rằng, về tầm nhìn, đó là một tầm nhìn dài hạn và khôn ngoan của họ. 

Mệnh đề thứ hai là “thao quang dưỡng hối”, tức là che bớt ánh sáng, nuôi dưỡng cái tù mù. Trung Quốc muốn giữ cho riêng mình một vùng bí mật rộng lớn trong các quốc sách cũng như trong việc đo đếm, tính toán quốc lực của họ. Đây là một cách giữ gìn bí mật quốc gia để quốc tế không thể biết được tiềm lực thực sự của Trung Quốc. Dù bên ngoài có nói xấu hay nói tốt, nói hay hay nói dở, Trung Quốc cũng không phản đối hay khẳng định quyết liệt.

Mệnh đề thứ ba là “nhất quốc lưỡng chế”, tức là một nước hai chế độ. Chính mệnh đề này đã gây ra tranh luận giữa tôi với các học giả Trung Quốc năm 1998, thời điểm khi họ đang tiếp nhận Hồng Kông. 

Khẩu hiệu “Nhất quốc lưỡng chế” mà Đặng Tiểu Bình đưa ra là một tôn chỉ mà họ đang thực hiện và sẽ còn lâu mới thực hiện xong. Đây chính là câu khẩu hiệu gây nhiều suy nghĩ cho tôi. 

Tôi đã hỏi các giáo sư, học giả Trung Quốc ở Đại học Bắc Kinh rằng: Một nước 2 chế độ, nghĩa là một bên anh duy trì XHCN, một bên anh duy trì TBCN? Vậy thì CNXH có phải mục đích tối hậu của Trung Quốc không? Đó của phải là hệ tư tưởng của Trung Quốc không? 

Họ nói theo họ là như vậy. Tôi nói: Vậy thì theo logic, anh phải tồn tại 2 chế độ, dù cho tầm nhìn xa đến đâu, khoảng thời gian dài đến đâu, nhưng nếu đến “một lúc nào đó”, tình trạng đó sẽ được / bị xóa bỏ, thì đó vẫn cứ là một công thức mang tính chiến thuật, dù nó không ngắn hạn về mặt thời gian. Cuối cùng anh phải giải quyết vấn đề 2 chế độ ra sao chứ? Phải nhất thể hóa thành một chế độ chứ? Nếu khẳng định như thế, tôi không tin là trên bốn chục triệu người ở mấy vùng lãnh thổ kia để yên cho anh “sáp nhập” dễ dàng.

Trong trường hợp ngược lại, nếu anh nói rằng đó là một tôn chỉ lâu dài, không xác định về mặt thời gian thì tức là anh từ bỏ về mặt nguyên tắc đối với chủ nghĩa cộng sản. Vì trong một nhà nước phải có, và chỉ có một hệ tư tưởng. Giả sử các vùng lãnh thổ như Đài Loan sáp nhập với Trung Quốc thì hệ tư tưởng lúc đó chắc chắn phải khác hệ tư tưởng bây giờ. Vậy hệ tư tưởng đó là gì? Các học giả Trung Quốc không trả lời được. Họ hỏi ý kiến của tôi thế nào. Tôi nói: đó chính là chủ nghĩa tư bản, hoặc một dạng khác, xác thực hơn nữa: chủ nghĩa dân tộc. Họ im lặng nhưng sa xẩm mặt mày. 

“Thao quang dưỡng hối” và “không đi đầu” thì hiện nay Trung Quốc đang dần dần từ bỏ. Tức là họ công khai bộc lộ và thị uy sức mạnh, đồng thời một bộ phận kích động chủ nghĩa dân tộc.

Nguy cơ về sự bùng lên và khó lòng kiểm soát của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc là điều có thật. Cái tâm lý này nằm cả ở những người ở cấp cao, tuy tôi chưa dám nói những nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc thì ở mức độ như thế nào. 

Vì thế, tôi cho rằng chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc bùng nên và khó kiểm soát đang thực sự là một nguy cơ đối với chúng ta. Tôi theo dõi báo chí và các trang mạng Trung Quốc, qua các thống kê của chính các trang đó, tôi thấy các con số về tỷ lệ người Trung Quốc đòi “dạy cho Việt Nam một bài học” là rất cao. Điều này phản ánh một tỉ lệ trung bình cộng mà chúng ta cần phải hết sức cảnh giác. Đương nhiên là các nhà chính trị không dễ dàng đưa ra các quyết định dựa trên những thống kê trên mạng như vậy, nhưng cũng chắc chắn họ sẽ bị chi phối bởi điều này.

Để hiểu tận căn nguyên, tôi không chỉ theo dõi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mà tôi còn phải theo dõi cả thực thể Trung Hoa, tôi cho rằng hiện nay, những vấn đề mâu thuẫn nội tại của xã hội Trung Quốc là căng thẳng nhất thế giới. Có người đã nói ví von là: Giữa những tỷ phú giàu nhất thế giới đã có người Trung Quốc, nhưng những cộng đồng nghèo đói nhất thế giới cũng có người Trung Quốc. Điều đó dẫn đến những bất an về mặt xã hội.

Những bất an xã hội đó khiến tôi rất lo lắng.Không phải chỉ lo và thương cho người Trung Quốc. Tôi không dám nói đó là tất yếu, nhưng theo những lối mòn của lịch sử, để trấn an nội bộ, trong mấy nghìn năm qua, Trung Quốc luôn dùng phương pháp chuyển mâu thuẫn ra ngoài. Tức là cứ mỗi lần nội bộ Trung Quốc có vấn đề lớn, các nhà cầm quyền Trung Quốc lại tiến hành xâm lược một vùng nào đó. Họ dùng “võ công” để răn đe và giải quyết mâu thuẫn bên trong. Tức là họ không đánh trực tiếp đối thủ trong nước mà dùng chiến công bên ngoài để làm giảm áp lực và xả bớt lực căng xã hội. Xin nói thật, đây là điều tôi sợ nhất vì Việt Nam có nguy cơ cao trở thành nạn nhân, các tỷ lệ thống kê cao trên mạng phản ánh đúng điều này. 

Tôi nghĩ là người Trung Quốc đâu thù Việt Nam đến thế. Những người làm chính trị, quan sát chính trị đều nhận thấy trong thời gian qua Việt Nam đã nhẫn nhịn rất nhiều. Thế giới không ngây thơ để tin vào những tuyên truyền xuyên tạc của Trung Quốc là Việt Nam luôn gây hấn và kích động. Rõ ràng là người Việt Nam luôn có tâm lý hòa hiếu, muốn yên ổn. Lịch sử đã chứng minh điều đó.Võ công thiên tài và chiến công hiển hách như Quang Trung mà trước khi đánh trận Đống Đa còn yêu cầu Ngô Thì Nhậm viết sẵn biểu tạ tội, rồi biểu Cầu phong. 

Vì vậy, vấn đề ở đây là chúng ta phải tránh để bị Trung Quốc biến thành vật hi sinh. Nhưng đồng thời, ta không chỉ giữ thể diện với dân mà về lâu dài cần phải nuôi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân ta. Như cụ Hồ đã nói một câu thể hiện tất cả: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Chúng ta vừa phải mềm mỏng, nhẫn nhịn nhưng cũng luôn phải tự cường, rắn rỏi. 

Thực trạng bất bình đẳng diễn ra trong cả việc tuyên truyền. Báo chí và các trang mạng Trung Quốc, kể cả các tờ được coi là chính thống và quan trọng hàng đầu, kể cả Đài Truyền hình Trung ương, hiện nay đang liên tục xuyên tạc về Việt Nam, tôi xin gọi là nói rất láo về Việt Nam. 

PV: Hòa bình, đó là khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Song,  cũng như ý chí nhân dân, các vị lãnh đạo của Việt Nam luôn khẳng định “chủ quyền là số một”. Từ cái nhìn lịch sử, theo Giáo sư,  làm thế nào để giữ được cả hai điều này?

PGS Trần Ngọc Vương: Mặc dù có những cái đầu ở Trung Quốc đang rất nóng, và cả nhiều cái đầu ở các nước láng giềng của Trung Quốc, đương nhiên cả ở ta, cũng đang nóng, nhưng theo tôi chúng ta nên coi đó là chuyện bình thường. Có những phản ứng cực đoan thái quá là bình thường. Cả ở đây nữa, “trái tim có những lý lẽ riêng mà cái đầu không thể hiểu”. Nhưng đó không phải là tất cả. Vấn đề là các nhà cầm quyền phải biết giữ tỉ lệ cực đoan đó ở mức có thể kiểm soát được và không gây ra tác hại. Các nhà lãnh đạo cần có cách hành xử và giải quyết vấn đề phù hợp. 

Tôi cho rằng với diễn biến của tình hình vừa rồi, sự bộc lộ thái độ và hành động của cộng đồng và người dân Việt Nam là hợp lý. Giữ mức độ như thế là hợp lý. 

Với tư cách là người cũng đã nhiều năm nghiên cứu về Trung Quốc, về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, tôi cho rằng điều quan trọng nhất hiện nay đối với chúng ta là làm thế nào để cân bằng được niềm tự hào dân tộc, khí phách dân tộc với hoạt động thực tiễn chính trị tỉnh táo để đạt được mục tiêu quan trọng hàng đầu là giữ gìn độc lập dân tộc. Đồng thời tránh cho dân tộc khỏi những tổn thất, va chạm không cân sức và không cần thiết. 

- Xin cảm ơn Giáo sư.

*Bài do PGS. TS Trần Ngọc Vương gửi trực tiếp cho NXD- Blog. 
Một phần của bài viết đã đăng tải trên báo điện tử Đất Việt.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!