Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

VỀ HUYỀN THOẠI ĐIỆN HẠT NHÂN GIÁ RẺ

Nhà máy điện hạt nhân Fukushima, Nhật Bản. Ảnh: Internet
 Hoàng Xuân Phú 

Những người cổ súy cho điện hạt nhân thường thuyết phục dư luận là điện hạt nhân vừa rẻ,  vừa an toàn.[1] Họ muốn mọi người tin rằng những sự cố điện hạt nhân như Three Mile Island 1979[2] và Chernobyl 1986[3] đã thuộc về quá khứ, không còn tái diễn, nhưng thảm họa Fukushima 2011[4] đã chỉ ra điều ngược lại. Qua bài “Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân”,[5] ta đã trao đổi để đi đến kết luận rằng không bao giờ có được công nghệ điện hạt nhân tuyệt đối an toàn tai họa luôn rình rập các nhà máy điện hạt nhân. Còn chuyện giá rẻ thì sao? Trong bài này chúng ta sẽ cùng nhau xem xét để thấy được tính hoang đường của luận điểm ấy. 

Rẻ nhờ bao cấp

Theo thông tin được đăng trên trang web “The Economics of Nuclear Power[6] (“Tính kinh tế của điện hạt nhân”, được cập nhật ngày 9/3/2011) của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (World Nuclear Association), giá thành điện trong năm 2010 khi chiết khấu 10% là như sau:

Ở Mỹ: 77 USD/MWh cho điện hạt nhân, 88–93 USD/MWh cho điện từ than, 83 USD/MWh cho điện từ khí, 70 USD/MWh cho điện từ gió biển.

Ở Đức: 83 USD/MWh cho điện hạt nhân, 87–94 USD/MWh cho điện từ than, 93 USD/MWh cho điện từ khí, 143 USD/MWh cho điện từ gió biển.

Qua ví dụ của hai nước kể trên, ta thấy quả thật là điện hạt nhân thuộc loại rẻ nhất. Nhưng thực ra, các giá công bố thường đã biến dạng bởi bao cấp, nhất là qua lăng kính của tổ chức của những người làm điện hạt nhân. Theo Wall Street Journal xuất bản ngày 12/5/2008,[7] EIA (Energy Information Administration) đã chỉ ra rằng Mỹ bao cấp 1,59 USD/MWh cho điện hạt nhân, 0,44 USD/MWh cho điện từ than, 0,25 USD/MWh cho điện từ khí và 23,37 USD/MWh cho điện từ gió. Như vậy, ở Mỹ điện hạt nhân được bao cấp kém xa so với điện từ gió, nhưng lại nhiều hơn hẳn so với điện từ than và từ khí.

Thông tin trên chỉ cho ta một cảm giác ban đầu, có tính chất tương đối, vì việc xác định mức độ bao cấp luôn là một chủ đề tranh cãi, nhất là đối với điện hạt nhân. Vấn đề là ở chỗ phải tính những khoản gì vào mục này?

Khoản đầu tiên là kinh phí quốc gia dành cho nghiên cứu và phát triển năng lượng hạt nhân. Theo EUROSOLAR,[8] trong khoảng thời gian 1974 – 1998, các nước thuộc khối Cộng đồng chung Châu Âu đã chi 55 tỷ USD, và từ năm 1950 đến nay các nước trên thế giới đã chi khoảng 1.000 tỷ USD cho khoản này.

Tiếp theo là kinh phí quốc gia dành cho việc xây dựng và duy trì hoạt động của các cơ sở hạt nhân. Chẳng hạn ở Đức, chi phí để xây dựng các lò phản ứng nghiên cứu là khoảng 20 tỷ Euro, kinh phí quốc gia đóng góp vào những công trình bị thất bại  (như cơ sở tái chế nhiên liệu hạt nhân Wackersdorf và các nhà máy điện hạt nhân Kalkar, THTR-300 Hamm-Uentrop, Mülheim-Kärlich) là khoảng 9 tỷ Euro...

Ngoài ra còn nhiều dạng bao cấp khác, trong đó có chi phí xử lý chất thải hạt nhân và chi phí cho việc tháo dỡ các lò phản ứng mà ta sẽ xét trong hai phần tiếp theo.

Cộng thêm các khoản bao cấp kể trên, ta sẽ nhận được một bức tranh sát thực hơn về chi phí cho điện hạt nhân. Theo khảo sát của DIW (Deutsche Institut fuer Wirtschaftsforschung, Viện Nghiên cứu Kinh tế Đức) vào năm 2007, trong khoảng thời gian từ 1956 đến 2006 nhà nước Đức đã chi ít nhất 50 tỷ Euro cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ năng lượng hạt nhân.[9] Nếu tính thêm vào đó một số chi phí, như 3 tỷ Euro để chế tạo Castor (thùng chứa và vận chuyển vật liệu phóng xạ), 6,6 tỷ Euro để cải tạo mỏ uran, 2,5 tỷ Euro cho việc đóng cửa và tháo dỡ các cơ sở kỹ thuật hạt nhân, và 20 tỷ tiền giảm thuế, rồi chia cho 4100 TWh điện hạt nhân đã được sản xuất cho đến năm 2006, thì sẽ thu được một khoản bao cấp là 20 Euro/MWh.[10] 

Khảo sát năm 2010 của FÖS (Forum Ökologisch-Soziale Marktwirtschaft, Diễn đàn Kinh tế Thị trường Xã hội-Môi trường)[11] cho thấy: Trong thời gian 1950 – 2010, nhà nước Đức đã bao cấp khoảng 204 tỷ Euro cho điện hạt nhân, tính ra là khoản bù giá khoảng 43 Euro/MWh. Nếu cộng cả khoản bù giá này, tương đương với 53 USD/MWh theo tỷ giá tại tháng 12/2010, giá thành điện hạt nhân ở Đức sẽ tăng từ 83 USD/MWh lên 136 USD/MWh, tức là cao hơn hẳn giá thành điện từ than (87–94 USD/MWh), điện từ khí (93 USD/MWh) và gần bằng giá thành điện từ gió biển (143 USD/MWh).

Ta sẽ tiếp tục xem xét trong bốn phần tiếp theo để thấy được chuyện bù giá không dừng tại đấy. 

Món nợ chưa trả 

Một loại chi phí rất quan trọng nhưng lại xuất hiện với tỷ trọng tương đối thấp trong giá thành điện hạt nhân, đó là chi phí xử lý chất thải hạt nhân. Quan trọng thì rõ rồi, không thể không chi, không sớm thì muộn cũng phải chi. Vậy thì tại sao nó lại xuất hiện với tỷ trọng tương đối thấp? Đơn giản vì nó là món nợ chưa trả được, vì chưa tìm ra được công nghệ thỏa đáng để trả.

Sau khi đã qua sử dụng và được lấy ra từ lò phản ứng, các thanh nhiên liệu hạt nhân có độ nhiễm xạ rất cao, không thể vận chuyển đi xa. Chúng được đưa vào bể làm nguội nằm gần lò phản ứng và được lưu trữ ở đó nhiều tháng, thậm chí có thể đến 10 năm. Vì phải nằm lại lâu như vậy nên lượng nhiên liệu trong bể làm nguội thường bằng khoảng 3 đến 10 lần lượng nhiên liệu sử dụng trong một năm. Được nhúng ngập sâu dưới nước khoảng 2 mét, các thanh nhiên liệu nóng trên 100°C nguội dần trong môi trường nước dưới 50°C. Mục đích chính của giai đoạn này là để các đồng vị có thời gian tồn tại ngắn phân rã.[12] Nguy cơ xảy ra sự cố trong bể làm nguội không hề nhỏ. Để lượng khí ô-xy và hy-đrô tách ra từ nước không tập trung quá nhiều trên nóc nhà và gây nổ, người ta phải hút khí liên tục ra khỏi khu vực ấy. Nếu để nước cạn bớt đến mức các thanh nhiên liệu không còn ngập trong nước thì chúng có thể nóng lên đến 800°C, có thể gây nổ, hỏa hoạn và phát tán phóng xạ. Nước nhiễm xạ cũng có thể bị rò rỉ từ bể làm nguội. Những nguy cơ vừa kể không phải là kịch bản lý thuyết, mà là hiện thực trần trụi, điển hình là vụ nổ lúc 6h00 ngày 15/3/2011 tại bể làm nguội thuộc lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi.[13] 

Tiếp theo giai đoạn ở bể làm nguội, nếu không được đưa đi tái chế thì các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng được chuyển tới các kho chứa tạm thời. Suốt mấy chục năm lưu lại nơi đây trong điều kiện bảo quản khô, mức độ phân rã phóng xạ giảm dần. CHLB Đức chỉ có hai kho chứa tạm thời được dùng chung ở Gorleben[14] và ở Ahaus.[15] Ngoài ra, một số kho chứa tạm thời được thiết lập ngay trong khu vực các nhà máy điện hạt nhân. Theo quy định của BfS (Bundesamt für Strahlenschutz, Văn phòng Liên bang về Bảo vệ bức xạ) thì các kho chứa tạm thời trong khu vực nhà máy chỉ được cấp phép hoạt động 40 năm. Người ta hy vọng là sau đó sẽ có các kho chứa vĩnh viễn để tiếp nhận chất thải từ kho chứa tạm thời.[16] 

Sau thời gian lưu lại ở kho chứa tạm thời, các thanh nhiên liệu vẫn có độ phóng xạ cao và phải sau chục nghìn năm phân rã mới đạt được mức có thể coi là không còn nguy hiểm. Để có thể cách ly chúng suốt thời gian ấy ra khỏi môi trường sống, cần phải thiết lập các kho chứa vĩnh viễn ở độ sâu 300–1.000 mét dưới mặt đất. Bế tắc khó vượt qua là tìm ra công nghệ bảo quản bền vững suốt hàng chục nghìn năm để các chất phóng xạ và các độc tố kèm theo không bị rò rỉ ra môi trường, xâm nhập vào nguồn nước ngầm.[17] 

Kể từ khi đón dòng điện hạt nhân đầu tiên từ Obninsk (cách Moskow 110 km) vào năm 1954,[18] loài người đã mơ giấc mơ nguyên tử suốt hơn 50 năm, thời gian dài hơn hẳn 40 năm được phép tồn tại của các kho chứa tạm thời trong khu vực nhà máy theo quy định của Đức. Vậy mà trên toàn thế giới vẫn chưa đâu có được một kho chứa vĩnh viễn dành cho chất thải hạt nhân có độ phóng xạ cao,[19] mới chỉ có những kho cho chất thải có độ phóng xạ thấp hoặc trung bình. Đây thực sự là một trong các bi kịch của giấc mộng hạt nhân.

Ở Mỹ, dự án xây dựng kho chứa vĩnh viễn chất thải hạt nhân Yucca Mountain được Quốc hội thông qua năm 2002, nhưng lại bị dừng lại vào năm 2011 do sức ép của chính quyền Obama.[20] Hiện nay không có kế hoạch xây dựng kho chứa vĩnh viễn nào khác, và các nhà máy điện hạt nhân buộc phải tiếp tục lưu trữ vô thời hạn chất thải phóng xạ trong khu vực của mình.[21] Đó không phải là giải pháp, mà chỉ thể hiện sự lúng túng, bất lực của con người. Hiện nay, các nhà máy điện hạt nhân ở Mỹ chỉ được hoạt động không quá 60 năm (kể cả thời gian gia hạn). Sau đó, bình thường thì người ta cũng phải dỡ bỏ chúng. Dỡ bỏ rồi thì lấy đâu ra “khu vực của mình” nữa để mà chứa khối chất thải đã dồn lại suốt nửa thế kỷ? Chỉ cần nhắc đến trường hợp của cường quốc số một USA, nơi sản xuất hơn 30% lượng điện hạt nhân của thế giới,[22] cũng đủ để ta nhận thấy sự bế tắc toàn cầu.

Hiện nay, người ta đang xây dựng một kho chứa vĩnh viễn cho chất thải có độ phóng xạ cao ở Olkiluoto,[23] Phần Lan. Nhưng có thành công và hiệu quả hay không thì còn phải chờ mới biết. Vả lại, nó cũng nhỏ tới mức chỉ để chứa chất thải của hai nhà máy điện hạt nhân Olkiluoto[24] và Loviisa.[25] 

Trong bế tắc chung, CHLB Đức rơi vào hoàn cảnh trớ trêu là: Một mặt chính quyền quy định các kho chứa tạm thời trong khu vực nhà máy chỉ được hoạt động trong 40 năm và thời hạn ấy đến nay đã hết hoặc sắp hết; mặt khác chính quyền lại không thu xếp được kho chứa vĩnh viễn cho chất thải hạt nhân có độ phóng xạ cao để người ta chuyển đến.

Rõ ràng, sau hơn 55 năm nghiên cứu và sản xuất điện hạt nhân, loài người vẫn bế tắc, chưa tìm ra được giải pháp toàn diện để xử lý chất thải hạt nhân, đặc biệt là công nghệ để lưu giữ vĩnh viễn các chất thải có độ phóng xạ cao. Những người quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam có biết điều này hay không? 

Đến đây, chắc mọi người cũng nhận ra lời hứa của Nga[26] và Nhật Bản[27] trong việc giúp đỡ Việt Nam xử lý chất thải điện hạt nhân có trọng lượng thế nào. Nếu Nga và Nhật Bản chỉ hứa giúp ta tạo ra các kho chứa tạm thời thì tất nhiên họ làm được, như vẫn làm ở nước họ. Nhưng rồi sau đó thì sẽ tiếp tục thế nào? Chẳng nhẽ những người đứng ra ký kết xây dựng nhà máy điện hạt nhân nghĩ rằng bảo quản được chất thải hạt nhân trong 40–50 năm là tốt lắm rồi, khỏi phải suy nghĩ thêm. Nếu vậy thì nên lưu ý rằng: Khi các “nô bộc” năm xưa vui vẻ bay nhảy trên thiên đường, vẫn còn hàng triệu con Lạc, cháu Hồng đang sẻ chia dải đất trần gian chật hẹp hình chữ S này. Nếu Nga và Nhật Bản hứa sẽ giúp ta xây dựng cả kho chứa vĩnh viễn cho chất thải hạt nhân có độ phóng xạ cao thì quả là đại ngôn, vì họ cũng chưa lo được cho chính mình cái thứ ấy, nói gì đến giúp đỡ bạn bè quốc tế. Có thể sau này những người đại diện cho phía Việt Nam sẽ biện hộ là họ bị lừa. Nhưng vào thời buổi kinh tế thị trường, chỉ cần chi đủ tiền là có thể phán bất cứ điều gì trên đài báo, miễn là không động chạm đến chuyện nhạy cảm chính trị, thì đáng trách hơn không phải là kẻ ba hoa, mà là người gật gù tán thưởng.

Thành thật mà nói, nếu chưa tìm được công nghệ phù hợp để xử lý thì tốt nhất cứ tạm bảo quản chất thải hạt nhân một cách tương đối “lồ lộ”, cho dễ nhớ món nợ ở đời và để sau này cũng dễ xử lý hơn. Chứ nếu dại dột, làm liều theo kiểu “đào sâu, chôn chặt”, thì sau này con cháu lại mất công moi lên xử lý, vừa càng tốn kém, vừa thêm nguy hiểm.

Qua trao đổi về mức độ khó khăn, phức tạp của việc xử lý chất thải hạt nhân, ta có thể mường tượng được là chi phí cho công đoạn này tất nhiên không nhỏ. Thật vậy, có thể minh họa điều ấy bằng một số ví dụ cụ thể từ CHLB Đức. Để kết thúc hoạt động và dỡ bỏ cơ sở tái chế nhiên liệu hạt nhân Karlsruhe,[28] người ta dự tính sẽ phải chi khoảng 1,6 tỷ Euro (theo ước lượng vào năm 2007).[29] Chi phí để đóng cửa kho chứa vĩnh viễn Morsleben[30] là khoảng 2,2 tỷ Euro.[31] Sau một thời gian sử dụng mỏ muối đã khai thác Asse II[32] để chứa thử nghiệm 14.800 thùng chứa chất thải hạt nhân với độ phóng xạ trung bình, rồi phát hiện ra sự rò rỉ của dung dịch muối và nguy cơ sập mỏ, người ta đã phải quyết định dọn dẹp toàn bộ khu mỏ ngầm và đưa các thùng chất thải ra khỏi lòng đất (từ độ sâu 975 mét). Theo kế hoạch sẽ chi 2 tỷ Euro cho việc này, nhưng các chuyên gia dự đoán là chi phí có thể lên đến 6 tỷ Euro.[33] Đấy là mới kể đến chi phí để đóng cửa các cơ sở xử lý chất thải hạt nhân. Tất nhiên trước đó phải mất nhiều tiền của để khảo sát, thiết kế, xây dựng và vận hành các kho chứa ấy. Tất cả gộp lại thành một khoản rất lớn.

Ở Đức, chi phí xử lý chất thải phóng xạ không do chủ nhân của các nhà máy điện hạt nhân đảm nhiệm, mà do nhà nước chi trả, tức là dùng tiền của người đóng thuế.

Vì phần lớn các kho chứa chất thải đều đang là tạm thời và do chưa xác định được công nghệ hợp lý để lưu chứa vĩnh viễn một cách đại trà chất thải có độ phóng xạ cao, không ai có thể nói được cái giá cuối cùng phải trả cho việc xử lý chất thải điện hạt nhân sẽ là bao nhiêu? Những người quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam có biết điều này hay không? 

Hậu quả chưa tính 

Có một dạo người ta rất hồ hởi với những hợp đồng đầu tư kéo dài 50 năm, đại khái là sẽ được ăn chia trong suốt nửa thế kỷ và khi hợp đồng kết thúc thì được không cả nhà máy. Có biết đâu là chưa kịp hết hạn hợp đồng thì máy móc đã hỏng gần hết hay công nghệ đã trở nên quá lạc hậu, có tận dụng tiếp thì cũng chỉ càng làm càng lỗ. Lẽ ra, phải yêu cầu chủ đầu tư phá nhà máy đi để trả lại hiện trường ban đầu, thì đằng mình lại ngây ngô mong được tiếp quản. Đối với các nhà máy thông thường thì việc trả giá cho sai lầm ấy cũng không quá đắt. Có tiền thì đập, chỉ mấy tháng là xong. Không có tiền thì cứ để tạm đấy, xấu cảnh quan một chút cũng chẳng sao, bởi “quê mình đâu mà chẳng thế”. Nhưng đối với các nhà máy điện hạt nhân thì câu chuyện lại hoàn toàn khác. Nếu không tháo dỡ một cách cẩn thận thì chúng sẽ là nguồn hiểm họa lâu dài cho sự sống và môi trường. Và chi phí để dỡ bỏ một nhà máy điện hạt nhân và khôi phục lại môi trường là rất lớn.

Vì lý do an toàn, việc tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân được tiến hành rất nghiêm ngặt. Phải lần lượt tháo các bộ phận của nhà máy, rồi phải xử lý từng tí một, và cuối cùng đưa chúng vào bảo quản cách ly trong các kho chứa vĩnh viễn.

Một trong những “phương tiện” quan trọng nhất cho quá trình tháo dỡ là thời gian, phải đủ dài để phân rã phóng xạ đã nhiễm vào từng kg vật liệu. Chính vì vậy, việc tháo dỡ một nhà máy điện hạt nhân kéo dài ít nhất 15 đến 20 năm, và thường thì còn lâu hơn nữa. Ví dụ, ở nhà máy Rheinsberg, nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Đức, do toà nhà chứa lò phản ứng bị nhiễm nặng coban 60 nên phải đợi 30 năm mới có thể dỡ bỏ nó được.[34] Ngoài nhà máy điện hạt nhân, có lẽ không còn có loại công trình nào mà thời gian dỡ bỏ dài gấp nhiều lần so với thời gian xây dựng. Đấy là đối với những nhà máy có số phận bình thường, còn với những nhà máy đã gặp đại họa như Chernobyl[35] và Fukushima Daiichi[36] thì có lẽ con người sẽ phải chấp nhận cho chúng hiện diện mãi trên bề mặt trái đất, như tượng đài nhắc nhở muôn đời.

Chi phí cần thiết để tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân cũng rất lớn. Từ năm 1995, người ta bắt đầu dỡ bỏ nhà máy điện hạt nhân Rheinsberg (được xây dựng trong khoảng thời gian 1960-1966, với công xuất 80 MW)[37] và nhà máy điện hạt nhân Greifswald (được xây dựng trong những năm 1970, với 5 tổ máy có công suất 440 MW mỗi tổ).[38] Chính phủ Đức dự tính chi 3,2 tỷ Euro cho việc dọn dẹp hai nhà máy này, trong khi EWN (cơ quan thực hiện việc tháo dỡ) đưa ra con số cao hơn là 4,1 tỷ Euro.[39] 

Có thể kể thêm ra đây dự kiến chi phí tháo dỡ của mấy nhà máy nữa của Đức, đó là nhà máy Mülheim-Kärlich (1302 MW) với 750 triệu Euro, nhà máy Stade (672 MW) với 500 triệu Euro, nhà máy Obrigheim (357 MW) với 500 triệu Euro.[40] 

Qua đó ta thấy, chi phí để tháo dỡ các nhà máy điện hạt nhân là rất cao. Những người quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam có biết điều này hay không? 

Ở Đức, tiền thuế của dân được dùng để chi cho việc tháo dỡ này. Nhưng chi đến đâu thì biết đến đó. Chưa chi thì chưa tính. Bây giờ, mới có mấy nhà máy phải tháo dỡ và còn nhiều nhà máy đang cung cấp điện, thì chi phí tháo dỡ chia cho lượng điện cũng còn tạm được. Nhưng 10 năm nữa, khi phần lớn các nhà máy điện hạt nhân phải được tháo dỡ và chỉ còn một hay hai nhà máy đang hoạt động, thì tổng chi phí tháo dỡ chia cho lượng điện lúc đó sẽ là bao nhiêu? Nếu tính cả khoản bao cấp này thì giá thành của điện hạt nhân lúc đó sẽ là bao nhiêu? 

Hiểm họa khôn lường 

Chẳng muốn nhắc lại, vì nỗi đau của bạn cũng là nỗi đau của chính mình. Nhưng cố quên đi thì sẽ quên cả những bài học mà loài người đã phải trả giá quá đắt. Thôi đành điểm lại hai sự kiện tang thương, một cái mới xảy ra nên chưa hết cơn đau, một cái đã 25 năm rồi mà vẫn còn hoảng hốt.

Thảm họa Chernobyl 1986 đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề, gây thiệt hại nhiều trăm tỷ USD cho nền kinh tế trong hơn 2 thế kỷ qua. Riêng Belarus, ước lượng thiệt hại trong 30 năm khoảng 235 tỷ USD. Hàng năm, Ucraina phải chi 57% ngân sách để giải quyết hậu quả Chernobyl. Thiệt hại về kinh tế là khổng lồ, nhưng thiệt hại lớn nhất là về con người. Hơn 5 triệu người sống ở 3 nước Belarus, Nga, Ukraine được xếp loại bị nhiễm xạ, trong đó có 400.000 người sống trong vùng nhiễm xạ nặng hơn. Trong năm 1986, 116.000 người đã phải sơ tán ra khỏi khu vực quanh nhà máy. Sau đó khoảng 220.000 người nữa phải di dời khỏi nơi ở cũ. Hàng năm, ba nước liên quan đã chi những khoản tiền lớn để giúp đỡ những người bị nạn. Chẳng hạn, số tiền mà Belarus chi vì Chernobyl trong khoảng thời gian từ 1991 đến 2003 là khoảng 13 tỷ USD. Song về phía người nhận thì chẳng đáng là bao, vì số tiền ấy phải chia ra cho khoảng 7 triệu người sống ở cả ba nước.[41] Nhưng họ vẫn còn may hơn khoảng 4.000 người đã bị chết oan vì thảm họa này.[42]
Thảm họa Fukushima 2011 mới xảy ra và vẫn còn tiếp diễn, nên chưa thể đánh giá hết thiệt hại về người và của. Nhưng những gì đã biết cũng đủ để chúng ta phải suy nghĩ rất nghiêm túc.

TEPCO (Tokyo Electric Power Company, Tập đoàn Điện lực Tokyo)[43] có 17 lò phản ứng hạt nhân, với tổng công suất 17.308 MW, trong đó nhà máy Fukushima Daiichi[44] (nơi xảy ra thảm họa) có 6 tổ máy với tổng công suất 4.696 MW và vận hành từ 1971, nhà máy Fukushima Daini[45] có 4 tổ máy với tổng công suất 4.400 MW và vận hành từ năm 1982, nhà máy Kashiwazaki Kariwa[46] có 7 tổ máy với tổng công suất 8.212 MW và vận hành từ năm 1985.[47] Kenichi Oshima, giáo sư về kinh tế môi trường của Ritsumeikan University ở Kyoto, đã phân tích các báo cáo tài chính của TEPCO trong 38 năm, kể từ khi tổ máy điện hạt nhân đầu tiên hoạt động vào năm 1971 đến tháng 3/2008, và rút ra rằng tổng lợi nhuận mà TEPCO thu được trong thời gian này từ kinh doanh điện hạt nhân là khoảng 49,5 tỷ USD. Toàn bộ lợi nhuận này có lẽ không đủ để TEPCO bồi thường thiệt hại do thảm họa Fukushima gây ra. Theo Mainichi Daily News, chưa rõ mức mà TEPCO sẽ phải bồi thường, nhưng một số công ty tài chính ước lượng khoảng 8.000 đến 11.000 tỷ Yên,[48] tức là khoảng từ 99 đến 136 tỷ USD. Đúng là lợi bất cập hại.

TEPCO ước lượng phải chi 650 triệu USD cho việc xử lý khoảng 84.700 tấn nước làm lạnh bị nhiễm xạ đã rò rỉ.[49] Không biết phải bao lâu mới khắc phục xong chức năng làm lạnh, chỉ biết sau đó thì mới thực sự bắt đầu dọn dẹp được. Theo Hitachi – nhà sản xuất các lò phản ứng của nhà máy Fukushima Daiichi – thì phải cần 30 năm mới hoàn thành việc tháo dỡ các lò phản ứng bị hư hại.[50] Nhưng có lẽ đó là một nhận định quá lạc quan.

Michio Kaku, giáo sư của City University of New York, cho rằng nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi là một quả bom nổ chậm. “Bây giờ chúng ta biết rằng 100% các thanh nhiên liệu trong cả 3 lò phản ứng đã bị nóng chảy và mức độ phát xạ có thể so sánh với Chernobyl.” Theo ông, thời gian dọn dẹp sẽ kéo dài 50-100 năm.[51] 

Những điều được nhắc đến ở trên mới chỉ phản ánh một vế của vấn đề, liên quan đến thiệt hại kinh tế của chủ sở hữu TEPCO. Nửa còn lại, liên quan đến số phận người dân, mới là điều đáng nói hơn. Hơn sáu chục nghìn người phải bỏ nhà cửa ra đi, chưa biết ngày trở lại. Hàng trăm nghìn người bị ảnh hưởng về sức khỏe và kinh tế.[52] Họ sẽ nhận được gì? Cái gì sẽ bù đắp nổi những mất mát về sinh mạng và sức khỏe? Tác động di truyền sang hậu thế sẽ kéo dài bao lâu?

Ngay ở các cường quốc công nghiệp hàng đầu, nếu có thảm hỏa xảy ra, gánh nặng hậu quả vẫn đè nặng lên vai người dân là chính. Theo điều luật sửa đổi năm 2002 của Luật nguyên tử CHLB Đức,[53] chủ nhân của nhà máy điện hạt nhân chỉ phải đóng bảo hiểm cho mức bồi thường cao nhất là 2,5 tỷ Euro đối với các thiệt hại do sự cố hạt nhân gây ra. Ngoài ra, nếu cần thì chủ nhân nhà máy điện hạt nhân phải sử dụng toàn bộ tài sản của mình để bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp gặp thiên tai nặng nề, chiến tranh và những khủng hoảng tương tự. Điều đó có nghĩa là thế nào? Nếu chủ nhân nhà máy điện hạt nhân đã trắng tay, hay nếu sự cố hạt nhân do thiên tai nặng nề góp phần gây ra, thì tất cả những người bị thiệt hại chỉ có thể chia nhau số tiền tối đa là 2,5 tỷ Euro, là mức đã được đóng bảo hiểm. 2,5 tỷ Euro thì không ăn thua gì so với thiệt hại mà một sự cố hạt nhân có thể gây ra. Nếu thiệt hại nhiều hơn thì người dân phải ráng mà chịu lấy. Để thấy hết mức độ ai oán của muôn dân, nên lưu ý rằng Luật nguyên tử CHLB Đức đã thuộc loại “vì dân” nhất, và 2,5 tỷ Euro là mức độ bảo hiểm đã được sửa đổi bằng cách nhân lên 10 lần so với quy định trước năm 2002. 

Chắc chắn, cái giá mà người dân phải trả là không nhỏ. Đau thay, những trả giá ấy lại không bao giờ được các hãng kinh doanh điện hạt nhân và các chính phủ ủng hộ họ tính vào giá thành của điện hạt nhân. Nghĩ đến đây, ta thấy thấm thía hơn nhận định của GS Joseph Stiglitz,[54] một nhà kinh tế học lỗi lạc của thế giới, đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2001:
Cuộc khủng hoảng hạt nhân Fukushima của Nhật Bản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là hai thảm họa có cùng nguyên nhân: Các nhà quản lý và các nhà chính trị lừa dối xã hội về nguy cơ rủi ro của những thảm họa này. Họ không chỉ vô trách nhiệm trong nhiệm vụ của mình mà còn là những kẻ trục lợi từ việc duy trì nguyên trạng. Họ tiếp tay cho việc hình thành và duy trì một hệ thống giúp họ kiếm tiền đồng thời bảo vệ họ khỏi bị truy tố, một hệ thống nhằm xã hội hóa các tổn thất và tư nhân hóa những thắng lợi. Họ đặt cược cả Trái đất trong canh bạc lợi cho số ít và chắc chắn thiệt hại cho tất cả. [55]

Những lời thấm đẫm nhân văn và đầy trách nhiệm của Joseph Stiglitz, một người bạn gần gũi của nhân dân Việt Nam, đưa ta về lại với quê hương, cùng sẻ chia âu lo với đồng bào lam lũ. Nếu có sự cố hạt nhân xẩy ra, nhân dân cả nước phải trả tất cả những gì mà Chính phủ và bộ máy đứng ra chi, đồng thời chịu hết những thiệt hại mà nền kinh tế quốc dân và môi trường phải gánh. Riêng người dân ở gần nhà máy thì dù thiệt hại về người và của lớn bao nhiêu cũng phải ráng mà chịu. Với một nền kinh tế yếu như thế này, với một hệ thống bảo hiểm như thế này, thì dù muốn cũng không lấy đâu ra đủ tiền để khắc phục hậu quả. Đấy là chưa kể đến trạng thái ai cũng hồn nhiên như không hề có tội. Lẽ ra phải bồi thường thì gọi là trợ giúp, mà đã là giúp thì ít mấy cũng đã quý rồi, còn đòi gì nữa? Lúc đó, mọi khoản bồi thường và trợ giúp chỉ có ý nghĩa tượng trưng, để quay phim, chụp ảnh, quảng cáo trên đài, báo mà thôi.

Đồng bào nghĩ đến điều này chưa khi bày tỏ Người dân đã đồng thuậnvới dự án điện hạt nhân Ninh Thuận?[56] 

Một khi tính đủ 

Câu hỏi quan trọng đối với các nhà đầu tư là nếu tính đúng, tính đủ thì giá thành sản phẩm là bao nhiêu và có cạnh tranh được trên thị trường hay không? Đối với điện hạt nhân thì không thể trả lời chính xác vế thứ nhất, vì có nhiều chi phí khổng lồ mà ta chưa thể biết hết. Nhưng chỉ cần ước lượng một cận dưới đủ lớn của giá thành thì cũng đủ để đưa ra câu trả lời phủ định cho vế thứ hai.

Mới cộng mấy khoản bao cấp ở CHLB Đức đã thu được giá thành điện hạt nhân là 136 USD/MWh, cao hơn hẳn giá thành điện từ than (87–94 USD/MWh), điện từ khí (93 USD/MWh) và gần bằng giá thành điện từ gió biển (143 USD/MWh). Nếu cộng thêm những phí tổn còn chưa trả cho việc xử lý chất thải hạt nhân và phí tổn chưa tính cho việc tháo dỡ các cơ sở hạt nhân và tái tạo môi trường, thì chắc là giá điện hạt nhân sẽ vượt qua tất cả các dạng điện năng khác. Đúng như TS Benjamin Sovacool (National University of Singapore) đã viết: 
Nếu toàn bộ chu kỳ nhiên liệu hạt nhân được tính đến – không chỉ các lò phản ứng mà cả các mỏ khai thác và nhà máy nghiền uran, cơ sở làm giàu quặng, nơi bảo quản nhiên liệu đã sử dụng và các nhà máy ngừng hoạt động – thì điện hạt nhân tỏ ra là một trong những nguồn năng lượng đắt nhất”.[57]

Như vậy ta mới chỉ đề cập đến chi phí của các công đoạn khác nhau trong dây chuyền điện hạt nhân. Về chi phí bảo hiểm để khắc phục sự cố hạt nhân, như đã đề cập ở phần trên, mức bảo hiểm được áp dụng khắp nơi trên thế giới còn quá quá thấp, kém rất nhiều so với đòi hỏi của thực tế.

Theo Greenpeace,[58] nếu các nhà máy điện hạt nhân cũng phải đóng bảo hiểm bồi thường tai nạn như các khu vực kinh tế khác thì giá điện hạt nhân ở CHLB Đức sẽ lên đến 2,70 Euro/kWh, tức khoảng 3,85 USD/kWh, hay 3.850 USD/MWh (theo tỷ giá ngày 10/7/2011). Khi ấy, giá điện hạt nhân sẽ cao gấp khoảng 43 lần so với  điện từ than, 41 lần so với  điện từ khí và 27 lần so với  điện từ gió biển. Như vậy đã quá đủ để Andree Boehling, chuyên gia năng lượng của Greenpeace, đưa ra kết luận: Năng lượng nguyên tử không chỉ là dạng điện năng nguy hiểm nhất mà còn là đắt nhất. 

Markus Rosenbaum,[59] Giám đốc quản lý của Versicherungsforen Leipzig GmbH, đã đặt ra câu hỏi: Liệu có thể bảo hiểm cho các nhà máy điện hạt nhân hay không? Ai sẽ phải gánh chi phí nếu thảm họa hạt nhân ở tầm gọi là Super-GAU (ví dụ như Chernobyl 1986 và Fukushima 2011) xảy ra ở Đức? Sau khi đưa ra đánh giá rằng Super-GAU có thể gây ra thiệt hại đến mức cao nhất là 6.000 tỷ Euro, trong khi chủ nhân của các nhà máy điện hạt nhân chỉ sẵn sàng nộp bảo hiểm cho mức độ bồi thường đến 3 tỷ Euro, Rosenbaum kết luận: Không thể bảo hiểm được các nhà máy điện hạt nhân! Nếu xảy ra thảm họa thì những người đóng thuế sẽ phải nhảy vào mà lo liệu. 

Đến đây, ta đã có thể kết luận là: Điện hạt nhân đắt nhất, đến mức hoàn toàn không có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các dạng điện năng khác. 

Khi tra cứu trên Google vào ngày 10/7/2011, cụm từ tiếng Anh “nuclear power is the most expensive *” (tức là “điện hạt nhân là * đắt nhất”) xuất hiện khoảng 1.550.000 lần. Mệnh đề “Atomkraft ist am teuersten – sie kostet das Leben” (bằng tiếng Đức, nghĩa là “điện hạt nhân là đắt nhất – vì phải trả bằng mạng người”) cũng xuất hiện 1.330 lần.

Thiết tưởng, cũng không cần phải thuyết phục thêm nữa, thì mọi người đều đã đồng ý... Tiếc thay, nghĩ như vậy là quá chủ quan. Không phải mọi người đều nghĩ như vậy.

Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên VietNamNet với tựa đề “Điện hạt nhân: Rẻ, an toàn, chỉ nhân lực là... chưa ổn!”, ông Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn nói rằng:
Trong báo cáo dự án tiền khả thi giá điện được tính như sau: Với suất đầu tư 1676 USD/kWe thì giá của điện hạt nhân là 3,52 cent/kWh...[60]

Giá này được tính trên cơ sở chiết khấu 10%, và cũng được đề cập trong bài “Nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận: Lòng dân đã thuận” đăng trên báo Công Thương ngày 27/10/2010.
Có lẽ bài này đóng vai trò đặc biệt nên nó đã được đăng lại ở nhiều nơi, như báo điện tử Quân Đội Nhân Dân,[61] trang nhà của Tổng công ty Điện lực miền Nam,[62]...

Như vậy, quan điểm của những người lính tiên phong trong việc đưa nhà máy điện hạt nhân vào Việt Nam khác xa với những điều đã được trình bày ở trên. Điều đó cũng không có gì lạ, vì không phải ai cũng nghĩ như chúng ta. Vậy thì tìm hiểu thêm những thông tin của “phía bên kia” vậy.

Theo thông tin trên trang web “The Economics of Nuclear Power[63] của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới, giá thành của điện hạt nhân vào năm 2010 khi chiết khấu 10% là 10,9 cent/kWh ở Bỉ, 8,3 cent/kWh ở Đức, 10,5 cent/kWh ở Hà Lan, 4,2–4,8 cent/kWh ở Hàn Quốc, 12,2 cent/kWh ở Hungari, 7,7 cent/kWh ở Mỹ, 6,8 cent/kWh ở Nga, 7,6 cent/kWh ở Nhật Bản, 9,2 cent/kWh ở Pháp, 11,5 cent/kWh ở Séc, 9,8 cent/kWh ở Slovakia, 9,0–13,6 cent/kWh ở Thụy Sĩ, và 4,4–5,5 cent/kWh ở Trung Quốc.

Như vậy, không nước nào trong số kể trên có giá điện hạt nhân rẻ như trong dự án của Việt Nam. Đặc biệt, giá 3,52 cent/kWh ở Việt Nam chỉ bằng 51,76% so với giá ở Nga, trong khi Nga lại chính là đối tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Lưu ý là phía Nga không chỉ cung cấp thiết bị, nhiên liệu hạt nhân[64] và cam kết giúp ta xử lý chất thải hạt nhân,[65] mà còn xây dựng và vận hành nhà máy Ninh Thuận 1 trong thời gian đầu.[66] Tại sao một sản phẩm gần như trọn vẹn của Nga ở Việt Nam lại có thể rẻ bằng một nửa so với ở Nga? Tương tự như vậy, đối với nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2, một khi Nhật Bản đã “chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác xử lý chất thải và cung cấp nhiên liệu ổn định trong toàn bộ thời gian của dự án[67] thì làm sao nhà máy này có thể sản xuất ra điện với giá thành chỉ bằng 46,32% so với ở Nhật Bản?

Tất nhiên, ta cũng hiểu là những số liệu kiểu này thường không thống nhất, mỗi nơi một khác và chỗ nào cũng có lý riêng của mình. Nhưng trang web của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới thì chắc đã đưa tin theo hướng có lợi cho điện hạt nhân, tức là không thể cố ý tăng giá điện hạt nhân, làm cho nó trở nên đắt đỏ hơn mức cần thiết. Vậy mà giá của họ lại cao hơn quá nhiều so với giá được nêu ra trong dự án tiền khả thi nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam. Không hiểu các tác giả dự án tính toán thế nào để có được giá rẻ như vậy? Tiếc rằng Google lại không giúp ta tìm được văn bản này để tìm hiểu, trong khi lẽ ra các dự án tiêu tiền của dân phải được công khai với dân. Bưng bít thông tin là điều kiện yếm khí để nảy sinh nghi ngờ và tin đồn đại, rồi chính người dấu thông tin cũng phải chịu một phần hậu quả. Đành phải suy luận gián tiếp vậy.

Trong bài trả lời phỏng vấn của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (Voice of America ngày 8/11/2010), ông Vương Hữu Tấn nói rằng:Thường tuổi thọ của nhà máy điện hạt nhân là cả trăm năm.”[68] Mệnh đề này nói lên điều gì? Theo thông tin của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới, ban đầu phần lớn các nhà máy điện hạt nhân được thiết kế cho tuổi thọ 25 đến 40 năm, nhưng sau này một số nhà máy được gia hạn hoạt động.[69] Ví dụ: Thời gian được phép vận hành của các nhà máy điện hạt nhân ở Nga là 30 năm, sau đó có thể được gia hạn thêm 15–25 năm.[70] Ở Mỹ, ban đầu các nhà máy điện hạt nhân được cấp phép hoạt động 40 năm, sau đó có thể gia hạn thêm 20 năm.[71] Muốn gia hạn thì gia hạn, nhưng đấy không phải là bằng chứng cho sự an toàn. Theo điều tra của hãng thông tấn AP (Associated Press), ít nhất 48 trong số 65 nhà máy điện hạt nhân của Mỹ (tức là khoảng ¾) bị rò rỉ chất phóng xạ tritium, với nồng độ vượt quá chuẩn an toàn cho nước uống của cộng đồng tại ít nhất 37 cơ sở, trong đó một số nơi vượt hàng trăm lần.[72] Ở Nhật Bản, 3 lò phản ứng hạt nhân hết hạn 40 năm được xét gia hạn thêm 10 năm, trong đó lò phản ứng số 1 của nhà máy Fukushima Daiichi mới được gia hạn trong tháng 2/2011 thì vấp phải sự cố ngày 11/3/2011. Từ giữa năm 2005, Nhật Bản bắt đầu nghiên cứu tính khả thi của một loại lò phản ứng LWR (Light Water Reactor) thế hệ mới với tuổi thọ 80 năm, nhưng khoảng năm 2020 mới hy vọng được triển khai trên thực tế.[73] Đối với những lò phản ứng hạt nhân thế hệ 3 đang vận hành hoặc đang được xây dựng trên thế giới thì thời gian hoạt động thông thường theo thiết kế là 60 năm.[74] Vậy là tuổi thọ của nhà máy điện hạt nhân đã được chuyên gia của ta phóng đại từ 40–60 năm lên “cả trăm năm”. Phải chăng điều đó cũng góp phần thu nhỏ giá điện hạt nhân? 

Chỉ với hai ví dụ trên cũng khiến ta phải đặt ra câu hỏi: Thông tin mà chuyên gia hạt nhân nòng cốt của Chính phủ đưa ra đáng tin đến đâu? Quốc hội có thể yên tâm, tin tưởng dựa vào những thông tin như vậy để ra quyết định về một vấn đề vô cùng hệ trọng như điện hạt nhân hay không? 

Đôi điều tâm sự

Cách đây khoảng hơn 20 năm, khi kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng và đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, có mấy lần người ta hỏi tôi: “Các anh cứ lúi húi nghiên cứu lý thuyết như thế thì có ích gì cho đất nước?” Lúc đầu tôi im lặng, vì chẳng cần người ngoài chà xát thì trong lòng cũng đã tự dày vò lắm rồi. Nhưng người ta cứ hỏi mãi, tưởng chân tình hóa ra đá xoáy, trong khi bản thân người đặt câu hỏi thì đang phá đất nước nhiều hơn là xây dựng, nên tôi không kìm lại nữa, mà rằng: “Nhược điểm của chúng tôi là vô ích, nhưng ưu điểm của chúng tôi là vô hại.”

Đến bây giờ tôi vẫn giữ quan điểm: Nếu càng làm, càng phá thì thà đừng làm còn hơn. Nếu công một, tội mười thì thà không công mà vô tội còn hơn. Bởi lẽ, nếu mình không làm thì đã có hàng triệu người khác làm, thậm chí còn làm tốt hơn mình; còn nếu mình làm mà gây hại thì có khi những người khác gắng mấy cũng không khắc phục nổi.

Cũng trong những năm tháng bế tắc của nước nhà, người ta sính trích dẫn Lê-Nin, đại khái là “nhiệt tình cộng với ngu dốt thì thành phá hoại”. Về điểm này thì chắc ông ấy đúng. Ở đây, Lê Nin ám chỉ các “nô bộc” nhiệt tình một cách vô tư, thứ mà nay đã dần hiếm đến mức nên ghi vào “sách đỏ”. Còn nếu không vô tư thì nhiệt tình cộng với thông minh cũng có thể thành phá hoại, càng thông minh thì khả năng phá càng cao.

Nói vậy để thống nhất với nhau một điểm là: Luôn phải cân nhắc thận trọng để hành động của mình không gây hại cho dân, cho nước. Người trí thức phải thận trọng, các nhà lãnh đạo quyền sinh, quyền sát lại càng phải thận trọng hơn. Tiền của riêng mình thì ngẫu hứng mua vui cũng được, nhưng với tiền và sinh mạng của nhân dân thì không được quyền tùy tiện. Đối với điện hạt nhân thì tuyệt đối không được phép ngẫu hứng, tuyệt đối không được quyền tùy tiện. 

Loài người đã phải trải qua hơn nửa thế kỷ với bao trả giá mới đến được nhận thức hôm nay về điện hạt nhân. Không ngộ nhận đi tắt đón đầu, nhưng nên cố mà đuổi theo, chứ đừng lao ngược dòng lịch sử.

Là trí thức thì phải tôn trọng tri thức khoa học, luôn học tập để mở rộng và cập nhật kiến thức, và quan trọng nhất là phải trung thực. Nếu các anh chị chuyên gia tham gia vào dự án điện hạt nhân thấy mình có đủ hiểu biết sâu sắc để đánh giá thực chất vấn đề, và thực sự thành tâm tin là Việt Nam nên xây dựng và phải xây dựng nhà máy điện hạt nhân, thì việc cổ động cho điện hạt nhân là quyền và nghĩa vụ của các anh chị, tôi hoàn toàn tôn trọng. Dẫu sao đi nữa thì chính các anh chị mới là những người đã được tuyển chọn để đào tạo một cách cơ bản và có nhiều kinh nghiệm hơn về vấn đề liên quan; còn tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, lo lắng quá thì cố gắng tìm hiểu, nên hiểu biết không vượt qua tầm lõm bõm, không tránh khỏi hiểu nhầm, sơ suất...

Chỉ xin mọi người đừng mang “tư duy dự án” vào lĩnh vực quá tốn kém cho đất nước và quá nguy hiểm cho con người như điện hạt nhân. Giữa thời buổi không chỉ “mở cửa” mà là “mở toang”, thì thiếu gì cửa để làm ăn. Hãy chừa lại một cửa cho Con Cháu, cho tương lai của Dân Tộc.
Hà Nội, 11/7/2011


Ghi chú: Tất cả các tài liệu được trích dẫn trong bài này đều được kết dẫn đến các địa chỉ lưu trữ tài liệu đó trên internet. Vì vậy, tốt nhất là đọc phiên bản điện tử nguyên vẹn của bài này để có thể nhanh chóng kết nối với các tài liệu gốc. Nếu khi nhấn chuột mà không thấy tài liệu tương ứng xuất hiện thì có thể đường kết nối đang bị trục trặc, hoặc chủ nhân trang web đã xóa tài liệu ấy sau ngày 11/7/2011.



[2] http://en.wikipedia.org/wiki: “Three Mile Island accident”
[3] http://en.wikipedia.org/wiki: “Chernobyl disaster”
[4] http://en.wikipedia.org/wiki: “Fukushima Daiichi nuclear disaster”
[6] World Nuclear Association: “The economics of nuclear power”
[7] Wall Street Journal 12/5/2008: “Wind ($23.37) v. Gas (25 Cents)
[8] EUROSOLAR-Info 4/2006: “Die Kosten der Atomenergie”
[10] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Kernenergie”
[11] Bettina Meyer, Swantje Küchler: “Staatliche Förderungen der Atomenergie im Zeitraum 1950 - 2010”, FÖS-Studie, 2010
[12] http://de.wikipedia.org/wiki: “Abklingbecken”
[14] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Abfalllager Gorleben”
[15] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Transportbehälterlager Ahaus”
[16] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Zwischenlager (Kerntechnik)”
[17] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Endlagerung”
[18] http://en.wikipedia.org/wiki: “Obninsk Nuclear Power Plant”
[19] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Kernenergie”
[22] World Nuclear Association: “Nuclear power in the USA”
[23] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Endlager Olkiluoto”
[24] http://en.wikipedia.org/wiki: “Olkiluoto Nuclear Power Plant”
[25] http://en.wikipedia.org/wiki: “Loviisa Nuclear Power Plant”
[28] http://de.wikipedia.org/wiki: “Wiederaufarbeitungsanlage Karlsruhe”
[30] http://de.wikipedia.org/wiki: “Endlager Morsleben”
[32] http://de.wikipedia.org/wiki: “Schachtanlage Asse”
[34] http://de.wikipedia.org/wiki: “Kernkraftwerk Rheinsberg”
[35] http://en.wikipedia.org/wiki: “Chernobyl Nuclear Power Plant”
[36] http://en.wikipedia.org/wiki: “Fukushima Daiichi”
[37] http://de.wikipedia.org/wiki: “Kernkraftwerk Rheinsberg”
[38] http://wikipedia.msn.de/wiki: “Kernkraftwerk Greifswald”
[39] Focus Magazin Nr. 12 (2011): Was kostet der Ausstieg?
[40] http://de.wikipedia.org/wiki: “Kernkraftwerk”
[43] http://en.wikipedia.org/wiki: “Tokyo Electric Power Company”
[45] http://en.wikipedia.org/wiki: “Fukushima Daini Nuclear Power Plant”
[50] Spiegel Online 16.05.2011: “Soufflé mit Kruste”
[52] http://de.wikipedia.org/wiki: “Nuklearkatastrophe von Fukushima”
[53] http://de.wikipedia.org/wiki: “Atomgesetz (Deutschland)”
[54] http://en.wikipedia.org/wiki: “Joseph Stiglitz”
[55] Joseph E. Stiglitz (Tia Sáng 20/5/2011): Đặt cược cả Trái đất vào sự rủi ro (Bùi Đại Dũng dịch)
[57] Benjamin K. Sovacool (1/2011): "Second thoughts about nuclear power"
[59] Stefan Schultz (Spiegel Online 11/5/2011): “Forscher errechnen horrende Haftpflicht-Kosten für AKW”
[62] Tổng công ty Điện lực miền Nam 29/10/2010: “Nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận: Lòng dân đã thuận”
[63] World Nuclear Association: “The economics of nuclear power”
[69] World Nuclear Association: “Plans for new reactors worldwide”
[70] World Nuclear Association: “Nuclear power in Russia”
[71] World Nuclear Association: “Nuclear power in the USA”
[72] Jeff Donnn (Associated Press 21/6/2011): “AP IMPACT: Tritium leaks found at many nuke sites”
[73] World Nuclear Association: “Nuclear power in Japan”
[74] World Nuclear Association: “Advanced nuclear power reactors”

*Bài viết do tác giả Hoàng Xuân Phú gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!
___________________________________________________
  
Dưới đây là lời giới thiệu của NXD về tác giả Hoàng Xuân Phú:

Giáo sư Tiến sỹ khoa học HOÀNG XUÂN PHÚ
Viện Toán học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Heidelberg
Viện sỹ thông  tấn Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria
.
Ông là tác giả của bài viết: MẠN ĐÀM VỀ AN TOÀN ĐIỆN HẠT NHÂN

TỪ "LỜI MẸ DẶN" ĐẾN TÌNH YÊU TỔ QUỐC

Hà Nội, 12.6.2011. Ảnh: Mai Kỳ.
Từ “Lời mẹ dặn” đến tình yêu Tổ quốc
Quốc Toản

Tôi đọc “Ba phút sự thật” của Phùng Quán vào cuối năm 2006. Hôm nay tự dưng tôi lại nhớ đến ông, nghĩ về ông. Ai đó nói: Người ta chỉ thực sự chết khi không còn sống trong lòng người khác. Phùng Quán, tên ông sẽ còn mãi. Một con người vượt lên khổ đau để được sống an nhiên, tự tại. Để được chết trong sự yêu thương, tôn kính của tất cả mọi người. Ông không chết. Ông mãi là tấm gương cho thế hệ trẻ hôm nay về lòng yêu nước.

Đọc “Ba phút sự thật” tôi đã khóc. Đọc “ba phút sự thật” mới thấy ông giản dị, chính trực và yêu thương đồng loại biết nhường nào.

Đọc “Ba phút sự thật” lại nhớ đến các nhà văn nhà thơ có tên tuổi, đến một ngày mắt mờ chân chậm, trước lúc trở về với cát bụi đã phải thốt lên lời sám hối. Dẫu muộn còn hơn không: “Đi tìm cái tôi đã mất” hay “Sau này ai đọc thơ tôi nên nhớ/ Những chữ cần đưa vào thơ tôi đã giết rồi...”vv...

Đọc “Ba phút sự thật” tôi kính trọng và thương yêu ông vô cùng. Hai tuổi đã phải mồ côi cha, 14 tuổi trở thành anh Vệ quốc quân. Đó là “Tuổi thơ dữ dội” trong cuộc đời Phùng Quán. Cả đời văn, ông chịu nhiều oan khuất. Nói đến ông, người ta có thể gói gọn bằng mấy chữ: “cá trộm, rượu chịu, văn chui”. Nhưng nhân cách Phùng Quán, tâm hồn Phùng Quán thấm đãm tình yêu con người. Dám nói, dám làm vì sự thật, vì nhân nghĩa.

Phùng Quán sống trong lòng dân, cảm thông với nỗi khổ của nhân dân. Chính vì thế ông đã chống tham nhũng bằng những vần thơ mạnh mẽ nhất. Bài thơ ông viết từ năm 1956, vậy mà hôm nay, những vần thơ ấy vẫn còn tươi mới và để cho chúng ta nhiều suy ngẫm, khi nạn tham nhũng tràn lan đang làm giảm lòng tin của nhân dân, là “Quốc nạn” là “sự mất còn của chế độ”:

“Còn bao tên chưa ai biết ai hay?
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy…
Chúng nảy nòi sinh sôi như dòi bọ
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có!”.
Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân dân!.”

(Bài thơ Chống tham ô lãng phí)

Phùng Quán -một bài học làm người cho thế hệ hôm nay:

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
(Bài thơ Lời mẹ dặn)

“Có phút ngã lòng/Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”. Đó chính là Phùng Quán!

Tôi, kẻ hậu sinh chỉ mong học được ở ông: Nói thật, viết thật, sống thật. Đừng bao giờ biến mình thành “văn nô”.

Tôi bắt đầu thấy chán những thứ văn chương đọc lên “chẳng để làm gì”, những thứ vô bổ, không mất lòng ai, anh anh em em, nhớ nhung, buồn bã, khóc lóc,...không để lại cho người đọc một nỗi niềm chia sẻ, cảm thông.

Tôi sợ những lời tung hô, nhưng lại ngoảnh mặt, thờ ơ với những gì đang diễn ra trong đời sống thực tại.

Đã có biết bao nhiêu diễn đàn nói về lòng yêu nước, nói về lý tưởng của thanh niên.Nhưng khi người dân biểu thị lòng yêu nước thì những vị đó không thấy lên tiếng.

Lúc này, nhiều người đang sợ sự thật. Nhiều người đang tránh xa sự thật.

Xin nói những lời chân thật nhất để không bao giờ ta phải sám hối.

Tôi không muốn kể ra đây tiểu sử và những trang văn của ông. Tôi chỉ muốn nói rằng, cuộc đời ông sẽ mãi là một bài học sống động cho những người dân yêu nước về nhân cách làm người. Nhân cách người chiến sỹ. Nhân cách nhà văn, kể cả những lúc cùng cực, cay đắng nhất.

Xin gửi tới những người yêu Tổ quốc bài thơ Lời mẹ dặn của Nhà văn Phùng Quán!

Lời mẹ dặn..

Phùng Quán
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi!
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
- Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ ấy người lớn hỏi tôi :
- Bé ơi, bé yêu ai nhất ?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời :
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không ! Những lời dặn đó
Như trang giấy trắng tuyệt vời,
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Những lời mẹ dặn thủa lên năm
Vẫn nguyên vẹn mầu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

(1957)
*Bài viết do tác giả gửi trực tiếp NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn!

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

THƯƠNG LẮM, VIỆT NAM!

Nguyễn Duy Xuân

     Tổ quốc như một sinh thể vĩ đại, tỏa sáng chói lòa sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và trong thơ Nguyễn Đình Thi:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!
     Hào hùng mang tầm vóc thời đại sau đại thắng mùa xuân 1975 và trong thơ Tố Hữu:
Việt Nam !
Người là ta, mà ta chưa bao giờ hiểu hết
Người là ai ? Mà sức mạnh thần kì
Giữa cái chết, không phút nào chịu chết
Lửa quanh mình, một tấc cũng không đi !
     Những năm tháng chiến tranh khói lửa, dẫu phải chịu nhiều đau thương tang tóc, nhưng Tổ quốc Việt Nam thật đáng tự hào !
     Ấy là chuyện của hơn 30 năm trước, đã trở thành kí ức, đã đi vào lịch sử.

     Bây giờ, xin nói chuyện nay.
     Từ độ cao 35.000 km của vệ tinh Vinasat1, hình ảnh Tổ quốc thật đẹp và duyên dáng. Vẫn màu xanh biêng biếc trải dài trong tư thế “nằm nghiêng nghiêng” bên bờ tây Thái Bình Dương trước thềm Biển Đông xanh một màu ngọc bích. Vẻ đẹp đó cứ hiện diện hàng ngày trong mỗi bản tin dự báo thời tiết trên truyền hình. Ở độ cao vũ trụ, những hình ảnh đó như đánh lừa cảm giác chúng ta. Zom lại gần trên Google mới thấy giật mình, cái màu xanh tràn đầy sức sống ấy của Đất Nước đang vỡ toang ra từng mảng lớn.
Chiếc áo rừng bươm rách
Những mảnh vá thời gian
     Chiếc áo da trên cơ thể Tổ quốc không còn lành lặn nữa. Rừng đại ngàn bị đẩy sang tận bên kia biên giới Lào, Campuchia. Những mảnh vá đụp nham nhở không đủ sức để chống chọi với thiên tai, giữ ấm cho cơ thể Tổ quốc. Còn đâu cái hình ảnh “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” của một thời đánh Pháp và đánh Mỹ ?
     Hồi mới đặt chân lên Tây Nguyên công tác, cách nay cũng đã hơn ba chục năm rồi, tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ trước thiên nhiên. Dọc các con lộ đất đỏ bụi mù, rừng đại ngàn bát ngát ngút tầm mắt. Sát đằng sau cơ quan tôi đã là rừng. Rừng len vào thị xã Buôn Ma Thuột một thời được gắn cho cái biệt danh “bụi mù trời”. Có những đoạn đường xe chạy qua, đang giữa ngày hè mà hành khách bỗng thấy rùng mình ớn lạnh bởi rừng quãng đó còn nguyên sinh, những cây gỗ to vươn cành che kín cả mặt đường.
     Thế mà chỉ sáu bảy năm sau, những cánh rừng đại ngàn ấy lần lượt biến mất bởi bàn tay độc ác của con người. Người ta phá rừng ồ ạt chỉ để lấy đất trồng bắp, trồng sắn. Đã có công trình khoa học cấp nhà nước với phát kiến tầm cỡ thời bao cấp: ăn bắp, ăn sắn cực bổ để mà cổ vũ cho cái chủ trương “đi ta đi khai phá rừng hoang” kia, một sự khai và phá đúng nghĩa. Ngày ấy, tôi là một giảng viên trẻ mới ra trường cùng các đồng nghiệp dẫn hàng ngàn sinh viên đi lao động xã hội chủ nghĩa, góp sức cùng đội quân phá rừng mà theo ngôn ngữ bây giờ gọi là “lâm tặc”. Tôi đã thấy hàng trăm hecta rừng bị đốn không thương tiếc. Hàng ngàn m3 gỗ quí bị xe ủi chất đống như núi để chờ đốt lấy than tro. Lãnh đạo cao cấp xuống thăm những khu rừng bị phá, ai nấy phấn khởi, tự hào còn hơn cả chiến tích thời đánh Mĩ. Nhiều vị nhờ công lao phá rừng mà được thăng quan, tiến chức. Chao ôi, bây giờ ngẫm lại, té ra mình cũng là lâm tặc, chí ít thì cũng là tiếp tay cho lâm tặc mà không hay biết, lại còn tự hào vì lớp mình phụ trách được tuyên dương bởi thành tích phá rừng vượt trội.
     Bây giờ nhìn lên cơ thể Tổ quốc mà thấy xót xa. Chiếc áo rừng bươm rách, tơi tả để lộ phần cơ thể đang nhức nhối, xói mòn sau mỗi trận lũ quét. Và những dòng sông cạn kiệt nguồn nước tự nhiên nhưng lại dư thừa mủ độc xả ra từ trăm ngàn nhà máy và khu công nghiệp. Chưa bao giờ như bây giờ, môi trường sống của tự nhiên và con người bị đe dọa gay gắt đến thế.

     Chưa hết.
     Trên cơ thể Đất Nước hiện nay lại xuất hiện vô số những vết lở loét. Hàng trăm, hàng ngàn mỏ khai khoáng hợp pháp và bất hợp pháp đang ngày đêm thọc sâu vào thịt xương Tổ quốc. Chiến tranh, bom đạn hủy diệt của quân thù, Tổ quốc vẫn nhẫn nại chịu đựng, vượt lên chết chóc, đau thương và chiến thắng bởi khát vọng độc lập, tự do. Còn bây giờ chính con cháu đang xẻ thịt, cắt da Đất Nước. Nỗi đau này chẳng thể nào nguôi được!

     Chưa hết.
     Cơ thể đớn đau của Tổ quốc đang mang trên mình những hiểm họa khôn lường. Nói Tổ quốc bao la chỉ là cách nói hình tượng của thi ca. Kì thực, nước ta đất chật, người đông. Mật độ dân cư hơn 260 người trên một cây số vuông, gấp năm sáu lần trung bình của thế giới. Thế mà nghịch lí thay, chúng ta lại còn cho nước ngoài thuê đất thì thật là khó hiểu. Trong khi nhiều nơi, không chỉ ở đồng bằng mà cả vùng rừng núi, dân không còn đất sản xuất thì hàng trăm ngàn hecta đất rừng đường biên, đất nằm sâu trong nội địa, có cả những vùng có vị trí chiến lược liên quan đến an ninh quốc phòng lại được các địa phương bán cho nước ngoài thuê mà giá mỗi m2 chưa mua nổi cọng rau muống. Tôi không nghĩ người ta tốt đến mức, bỏ tiền của hàng tỉ tỉ một cách vô tư để giúp ta phủ xanh đất trống đồi trọc mà không màng đến lợi nhuận như lời một vị lãnh đạo tỉnh Q đã nói khi trả lời phỏng vấn báo chí hồi năm ngoái. Ở những vùng đất cho thuê ấy (thời gian đến 50 mươi năm) người ta đang âm thầm cấy nấm độc lên cơ thể Tổ quốc để chờ thời.

     Chưa hết.
     Bây giờ lại xuất hiện những cái ung nhọt mới. Chuyện hàng ngàn lao động phổ thông Trung Quốc ào ạt nhập cư bất hợp pháp diễn ra suốt mấy năm nay mà chẳng ai quan tâm, dẫu biết rõ là vi phạm luật pháp Việt Nam. Điều đáng lo ngại ở đây là họ sang Việt Nam không chỉ làm công cho các dự án Trung Quốc thắng thầu. Họ còn muốn cố thủ ở lại. Bởi thế, những làng Tàu, phố Tàu mọc lên như nấm sau cơn mưa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình và nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Giữa trung tâm Thành phố Mới ở Bình Dương, chính quyền lại còn ưu ái xây sẵn một khu phố đặc biệt chỉ dành cho người Hoa do chính Công ty Becamex IJC tỉnh Bình Dương làm chủ đầu tư. Chao ôi! Thử tưởng tượng xem, nếu cả sáu mươi tư tỉnh thành noi gương Bình Dương thì sẽ có sáu mươi tư cái “tô giới” kiểu mới (mà bọn thực dân đã áp đặt cho Trung Quốc thời nô lệ) mang màu sắc Tàu. Đó sẽ là những pháo đài bất khả xâm phạm, để rồi... Tôi chợt nghĩ đến cái chiến thuật “nở hoa” của họ mới thấy người ta tính toán không phải cho hôm nay mà cho ngày mai. Cái ngày mai ấy thật đáng sợ. Họ thâm độc quá, còn ta thì cả tin, thật thà đến “ngờ nghệch” ?
     Khi tôi đang viết những dòng này thì trên các trang báo mạng đăng đầy ý kiến của ông Trần Văn Đoàn một học giả Đài Loan nhận xét về âm mưu bành trướng của Trung Quốc với việc áp dụng ba cách: “Cách thứ nhất là thúc đẩy những người Trung Quốc di dân ra các nước lân cận để lâu dần biến đó thành vệ tinh của Trung Quốc. Cách thứ hai, họ tìm cách lấn từng tấc đất, từng tấc biển. Trong quá khứ, họ đã bành trướng nước Trung Hoa từ vùng Hoàng Hà cho đến giờ vượt ra ngoài Mông Cổ đến Tây Tạng và xuống tận dưới Việt Nam và có thể sẽ đi xa hơn nữa. Bước thứ ba là họ muốn bành trướng theo kiểu kinh tế của người Mỹ. Tức là nếu họ nắm được kinh tế của những nước xung quanh thì họ có thể thống trị đất nước đó.”
     Một người Trung Hoa mà còn dám nói thẳng cái âm mưu xấu xa của đồng bào mình, còn ta đối tượng nhắm đến của ba cái cách nói trên của chính quyền Trung Quốc, sao lại chẳng dám tỏ thái độ ?

     Chưa hết.
     Nhìn từ vũ trụ, thấy ở các cửa khẩu phía Bắc có hai dòng chảy. Dòng chảy ra màu đỏ phải chăng là máu Tổ quốc đang bị hút sang bên kia biên giới? Người ta mua bất cứ thứ gì chỉ với mục đích hủy diệt nguồn sinh thái. Cho nên mới có chuyện xuất khẩu móng trâu bò, râu bắp ngô non, ba ba, rắn, cóc… Còn dòng chảy vào đất nước màu đen ngòm bởi những hàng hóa chứa đầy chất độc hại để ngấm ngầm đầu độc giống nòi ta ?

     Chưa hết.
     Những ngày qua, phần cơ thể Tổ quốc trên biển lại quặn đau. Đã đau thắt từ thuở Hoàng Sa bị chiếm. Bây giờ Biển quê hương lại cuồn cuộn triều dâng. Họ ngang nhiên, trắng trợn xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Quấy phá, bắt bớ cản trở tàu ta, ngư dân ta làm ăn trên vùng biển của mình. Lại còn đe dọa dùng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp, một sự tranh chấp vô cớ, vi phạm công pháp quốc tế.
     Ôi, Tổ quốc! Chưa bao giờ Người đứng trước thử thách mà lại khó xử như hôm nay. Những năm sau Cách mạng tháng Tám, vừa mới giành được độc lập đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài;  Đất Nước nghìn cân treo sợi tóc, thế mà Cụ Hồ anh minh đã khôn khéo chèo lái vượt qua mọi thác ghềnh. Những năm Sáu mươi (1964-1965) đứng trước câu hỏi lớn của thời đại, Cụ Hồ đã triệu tập Hội nghị Diên Hồng của thế kỉ Hai mươi để có câu trả lời của cả dân tộc: Đánh! Và mùa xuân năm 1979 lại một lần nữa sục sôi hào khí Đông A, lại vang lên hai chữ “sát thát” giữa thời hiện đại.

     Chưa hết.
     Tổ quốc còn đứng trước bao thách thức mới, bên ngoài và bên trong. Người như Mẹ hiền suốt đời nhẫn nại, chịu thương, chịu khó và bao dung. Chưa một phút giây Người được lắng mình trong bình an, thanh thản.
Thương lắm, Việt Nam !
24-6-2011
Nguyễn Duy Xuân
(Buôn Ma Thuột)

GIẤY MỜI NGUYỄN XUÂN DIỆN


BÁC GỐC SẬY BẢO BÀI NÀY HAY QUÁ, NÊN ĐỌC

GS Carlyle A. Thayer và Thạc sĩ Hoàng Việt tại Hội nghị quốc tế về Biển Đông. Ảnh: Mai Kỳ

Nhà cháu mới đọc bài: The South China Sea: Chinese Hegemony or Peaceful Settlement?  của GS Carlyle A. Thayer viết từ hôm 10/6/ 2011.Thấy có phần cuối HAY quá, các bác đọc chưa nhỉ?

If you were a Vietnamese, what would you do now?
- Nếu là một người Việt Nam ông sẽ làm gì lúc này?

ANSWER: If I were a Vietnamese citizen I would want to express my concern to the government about the threat to national sovereignty posed by Chinese actions.
Nếu là một người Việt Nam tôi sẽ bày tỏ sự lo ngại với chính phủ Việt Nam về nguy cơ về chủ quyền quốc gia do hành vi của Trung Quốc gây ra.

I would want my government to provide reassurance that it has a strategy to defend Vietnam’s sovereignty and to gain the sympathy and support of the world community.
Tôi muốn chính phủ đưa ra bảo đảm rằng họ đã có một chiến lược bảo vệ chủ quyền của Việt Nam và nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng thế giới.

I would like to see the Prime Minister, Foreign Minister and Defence Minister give public speeches in the major cities outlining their views. These should be broadcast on television and radio and printed in the media.
Tôi muốn thấy Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng có các bài phát biểu công khai về quan điểm của họ tại các thành phố lớn. Những bài phát biểu ấy cần được phát trên các đài phát thanh, truyền hình và in trên báo chí.

As a Vietnamese citizen I would keep myself as fully informed on developments in the South China Sea by reading as much as possible. I would want my government to provide information. Because this is a complex issue I would want to know the pros and cons of various policy options.
Nếu là một công dân Việt Nam tôi sẽ luôn tự giác nắm bắt đầy đủ thông tin về các diễn biến trên biển Đông và cố gắng đọc càng nhiều càng tốt. Tôi muốn chính phủ tôi cung cấp thông tin. Bởi vì đây là một vấn đề phức tạp, tôi muốn biết mặt lợi và mặt bất lợi của các chọn lựa chính sách.

If I were a student, I would want my lecturers to discuss this issue. I would like to know the views of leading Vietnamese and foreign scholars.
Nếu tôi là một sinh viên tôi sẽ muốn các thầy cô cho thảo luận vấn đề này. Tôi muốn biết quan điểm của các học giả hàng đầu của Việt Nam và nước ngoài.

If I had friends overseas I would want to exchange views with them. Above all I would want to know what is motivating China and how a peaceful resolution to this issue can be achieved.
Nếu có bạn bè ở nước ngoài tôi sẽ trao đổi quan điểm với họ. Quan trọng hơn, tôi muốn biết động cơ thực sự của Trung Quốc và làm thế nào để có thể đạt được một giải pháp hòa bình cho vấn đề này .

* Xin cảm ơn bác GỐC SẬY, và xin giới thiệu để cùng đọc.
 
.