Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011

NGUYỄN QUANG NGỌC: CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

.

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG CÁC THẾ KỶ XVII, XVIII, XIX: TƯ LIỆU VÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ

 .
Nguyễn Quang Ngọc*
                                       

Việt Nam có bờ biển dài, với vùng biển rộng. Biển và đảo suốt tiến trình lịch sử luôn luôn giữ vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.

Từ thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay, con người ở các vùng nội địa Việt Nam liên tục tiến ra chiếm lĩnh, khai phá, sinh cơ lập nghiệp trên các đảo, quần đảo. Bắt đầu từ  các thời Lý - Trần - Lê, Biển Đông đã trở thành chiến lược phát triển của quốc gia Đại Việt. Con đường mở mang bờ cõi xuống phía nam của dân tộc Việt Nam cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh biển, đảo. Đây chính là cơ sở hết sức quan trọng, một bước chuẩn bị thiết yếu để trong bối cảnh lịch sử mới, các chính quyền Đàng Trong đã thực hiện được kỳ tích tuyệt vời là xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

1. TỔ CHỨC CÁC ĐỘI HOÀNG SA VÀ BẮC HẢI, HÌNH THỨC ĐỘC ĐÁO DUY NHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÁC LẬP VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG QUẦN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG TRONG CÁC THẾ KỶ XVII-XVIII

Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lụccủa nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré...; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải.... 

Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về...

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản...

…  Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hoá nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm (Cát Vàng?) huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu (Nguyễn Phúc Khoát?) sai cai bạ Thuận Hoá là Thức Lượng hầu làm thư trả lời” [1].

Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực và có giá trị sử liệu cao, Lê Quý Đôn đã giớí thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.

Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh biên soạn, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Ý nghĩa củaĐại Việt sử ký tục biên chính là nó đã biến ghi chép khoa học, khách quan của Lê Quý Đôn thành một nội dung của bộ Quốc sử, chuyển tinh thần cơ bản của bản chép tay của Lê Quý Đôn thành bản khắc in chính thức trên danh nghĩa quốc gia.

Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, có đoạn mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải không khácPhủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên

Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo soạn năm 1686, phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ mỗi năm đến tháng cuối đông Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc Thích Đại Sán sau khi sang Đàng Trong, trên đường trở về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “các Quốc vương [Chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào”[2].

Thật ra từ thế kỷ XVI trở về trước, các nhà hằng hải phương Tây đã có nhiều ghi chép và bản đồ xác định vùng quần đảo giữa Biển Đông là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa) hay Pulo Capaa (Đảo của Chămpa)[3] và đoạn bờ biển tương đương với khu vực từ cửa biển Đại Chiêm (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi) được gọi là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa)[4]. Như thế từ rất lâu đời các nhà hằng hải phương Tây đã coi các quần đảo giữa Biển Đông có quan hệ hữu cơ với vùng bờ biển Đàng Trong. Bước sang thế kỷ XVII, số lượng tầu thuyền của người phương Tây đi đến vùng biển này thường xuyên hơn và nhận thức của họ về các quần đảo giữa Biển Đông cũng phong phú và chính xác hơn. Nhiều tư liệu chép đến các vụ đắm tầu ở Paracel được người Đàng Trong ra tận nơi cứu hộ rồi đưa các nạn nhân về Quảng Nam. Chính quyền Đàng Trong đã dành cho mình quyền giải quyết hậu quả và xử lý các hàng hoá tiền bạc trên các tầu bị đắm ở Hoàng Sa. Chính vì thế mà vào năm 1701, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam”[5].

Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây thế kỷ XVII đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa.

Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ trong thế kỷ XVII, đội Hoàng Sa được đề cập đến sớm nhất vào thời điểm nào và trong nguồn sử liệu nào?

Sử sách nhà Nguyễn đều chép thống nhất đội Hoàng Sa được tổ chức ngay từ thuở quốc sơ,tức là từ thời các Chúa Nguyễn đầu tiên. Tuy nhiên sách cũng không xác định rõ là Nguyễn Hoàng hay Nguyễn Phúc Nguyên hoặc Nguyễn Phúc Lan…?

Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15/Giêng/1775, do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...”. Tư liệu cho phép suy đoán lúc đầu chúa Nguyễn chỉ cho tổ chức một đội Hoàng Sa 70 suất, sau lập thêm đội Quế Hương và đến năm 1631 lại có thêm hai đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm 30 suất nữa.

Năm 1636, ng­uời Hà Lan đã đu­ợc phép mở một th­uơng điếm ở Hội An, d­ưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6-3, tại Hội An chúa Thư­ợng Nguyễn Phúc Lan đã tiếp Duijcker và nhân đó, Duijcker khiếu nại việc “chiếc tàu mang tên Grootenbroeck bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã đ­ược các ng­ười Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nh­ưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux”. Ông có nhiệm vụ xin đ­ược bồi hoàn số tiền đó. Chúa Nguyễn Phúc Lan cho rằng “những việc đó đã đ­ược xảy ra từ thời chúa tr­ước (tức chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ng­ược lại, ng­ười Hà Lan từ nay sẽ đ­ược hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, đ­ược miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá đ­ược cứu hộ nữa". Phải chăng những người Việt cứu giúp tầu Grootenbroeck bị đắm ở Hoàng Sa nói trên chính là người của đội Hoàng Sa, và như vậy càng có cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa chí ít đã xuất hiện từ đầu những năm 30 của thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). 

Bước sang thế kỷ XVIII, hoạt động chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng quần đảo giữa biển Đông càng trở nên nhộn nhịp thu hút sự chú ý nhiều người trong nước và nước ngoài. Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bên cạnh các tài liệu chính thức của nhà nước, của các địa phương còn có những ghi chép của các thương nhân, giáo sĩ, các nhà quân sự, các phái bộ ngoại giao nước ngoài và các học giả trong ngoài và nước.

Cũng đúng vào năm 1776 khi Lê Quý Đôn viết sách Phủ biên tạp lục khảo tả rất cụ thể về vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của đội Hoàng Sa, thì ở quê hương của đội Hoàng Sa, dân phường Cù Lao Ré làm đơn nói rõ đội Hoàng Sa đã có lịch sử lâu đời và bên cạnh chức năng thu lượm hoá vật, hải vật còn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ an toàn vùng biển đảo: “Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương... Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu dâng nạp. Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp...”[6].

Không chỉ thống nhất với các nguồn tư liệu chính thức của Nhà nước mà nguồn tư liệu này còn gắn liền với các di tích và truyền thuyết ở địa phương như miếu Hoàng Sa, những bến bãi đội Hoàng Sa xuất phát, thậm chí cả những ngôi mộ giả, những nghĩa địa giả với những nghi lễ hết sức đặc biệt của làng quê đưa tiễn những người con quả cảm của mình đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa, nguyện dấn thân vào cõi chết vì một vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Hoàng Sa đi có về không; Lệnh vua sai phái quyết lòng ra đi”.

2. TRIỂN KHAI HÀNG LOẠT CÁC HÌNH THỨC THỰC THI CHỦ QUYỀN Ở CẢ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TRONG GẦN TRỌN THẾ KỶ XIX

Dưới thời Nguyễn, những ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa phong phú, đa dạng với nhiều thông tin cụ thể trên cả hai khu vực tài liệu chính thức của vương triều và tài liệu của các học giả.

Bộ sách đồ sộ và có nhiều thông tin hơn cả về Hoàng Sa, Trường Sa là bộ Đại Nam thực lục Chính biên. Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã nhiều lần quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát Hoàng Sa được sách ghi lại như: “sai mộ dân ngoại tịch lập làm đôi Hoàng Sa” năm 1803; “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển” năm 1815 và năm 1816; nhận địa đồ đảo Hoàng Sa từ thuyền Mã Cao năm 1817...

Nhưng hoạt động thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã phát triển lên trình độ cao hơn dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh. Năm 1833, ông lập kế hoạch phái người ra Hoàng Sa dựng miếu, lập bia và trồng cây. Các năm 1834, 1835, ông cho người ra dựng miếu, đền thờ thần, lập bia đá và xây bình phong ở khu vực toà miếu cổ. Năm 1836, ông quyết định hàng năm phái người ra Hoàng Sa xem xét, đo vẽ tỉ mỉ và lập thành bản đồ các đảo, hòn, bãi cát. Khi ra đo đạc ngoài Hoàng Sa đội thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đã mang theo 10 bài gỗ, trên mặt khắc dòng chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Liên tục từ năm 1834 đến năm 1839 vua Minh Mệnh thưởng công cho những người đi vẽ bản đồ ở ngoài đảo Hoàng Sa về. Đối với những người không may gặp gió bão ngoài biển mà bảo toàn tính mạng trở về cũng có thưởng; còn những người không hoàn thành nhiệm vụ tuần phòng ngoài biển thì bị phạt nặng...

Bên cạnh Đại Nam thực lục Chính biên, dưới thời Minh Mệnh, Quốc sử quán còn được giao nhiệm vụ biên soan bộ Minh Mệnh chính yếu, trong đó quyển 25 có chép nhiều vụ tầu đắm ở ngoài Biển Đông, trôi dạt vào bờ đã được cứu giúp chu đáo. Chẳng hạn vào năm 1836 thuyền buôn nước Anh gặp gió bão ở Hoàng Sa, tạm ghé vào hải phận tỉnh Bình Định, đã được nhà vua “sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn…”.

Điều này không chỉ nói lên lòng nhân đạo cao cả của người Việt, mà quan trọng hơn chính là nghĩa vụ, trách nhiệm cứu hộ trên biển của Nhà nước và cư dân Việt Nam với tư cách là chủ nhân của vùng biển đảo  này.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của triều đình thuộc lục bộ về điển chương, pháp luật.... được hoàn thành trong khoảng thời gian từ năm 1843 đến năm 1851. Trong sách có đoạn chép về việc lập miếu, dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu vực, về cơ bản không khác so với Đại Nam thực lục Chính biên.

Quốc triều chính biên toát yếu là bộ sử trích các phần quan yếu của Đại Nam thực lục Chính biên, trong đó quyển III có các đoạn chép về việc xây miếu và dựng bia, đo vẽ bản đồ và việc cứu hộ tầu Anh bị mắc cạn ghé vào bãi biển Bình Định.

Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là bộ bách khoa thư lớn nhất của thế kỷ XIX, được hoàn thành vào năm 1821 có phần Dư địa chí chép về bãi Hoàng Sa và đội Hoàng Sa cũng giống nhưPhủ biên tạp lục.

Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông chép về Vạn Lý Trường Sa ngoài những đặc điểm địa lý, tự nhiên và dấu tích của người Việt Nam trên đảo Hoàng Sa, ông còn nói khá cụ thể về đội Hoàng Sa như việc tuyển đinh tráng các xã An Vĩnh, An Hải, thời gian tồn tại của đội Hoàng Sa...

Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán thời Tự Đức biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882. Hoàng Sa, Trường Sa được giới thiệu trong quyển 8 (tỉnh Quảng Ngãi) phỏng theo Phủ biên tạp lục và những tư liệu tập hợp được trong Đại Nam thực lục. Riêng đoạn cuối sách cung cấp thêm: “Năm Minh Mệnh thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân”.

Nhiều công trình chuyên khảo hay những ghi chép khách quan của các quan chức, học giả đương thời khác cũng cung cấp thêm những thông tin có giá trị.

Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng cũng chép “đảo Hoàng Sa (ở giữa bể, thuộc huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), dài rộng vài nghìn dặm).”

Bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa của Lý Văn Phức có một đoạn chú dài viết khá cụ thể về khu vực biển đảo mà chính tác giả suýt mắc nạn. Theo nguồn tài liệu này thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thuỷ thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt một số con thuyền vượt Biển Đông. Điều này cũng góp phần giải thích bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam tuy vẫn giữ phong cách vẽ truyền thống, nhưng đã sớm cập nhật những thông tin mới và độ chính xác cao của bản đồ hằng hải các nước phương Tây đương đại.

Cũng thuộc nguồn tài liệu thư tịch và có giá trị cao để khẳng định quá trình các Nhà nước Việt Nam dưới thời Nguyễn thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa là các Châu bản triều Nguyễn. Qua nghiên cứu khảo sát 144 tập của hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị, chúng tôi tìm ra được một số tư liệu là bằng chứng rõ ràng về quá trình thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam ở hai quần đảo này như bản dụ của vua Minh Mệnh (13/7/1835 và 13/7/1837) về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của Thủ ngự Đà Nẵng về việc thuyền của Pháp mắc cạn ở Hoàng Sa (21/6/1830); các bản tấu của Bộ Công về việc phạt những người đi Hoàng Sa không lập xong bản đồ (13/7/1837), về việc phái đoàn công vụ lên đường ra Hoàng Sa nhưng do gặp gió lớn mà không xuất phát được... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (21/6 /1838) cho biết đoàn khảo sát Hoàng sa trở về báo cáo đã đến được 25 đảo (trong 3 sở), còn 1 sở hơi xa lại gặp gió lớn nên chưa tới được...

Dưới thời Nguyễn bên cạnh việc triển khai đo vẽ thực tế ở Hoàng Sa, Trường Sa là việc nhà nước cho hoàn thành nhiều bộ bản đồ quan trọng, trong đó tiêu biểu nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ hoàn thành trong khoảng từ năm 1838 đến năm 1840 dưới thời vua Minh Mệnh. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong bản đồ được vẽ chung thành một cụm hình lưỡi dao kéo dài gồm khoảng ba chục đảo lớn, trong đó Hoàng Sa ở phía cực bắc được nối liền với Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa) ở phía nam trong một chuỗi các đảo chưa có dấu hiệu phân tách. Thật ra vào năm 1830 cũng đã xuất hiện tấm Bản đồ vẽ theo phong cách này, nhưng đang còn ở dạng bản thảo và sau này thời Thiệu Trị có Đại Nam toàn đồ, dưới thời Tự Đức có Đại Nam nhất thống toàn đồ (Nam Bắc kỳ hội đồ) là sự tiếp nối của phong cách vẽ bản đồ hiện đại.

Xuất hiện trước và sau Đại Nam nhất thống toàn đồ có khá nhiều bản đồ khác vẽ Hoàng Sa, Trường Sa vẫn theo phương pháp tryền thống như Nam Việt bản đồ, Thiên tải nhàn đàm, An Nam dư địa chí, Khải đồng thuyết ước, Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ cựu lục... Các bản đồ này tuy không cung cấp thông tin mới, nhưng lại xác nhận một thực tế là suốt trong thế kỷ XIX, Hoàng Sa, Trường Sa đã được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh hay dùng làm sách phổ biến kiến thức để mọi người dân Việt Nam ghi nhớ phần lãnh thổ không thể tách rời của nước Việt Nam thống nhất.

Ngay từ khi mới bắt đầu thiết lập Vương triều, Nguyễn Ánh tiếp tục công cuộc thám sát và phòng thủ biển nhằm củng cố chính quyền. Một người Pháp trở thành một đại thần trong triều là Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) trong khi làm quan ở Huế xác nhận: "Xứ Đàng Trong mà Quốc vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc của Cao Miên, một vài đảo có người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở. Chỉ đến năm 1816 thì nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này".

Các tác giả phương Tây lúc đó, trong các tác phẩm của mình, cũng đều công nhận chủ quyền pháp lý của các vua nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.

Giám mục Jean Louis Taberd người Pháp, người nhiều năm truyền giáo ở Đàng Trong cho rằng: "Quần đảo Pracel… Vào năm 1816, nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc là sẽ không có một ai sẽ tìm cách tranh giành với ông ta". Ông còn cho xuất bản cuốn Từ điển La Tinh An Nam và kèm theo tấm bản đồ An Nam đại quốc hoạ đồ, trong đó ở khoảng vĩ tuyến 170 bắc và kinh tuyến 1100 đông, bản đồ có vẽ một cụm các đảo nhỏ với dòng chữ ghi chú: Paracel Seu Cát Vàng.

Tiến sĩ Gutzlaff, hội viên của Hội địa lý Hoàng gia Luân Đôn, biên soạn cuốn sách Geography of the Cochinchinese Empire cho biết: "Chính phủ An Nam nhận thấy lợi ích có thể đem lại được nếu như dựng lên một ngạch quan thuế và đã duy trì những thuyền đánh thuế và một đội quân nhỏ đồn trú ở tại chỗ để thu thuế đối với tất cả những ai đến đó, và để bảo vệ những dân chài của nước họ".

Năm 1850, M. A Dubois de Jancigny, cựu đại uý, phái viên của Chính phủ Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương đã viết sách nói rõ: "Chúng tôi chỉ muốn nhận xét rằng đã từ 34 năm nay, (tức là từ 1816 đến 1850), quần đảo Paracels (mà những người An Nam gọi là Cát Vàng), thật là một chốn mê cung chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát thật sự đã làm những người đi biển kinh hãi và chỉ có thể kể đến trong số những địa điểm hoang vu cằn cỗi nhất của địa cầu, quần đảo do đã bị các người xứ Đàng Trong chiếm giữ. Chúng tôi không rõ họ đã có đặt một cơ sở nào không (có thể với mục đích là bảo vệ công việc đánh cá), nhưng chắc chắn rằng nhà vua Gia Long đã chủ tâm đính thêm đoá hoa độc nhất vô nhị đó vào chiếc vương miện của ông, bởi vì ông đã xét thấy cần thiết phải đi tới việc đích thân chiếm giữ lấy quần đảo đó, và chính vì thế mà năm 1816 ông đã long trọng kéo lá cờ xứ Đàng Trong lên mảnh đất đó".

Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, triều đình Tự Đức không còn đủ sức chống lại đã lần lượt để mất chủ quyền về tay Thực dân Pháp, trong đó có cả chủ quyền các vùng biển đảo. Tuy nhiên vùng đất máu thịt của tổ tông vẫn là niềm thôi thúc các thế hệ con dân đất Việt đấu tranh đến cùng để giành lại chủ quyền bằng mọi giá.
*
*    *
Tư liệu về nguồn gốc, chức năng và hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải (trong đó đặc biệt là đội Hoàng Sa) càng ngày càng được tập hợp phong phú hơn, đa dạng hơn. Chúng ta không chỉ biết về các đội Hoàng Sa Bắc Hải trong chủ trương thành lập và chỉ đạo hoạt động của các chúa Nguyễn, của vương triều Tây Sơn và các vua nhà Nguyễn, mà còn biết khá cụ thể các chủ trương ấy đã được chính quyền và nhân dân các địa phương tự giác chấp hành và thực hiện một cách đầy đủ và hết sức nghiêm chỉnh. Đây không chỉ dừng lại ở những văn bản chính thức của Nhà nước và những hoạt động phong phú đa dạng ở các địa phương, mà còn được tập hợp trong những ghi chép của các học giả, các nhà chức trách Việt Nam, các thương nhân và giáo sĩ phương Tây, thậm chí đến cả nhà sư Trung Quốc đương đại, những người đã thông qua quan sát trực tiếp hay khảo cứu công phu từ những văn bản gốc về hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải mà ghi chép lại một cách khách quan, trung thực.

Tất nhiên các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác các vùng quần đảo xa giữa Biển Đông, cũng có lúc thiên về công việc khai thác, cũng có lúc thiên về công việc bảo vệ, nhưng dù là thiên về chức năng nào thì cũng không thể thay thế được các đội Thuỷ quân. Vì thế trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, có những lúc hoạt động của đội Hoàng Sa rất nổi bật, nhưng cũng có những lúc bị lu mờ, thậm chí có khi bị ghép chung vào công việc của đôi Thuỷ quân. Chúng ta từng biết có triều đình đã từng quyết định bãi bỏ đội Hoàng Sa và chuyển công việc của đội Hoàng Sa cho đội Thuỷ quân, nhưng ngay sau đó họ lại phải tính chuyện tái lập trở lại... Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải dù hoạt động độc lập hay phụ thuộc vào đội Thuỷ quân, thậm chí có là hoạt động dưới danh nghĩa của đội Thuỷ quân đi nữa, thì cứ vẫn là một tổ chức độc đáo của các Nhà nước Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX trong chủ trương khẳng định chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được.

Đến giữa thế kỷ XIX trước cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mặc dù dân các đảo Lý Sơn, Phú Quý, các xã An Vĩnh, An Hải, Bình An... vẫn tiếp tục đi ra Hoàng Sa, Trường Sa thu lượm hoá vật, hải sản dâng nộp cho triều đình Huế - nghĩa là vẫn thực hiện một chức năng của đội Hoàng Sa, Bắc Hải xưa, nhưng chức năng bảo vệ biển đảo đã chuyển hẳn cho các đội Thủy quân. Đến khi triều đình Huế thất thủ, không còn khả năng tổ chức lại quân đội, củng cố các đội Thuỷ quân để bảo vệ trực tiếp kinh thành Huế, thì đương nhiên họ cũng không còn khả năng khôi phục hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải nữa. Sự chấm dứt hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải tuyệt nhiên không phải là do Nhà nước phong kiến Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông.

Tư liệu cho biết các Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa dưới các hình thức và biện pháp khác nhau như vãng thám kiểm tra kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ lưu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho người qua lại dễ nhận biết... Lực lượng ra làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ có các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, các đội Thuỷ quân, biền binh, vệ giám thành mà cả binh đinh, dân phu. Mỗi chuyến đi ra Hoàng Sa Trường Sa đều phải có quyết định của Nhà nước dưới hình thức “tờ sai để thi hành công vụ” và nhiều khi chính nhà vua trực tiếp chỉ đạo việc quyết định cho thuyền ra khơi hay tạm dừng lại. Sau khi kết thúc công việc họ phải chạy thuyền thẳng về Kinh đô để báo cáo tình hình, khai nộp hoá vật, hải vật. Nhà vua thông qua Bộ Công để kiểm tra, đánh giá và tuỳ mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội, thưởng phạt công minh. Những người hoàn thành nhiệm vụ đều được Nhà nước cấp bằng xác nhận. Công việc ở Hoàng Sa và Trường Sa là vô cùng gian nan nguy hiểm, nhiều trường hợp có đi mà không có về. Thậm chí có khi  người ta phải làm lễ truy điệu sống, làm đám tang trước để an ủi người đi. Ý thức được đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với quê hương đất nước, nhiều người thản nhiên đi vào cái chết, tự giác coi đó là lẽ sống của chính mình. Trang lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa được viết bằng máu, được đánh đổi bằng cả cuộc đời của lớp lớp những con người như thế.

Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà bất cứ người Việt Nam chân chính nào cũng cần phải biết trân trọng và gìn giữ, không chỉ cho hôm nay, mà còn cho muôn đời sau.

Chú thích:
[1] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116.
[2] Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế tr.125.
[3] Bản đồ Thế giới của Mercator xuất bản tại Amsterdam (Hà Lan) 1606, in lại trong cuốn Asia in Maps from Ancient time to the Mid-19th Century, Lepzig, 1989. 
[4] Bản đồ Bartholomeu Lasso vẽ năm 1590 và 1592-1594, in trong cuốn sách Les Portugains sur les côtes du Vietnam et du Cămpa của P.Y.Manguin, Paris, 1972; Bản đồ Van Langren 1598, in trong cuốnIconographie Historique de l’Indochine của P.Boudet và  A.Masson, Paris, 1931.
[5] Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).
[6] Đơn của phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh ngày 15 tháng Giêng năm 1776 (lưu tại nhà thờ họ Võ thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi).

*Giáo sư, Tiến sĩ Sử học, nguyên Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, ĐH KHXH và NV Hà Nội, hiện là Viện trưởng viện Việt Nam học và khoa học phát triển ( Đại học Quốc gia Hà Nội), chủ tịch Hội Sử học Hà Nội.
Bài đã đăng trên Tạp chí Xưa-Nay. 
Nguồn: Chi-Blog.

TQ CHO TÀU HẢI GIÁM LỚN NHẤT RA BIỂN ĐÔNG UY HIẾP VN

Trung Quốc cho tàu hải giám lớn nhất ra Biển Đông 

(Dân trí) - Trung Quốc đã cử tàu hải giám lớn nhất ra Hoàng Sa và Trường Sa - báo chí trong nước của Trung Quốc đưa tin, không lâu sau khi Bắc Kinh cam kết "giữ hòa bình và ổn định" ở Biển Đông và “giải quyết tranh chấp trên vùng biển này thông qua đàm phán”. 
.
Tàu Hải Tuần 31 rời Trung Quốc trong ngày 15/6 - động thái khiến dư luận quốc tế quan ngại

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi hôm qua loan báo: “Ngày 15/6, tàu của Cục An toàn Hàng hải Quảng Đông đã rời đi Singapore trong chuyến thăm thường xuyên”.
Tuy nhiên, để tới Singapore tàu này sẽ đi qua Hoàng Sa và Trường Sa.

Các tàu tương tự như thế này đã bị tố cáo cản trở hoạt động của các tàu nước ngoài trên Biển Đông, bao gồm cả tàu khảo sát của Mỹ.

Trong khi đó, tờ Nhật báo Bắc Kinh chạy hàng tít: “Tàu tuần tra hàng hải lớn nhất nước ta tuần tra Nam Hải (Biển Đông)”. 

Theo đó, Hải Tuần 31 dự kiến sẽ tới Singapore vào thứ Năm tuần tới sau chặng đường dài 2.600km. Báo này cũng nói Hải Tuần sẽ ở lại Singapore 6 ngày trước khi quay trở lại Trung Quốc.

Vào cuối tháng này, Mỹ và Philippines dự kiến có cuộc tập trận CARAT ở Biển Đông. 

Những lo ngại về động thái của Trung Quốc

Theo giới chuyên gia, tàu Hải tuần 31 là một trong hai tàu tuần tra dân sự lớn nhất của Trung Quốc. Điểm khác biệt duy nhất với tàu chiến là tàu Hải tuần 31 không trang bị vũ khí hạng nặng.

Tàu Hải Tuần 31 có trọng tải 3.000 tấn, dài hơn 112 mét, tốc độ 18 hải lý/giờ, được trang bị trực thăng, có thể hoạt động liên tục ở ngoài khơi 40 ngày.

Nhưng các chuyên gia phân tích của Hãng tin AnhBBC cho rằng dù chính thức là tàu dân sự, Hải Tuần số 31 hoàn toàn "có năng lực quân sự" khi cần.

Hãng Reuters hôm qua cảnh báo: “Tất cả những công việc mà tàu Hải tuần 31 sẽ tiến hành đều có thể gây ra những chạm trán, xung đột với các nước đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc”.

Thế nhưng, khi đưa tin tàu Hải tuần 31 được điều động tới khu vực này, báo chí Trung Quốc không hề đả động tới những căng thẳng hiện nay tại Biển Đông.

Hạ viện Anh hôm qua đã bày tỏ lo ngại về sự leo thang xung đột ở Biển Đông, cho dù Trung Quốc tuyên bố họ cam kết giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông thông qua đàm phán và cam kết "giữ hòa bình và ổn định" trên vùng biển này.

“Hạ viện hoan nghênh tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc về việc không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp và cũng hoan nghênh lời kêu gọi của các nước ASEAN về việc giải quyết xung đột bằng các biện pháp hòa bình dựa trên Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển và Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên tại Biển Đông”.

Hãng tin AFP nhấn mạnh: Trong nhiều tuần qua, Việt Nam và Philippines tố cáo Trung Quốc liên tiếp xâm phạm lãnh hải, đe dọa các tàu cá, tàu thăm dò dầu khí của hai nước. “Xin nhắc lại là Trung Quốc đã đưa ra yêu sách đòi chủ quyền tới 80% diện tích Biển Đông, trong đó có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, hãng tin viết.

“Tuần trước, Bắc Kinh cho biết sẽ tổ chức tập trận hải quân vào cuối tháng này ở phía Tây Thái Bình Dương, trong lúc đó hải quân Trung Quốc không giấu giếm ý đồ sớm hạ thủy tàu sân bay đầu tiên”.

Trong tuần, Trung Quốc cảnh báo các nước ngoài khu vực “không nên can thiệp vào cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông” - một tuyên bố được giới phân tích tại Washington cho rằng “rõ ràng nhằm vào Mỹ”.

Nguyễn Viết 
Theo AFP, BBC, Reuters

CÁC NHÓM NGHỊ SĨ ANH - VIỆT, ANH - TRUNG KIẾN NGHỊ VỀ BIỂN ĐÔNG

Nghị sĩ Anh trình kiến nghị về tình hình Biển Đông

.

17/06/2011 07:00:46
 
Vào cuối phiên họp sáng 16/6 của Hạ viện Anh, Hạ nghị sỹ George Howarth, Chủ tịch Nhóm nghị sỹ Anh-Việt và Hạ nghị sỹ Mark Hendrick, Chủ tịch nhóm Nghị sỹ Anh-Trung, đã cùng đứng tên đệ trình kiến nghị lên Hạ viện về tình hình căng thẳng trên Biển Đông.

Hai hạ nghị sĩ kêu gọi có các hướng tiếp cận song phương và đa phương để giải quyết những mâu thuẫn ở Biển Đông một cách hòa bình và khôi phục sự ổn định trong khu vực.

Nội dung kiến nghị nêu rõ: "Thành viên Hạ viện quan ngại về tình hình tranh chấp leo thang tại Biển Đông. Chúng tôi nhận thấy có nhiều tuyên bố về lãnh thổ ở khu vực này, đồng thời hoan nghênh tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng họ sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp."

Hai hạ nghị sĩ cũng hoan nghênh lời kêu gọi của các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) giải quyết tranh chấp thông qua những giải pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ, Công ước biển 1982 (UNCLOS) và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, tránh làm tình hình trong khu vực phức tạp thêm.


Ngày 27/5, các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của Petrovietnam khi cắt cáp của tàu Bình Minh 02. Ngày 9/6, tàu cá Trung Quốc được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II mà Petrovietnam thuê tiến hành thu nổ địa chấn 3D.

Ngày 10/6, Văn phòng Thượng nghị sỹ Jim Webb đã ra thông cáo báo chí bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về việc Trung Quốc liên tiếp sử dụng vũ lực nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền biển tại Biển Đông.
(Theo Vietnam+)

PHILIPPINES TỐ CÁO TRUNG QUỐC LÊN LIÊN HỢP QUỐC

Philippines sẽ đệ trình LHQ bản tố cáo Trung Quốc

17/06/2011 08:45:52
 
Các nguồn tin Liên hợp quốc ngày 16/6 cho biết Bộ Ngoại giao Philippines sẽ đệ trình Liên hợp quốc báo cáo về việc các lực lượng Trung Quốc nhiều lần xâm nhập lãnh thổ Philippines ở quần đảo Trường Sa.
 
Philippines cũng sẽ đệ trình ASEAN báo cáo riêng về vấn đề này.

Ông Ricky Carandang, Thư ký Văn phòng kế hoạch chiến lược và phát triển thông tin thuộc Phủ Tổng thống Philippines, nói rằng nhiều nước ASEAN và các bạn bè của ASEAN đã biết về sự kiện đã xảy ra cũng như Manila biết về các vụ việc khác đã và đang xảy ra với Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam cũng biết các sự kiện đã xảy ra với Trung Quốc và Philippines. Những vụ việc này cũng đang được thông tin đến các nước ASEAN. 
.
Tàu hải giám Trung Quốc mang số hiệu 84 vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. (Nguồn: TTXVN)

Ông Ricky cho rằng việc xúc tiến các cuộc thương lượng với Trung Quốc và Việt Nam vào thời điểm hiện nay để chấm dứt tình trạng tranh chấp lãnh thổ chưa chín muồi và cũng chưa phải thời điểm thích hợp để nối lại các khảo sát địa chấn chung với hai nước cùng đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa. 

Philippines vẫn muốn tìm ra cách thức để các nước đòi chủ quyền quần đảo Trường Sa có thể cùng thăm dò và khai thác tài nguyên ở vùng tranh chấp nhưng đó là công việc của tương lai, ông này nêu rõ.

(Theo Vietnam+)

TIN KHẨN: TRUNG QUỐC LẠI CƯỚP TÀI SẢN CỦA NGƯ DÂN VIỆT NAM

Tàu cá của ngư dân VN lại bị tịch thu tài sản

16/06/2011 20:09:31

Bee.net.vn - Ngay sau khi cập bến Lý Sơn vào ngày 16/6, 10 ngư dân đi trên tàu cá QNg 66074 TS, của ông Trần Hiền, (sinh 1980), ở thôn Tây, xã An Vĩnh huyện Lý Sơn, đã trình báo với Lực lượng Biên phòng Quảng Ngãi về việc bị tàu Trung Quốc thu tài sản.

Theo tường trình của các ngư dân, lúc 9h ngày 14/6, khi đang neo tàu nghỉ ngơi tại khu vực đảo Đá Lồi - Hoàng Sa, họ bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 45012 có trang bị vũ khí, cập sát, khống chế và lục soát, lấy đi ngư dụng cụ và nhiều đồ vật khác.

Tàu cá sẽ được giảm thiểu rủi ro nhờ được lắp đặt thiết bị giám sát khi hoạt động trên biển
Tàu cá sẽ được giảm thiểu rủi ro nếu được lắp đặt thiết bị giám sát khi hoạt động trên biển
Tổng giá trị tài sản ước tính hàng trăm triệu đồng. Được biết từ đầu năm 2011 đến nay, đây là trường hợp tàu cá thứ 5 của ngư dân Quảng Ngãi bị tàu Trung Quốc cướp tài sản.

H.V.T

TÀU TRUNG QUỐC KHOÁC ÁO DÂN SỰ ĐI GÂY HẤN

Tàu Trung Quốc khoác áo dân sự đi gây hấn

Thứ Năm, 16/06/2011 23:42

TS Nguyễn Đức Hùng, Trưởng Ban Điều hành Quỹ Nghiên cứu biển Đông, cho rằng các sự kiện tàu Bình Minh 02 và Viking II mới đây cho thấy rõ suy tính cho đội tàu khoác áo dân sự đi uy hiếp, gây hấn và phá rối của Trung Quốc.

.

 
Tàu hải giám 311 của Trung Quốc yểm trợ tàu đánh cá của nước này cắt cáp thăm dò của tàu Viking II của Việt Nam vào ngày 9-6. Ảnh: Tư liệu
* Phóng viên: Thưa ông, các tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế ra sao khi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam để tiến hành các hoạt động gây hấn và phá hoại?
- TS Nguyễn Đức Hùng: Công ước về Luật Biển Liên Hiệp Quốc năm 1982 (UNCLOS 1982) quy định rất rõ rằng những chiếc tàu như hải giám và ngư chính chỉ có thể hoạt động một cách hợp pháp khi chúng hoạt động trong vùng nội thủy, vùng lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc. Thế nên, việc những chiếc tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc vượt rất xa các vùng biển thuộc chủ quyền của họ, xâm nhập và tiến hành cản trở, phá hoại các hoạt động bình thường của tàu Bình Minh 02 và Viking II trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một sự vi phạm không thể biện minh theo UNCLOS 1982 cũng như luật pháp quốc tế. Với sự vi phạm trắng trợn này, hải quân Việt Nam hoàn toàn có quyền trục xuất những chiếc tàu hải giám và ngư chính ra khỏi vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền mình (theo điều 73, UNCLOS 82).
* Sự vi phạm đó không chỉ xâm phạm chủ quyền của chúng ta mà còn tạo ra mối đe doạ với an ninh hàng hải cũng như hòa bình và ổn định trên biển Đông?
- Sự hung hăng của những chiếc tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc đã và đang khiến khu vực và thế giới lo ngại về an ninh hàng hải trên tuyến vận tải huyết mạch trên biển Đông. Các sự kiện với tàu Bình Minh 02 và Viking II cũng không phải những vụ gây hấn đầu tiên của những chiếc tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc trên biển Đông. Tháng 1-2005, tàu Trung Quốc cũng đã bắn thẳng vào những tàu đánh cá của ngư dân Hậu Lộc (Thanh Hóa) đang đánh bắt cá tại phía Tây đường phân định trên vịnh Bắc Bộ, tức là hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam. Nếu chúng ta đủ mạnh thì hoàn toàn có thể bắt giữ để truy tố theo luật pháp Việt Nam, luật quốc tế hoặc đưa ra toà án quốc tế để giải quyết.
* Thưa ông, dư luận đang rất lo ngại trước việc những chiếc tàu ngư chính, hải giám khoác chiếc áo dân sự để đi gây hấn, uy hiếp trên biển Đông?
- Theo nguyên tắc UNCLOS 1982 hay luật pháp quốc tế, các tàu quân sự không được hoạt động trong các vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác như vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế, càng không được phép trong khu vực lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải. Trung Quốc rõ ràng đã có suy tính rất sâu xa trong việc hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” khi khoác chiếc áo dân sự đi uy hiếp và gây hấn trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác trên biển Đông. Nhưng dù chúng có khoác vỏ bọc dân sự đi chăng nữa thì Việt Nam vẫn hoàn toàn có thể đưa việc các tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc xâm phạm vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của ta ra toà án quốc tế để buộc hai cơ quan hải giám và ngư chính Trung Quốc bồi thường các thiệt hại mà chúng gây ra. Cũng cần nói thêm “đường lưỡi bò” của Trung Quốc không có vị trí tọa độ địa lý phù hợp với điều 75 và các điều khoản quy định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo UNCLOS 82 nên không có giá trị.
* Luật pháp quốc tế có cho phép chúng ta dùng hải quân để đối phó với những chiếc tàu dân sự Trung Quốc khi chúng xâm phạm vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam?
- Theo điều 73 UNCLOS 82 (Enforcement of laws and regulations of the coastal State) và luật pháp quốc tế hoàn toàn cho phép điều đó. Hải quân chúng ta hoàn toàn có quyền cảnh cáo, xua đuổi, thậm chí có thể bắt giữ và phạt nếu tàu dân sự nước ngoài xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam.
* Nhưng có ý kiến cho rằng nếu hải quân chúng ta có hành động đối phó thì Trung Quốc sẽ mượn cớ để can thiệp mạnh hơn?
- Trung Quốc có những suy tính rất kỹ trong việc cho những chiếc tàu khoác áo dân sự trong hai sự kiện Bình Minh 02 và Viking II. Nếu chúng ta không tỉnh táo rất có thể bị rơi vào cái bẫy tạo cớ của họ. Không loại trừ khả năng nếu tàu hải quân ta xuất hiện thì tàu chiến thuộc hạm đội Hải Nam sẽ có hành động can thiệp. Như thế, tình hình an ninh trên biển Đông sẽ trở nên rất căng thẳng. Vì thế, lựa chọn tốt nhất vẫn là dùng lực lượng dân sự để đối phó với tàu Trung Quốc, dù biết rằng chúng chỉ có vẻ ngoài dân sự.
* Ông có thể cho biết cụ thể hơn về cách thức đối phó của ta?
- Về chiến lược lâu dài thì phải phát triển kinh tế để dân giàu nước mạnh và có điều kiện xây dựng lực lượng hải quân mạnh. Song song với lực lượng hải quân, cần phát triển các lực lượng và đội tàu tuần tra và giám sát biển dân sự. Trước mắt, cần có giải pháp tình thế để hạn chế đội tàu hải giám và ngư chính Trung Quốc để chúng không tạo cớ gây căng thẳng, xung đột trên biển Đông. Chúng ta cần sớm vạch ranh giới và vẽ bản đồ ranh giới biển theo UNCLOS 1982. Quốc hội sớm thông qua bộ luật biển và công báo với quốc tế về các chủ trương của Việt Nam về ranh giới trên biển, các khu đặc quyền kinh tế biển và thềm lục địa, phổ biến cho ngư dân khi đánh bắt cá xa bờ cũng như cho các cơ quan tổ chức và cá nhân làm kinh doanh trên biển. Cần liên tục tăng cường nhanh đội tàu tuần tra và thành lập đội tàu giám sát và kiểm ngư vùng duyên hải và biển xa, đặc biệt các vùng Việt Nam tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các khu vực Việt Nam đang khảo sát địa chấn và khai thác dầu khí cũng như các khu vực đánh bắt cá của ngư dân Việt Nam.

Tàu ngư dân lại bị cướp
Tin từ Đồn Biên phòng 328 Lý Sơn – tàu cá QNG 66074 TS của ông Trần Hiền (SN 1980) ở thôn Tây xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn vừa cập bến và báo cáo: Lúc 9 giờ ngày 14-6, tại khu vực đảo Đá Lồi thuộc quần đảo Hoàng Sa, tàu Hải quân Trung Quốc mang số 45012 đã khống chế 10 ngư dân trên tàu và cướp 2 cuộn dây hơi, 500 kg cá.
Sau 4 giờ bắt giữ, phía Trung Quốc đã đuổi tàu cá của ông Hiền về phía Việt Nam. Lúc 6 giờ 30 phút ngày 16-6 thuyền ông Hiền cập cảng Lý Sơn.
L.V.Chương
Phạm Dương thực hiện

HỌA ĐẤY MÀ PHÚC ĐẤY!


 Hòa Bình
 
Cái tình thế khắc nghiệt, không còn chỗ để lùi chính lại là thời khắc mà những tầng lớp tinh hoa của dân tộc và toàn thể nhân dân ta không còn phải do dự, không còn phải đắn đo để nhận ra đâu là trắng đâu là đen, đâu là bạn bè, đồng chí, đồng minh, đâu là thứ phải gìn vàng, giữ ngọc, đâu là những thứ phải đoạn tuyệt và dứt khoát đoạn tuyệt không được do dự, không được sợ hãi.

Điều chiêm nghiệm hoặc là nhận thức sau đây có thể là đúng, có thể chưa hẳn đã đúng.

Hễ cứ là con người khi phải đối diện với sự thật nghiệt ngã, đặc biệt là sự mất, còn thì đó luôn là điều khó khăn nhất cho dù là việc cá nhân, việc nhà hay việc nước.

Tình thế Biển Đông nổi sóng bởi thứ lòng tham bất chấp đạo lý, bất chấp luật pháp quốc tế đã đặt dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam vào tình thế mất – còn, không còn chỗ để lùi. Đó là sự thật nghiệt ngã mà hễ là người Việt Nam đều không thể ngoảnh mặt làm ngơ, không thể né tránh.


Câu trả lời đã có sẵn trong truyền thống cả nhiều ngàn năm của ông bà , tổ tiên chúng ta. Truyền thống ấy là thái độ hòa hiếu. Truyền thống ấy là cách ứng xử lấy nhân nghĩa mà thắng hung tàn, bạo ngược. Truyền thống ấy là tinh thần quả cảm không run sợ trước bạo quyền.

Đó là lịch sử của dân tộc, là bản lĩnh hào kiệt mà người Việt Nam thời nào cũng có. Và trong thời đại của thông tin , toàn cầu hóa ngày nay, bản lĩnh đó chắc chắn vẫn có và phải có mà chẳng cần bất cứ ai hay một thế lực nào “dạy bảo”.

Nhân loại bằng rất nhiều cách nói khác nhau đều đã nhận ra rằng trong họa thể nào cũng có phúc.

Cái tình thế khắc nghiệt, không còn chỗ để lùi chính lại là thời khắc mà những tầng lớp tinh hoa của dân tộc và toàn thể nhân dân ta không còn phải do dự, không còn phải đắn đo để nhận ra đâu là trắng đâu là đen, đâu là bạn bè, đồng chí, đồng minh, đâu là thứ phải gìn vàng, giữ ngọc, đâu là những thứ phải đoạn tuyệt và dứt khoát đoạn tuyệt không được do dự, không được sợ hãi.

Họa đấy mà phúc đấy !


Nguồn: Tuần Việt Nam (VNN).

PHÓ BAN TUYÊN GIÁO TW: BIỂU TÌNH CÓ TỔ CHỨC, RẤT TRẬT TỰ VÀ ÔN HÒA

Trung tướng, Nhà văn hữu Ước tặng TS Nguyễn Thế Kỷ bức ảnh ghi lại buổi giao lưu trực tuyến ngày hôm nay.

Trích từ cuộc giao lưu trực tuyến ngày 16/6/2011 giữa độc giả Báo CAND điện tử (CAND Online) với khách mời: TS Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW; Trung tướng, nhà văn Hữu Ước, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục XDLL-CAND, Tổng Biên tập Báo CAND…) nhân Kỷ niệm 86 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2011)…

Đại tá Phạm Văn Miên: Cũng về vấn đề biển Đông, thưa anh Nguyễn Thế Kỷ. Có bạn đọc hỏi rằng, vào ngày 5/6/2011, nhiều người dân Việt Nam xuống đường tuần hành, biểu tình phản đối hành vi vi phạm của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, bản tin của TTXVN lại gọi là "cuộc tụ tập". Liệu Ban Tuyên giáo TW có kỷ luật TTXVN không?

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW Nguyễn Thế Kỷ: Ban Tuyên giáo TW chẳng kỷ luật gì TTXVN cả. Sự việc mà độc giả nêu kỳ thực là do một số người dân Thủ đô Hà Nội và TP HCM bất bình trước sự việc tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Binh Minh 02. Sự việc này gây ra bức xúc, theo tôi sự phản đối và tình cảm này rất dễ hiểu. Vì người dân của mình, nhất là người trẻ đã họp nhóm lại tập trung trước cổng lãnh sự quán Trung Quốc ở Sài Gòn và Hà Nội nhưng có tổ chức, rất trật tự và ôn hòa. Thậm chí nhiều người có khẩu hiệu phản đối hành động của TQ bằng giấy A4 nhưng với thái độ bình tĩnh.

Tôi cho rằng cách đưa tin như thế là được. Còn việc ai đó quan niệm sự việc đó là biểu tình là quyền của người ta, chúng ta không tranh cãi. Theo tôi thì đó là hành động người Việt Nam biểu thị lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc và phản đối nước ngoài đối với quyền chủ quyền của mình.

Bản chất sự việc là như thế.

Còn TTXVN và một số báo đưa tin tụ tập đông người… đây là việc không nên tranh cãi, bởi vì các cơ quan chức năng cho biết không có một hành động quá khích nào. Khi được cơ quan chức năng, đoàn thể giải thích "cứ bình tĩnh, Đảng, Nhà nước và chính quyền sẽ bằng con đường ngoại giao, bằng trao đổi, bằng hòa bình để giải quyết sự việc…" thì những người dân nghe ra và ra về.

Nếu nói TTXVN bị kỷ luật là nặng nề quá. Mà nếu làm thế là chúng ta vi phạm tự do báo chí…
 


Ảnh chụp màn hình Báo Công an Nhân dân điện tử, lúc 9h:00, ngày 17.6.2011.
Mời chư vị đọc thêm trên Phạm Viết Đào-Blog, tại đây.

Nguyễn Xuân Diện:
1-Hoan nghênh Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ - Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương đã nhận định rất chính xác rằng các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại HN và Tp. Hồ Chí Minh (đôi lúc ông dùng là Sài Gòn - từ nay, NXD-blog cũng dùng là Sài Gòn) các ngày 5 và 12 tháng 6 vừa qua là RẤT TRẬT TỰ và ÔN HÒA.
Hoan nghênh Đại tá Phạm Văn Miên, báo Công An Nhân dân đã đặt những câu hỏi rất thực tế, thẳng thắm và gọi tên chính xác cuộc biểu tình của quần chúng yêu nước.
2- Hoan nghênh những người TỔ CHỨC các cuộc biểu tình này.
3- Riêng với TTX Việt Nam không dùng chữ BIỂU TÌNH trong bản tin, đề nghị những người biểu tình ở Hà Nội, sắp tới nếu có biểu tình, hãy đi ngang qua 33 Lê Thánh Tông (Trụ sở TTX Việt Nam) và giương cao các biểu ngữ: "NGƯỜI VIỆT NAM YÊU NƯỚC BIỂU TÌNH CHỐNG TRUNG QUỐC", "BIỂU TÌNH CHỐNG TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC" bằng cả tiếng Anh, Trung, Pháp...để các hãng thông tấn nước ngoài ghi nhận rõ đây là cuộc biểu tình.
4. Thiết nghĩ Bộ Công an nên chỉ đạo gấp GĐ Sở Công an Tp Hồ Chí Minh, nếu tiếp tục có biểu tình tại Tp Hồ Chí Minh: 1- Các lực lượng an ninh cần mặc đúng quân phục với đầy đủ phù hiệu khi tham gia giữ trật tự (không mặc thường phục); 2- Trước khi bắt người, cần xuất trình thẻ an ninh; 3- Nếu có bắt bớ những kẻ gây rối, cần khéo léo, không làm hoảng loạn quần chúng đang biểu tình yêu nước; 4- Cần ra kết luận và họp báo về việc bắt giữ người hôm 12.6.2011 (trả lời cho nhân dân biết những người bị bắt giữ hôm đó do ai bắt giữ, bắt giữ vì lý do gì, tránh việc dư luận cho rằng công an thành phố đàn áp người biểu tình yêu nước).

NĂM 1836: NHÀ NGUYỄN CỨU 90 NGƯỜI ANH BỊ CHÌM TÀU Ở HOÀNG SA

Nhà Nguyễn cứu 90 người Anh bị chìm tàu ngoài Hoàng Sa

16/06/2011 13:39:40
 
Bee.net.vn - Trong thời kỳ làm hoàng đế, vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ" cho biết: Vào tháng 12/1836 thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người được nhà Nguyễn cứu sống đưa vào bờ biển Bình Định.

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.

Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình” (tức là muôn dặm sóng êm).

Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên cũ  là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được.

Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.
.
Bản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mặc cạn ở Hoàng Sa
Bản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mặc cạn ở Hoàng Sa

Mộc bản triều Nguyễn sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ", quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và  gạo. Lại phái thị vệ  thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ  ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: "Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen." Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ ở  Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.

Khắc Niên – Khắc Lịch 
Nguồn: Bee.net.

THÔNG BÁO VỀ TS CÙ HUY HÀ VŨ


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——————————————————

Hà Nội, ngày 14 tháng 6 năm 2011

Kính gửi: ông Bùi Ngọc Bình – Giám thị Trại tạm giam số 1 Hà Nội 


Tôi Nguyễn Thị Dương Hà, là vợ ông Cù Huy Hà Vũ hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Hà Nội, xin gửi tới ông Giám thị lời cảm ơn chân thành vì đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi được thăm chồng và qua cuộc thăm tôi được biết là chồng tôi được đối xử đúng mực tại Quý trại

Kính thưa ông Giám thị, mặc dù được Quý Trại đối xử đúng mực nhưng có một số vấn đề mà tôi thấy cần phải trình bày, đề đạt tới ông như sau:

1- Về vấn đề sức khỏe: hơi thở của chồng tôi nằng nặng, sắc diện rất kém, hai tay của chồng tôi rất lạnh, dù để trên bàn nhưng tay cứ rung rung như tay của những người bị bệnh parkinson. Đặc biệt là 10 đầu ngón tay của chồng tôi bị thâm (tím) mà tôi không biết là do nguyên nhân gì.

2- Về vấn đề an toàn tính mạng: Chồng tôi có nói là bị giam cùng buồng với một người có tên là Nguyễn Đức Tuấn, có ba tiền án về tội đánh người. Hiện nay Nguyễn Đức Tuấn lại đang bị giam vì tội chém người gây thương tích 68%. Đã có lần Tuấn hỏi chồng tôi có sợ bị người ta thủ tiêu hay làm gì đó đại loại như vậy. Hồi đầu khi chồng tôi được bác sĩ phát thuốc cho uống thì Tuấn đòi ép chồng tôi đưa thuốc của chồng tôi cho Tuấn để Tuất uống và chồng tôi đã phải kiên quyết đấu tranh với Tuấn để giữ lại phần thuốc chữa bệnh của mình…

Vì những lý do kể trên, tôi đề nghị ông Giám thị:

1- Cho chồng tôi là Cù Huy Hà Vũ được đi khám bệnh, xét nghiệm tổng thể và được chữa trị bệnh.

2- Không để bị can Nguyễn Đức Tuấn hoặc những bị can tương tự như Nguyễn Đức Tuấn giam cùng phòng với chồng tôi vì gia đình tôi và toàn thể bè bạn của Cù Huy Hà Vũ không thể yên tâm khi mà tù hình sự được giam chung với tù chính trị.

Kính mong ông vì nhân đạo và theo đúng pháp luật hồi âm sớm bằng văn bản cho chúng tôi để chúng tôi còn thông báo cho dòng họ và bè bạn Cù Huy Hà Vũ được biết. 

Trân trọng cảm ơn ông,

Người viết đơn
Nguyễn Thị Dương Hà
Nguồn: do bà Cù Thị Xuân Bích gửi trực tiếp cho BVN.

TS. Cù Huy Hà Vũ và Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà. Ảnh: NXD.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

MỘT BÀI "HÀNH" ĐẶC SẮC GỬI GIỚI VĂN NHÂN

VĂN “HÀNH”

Kha Tiệm Ly
Trộm nghe:
Thế nhân vốn một mặt muôn lòng,
Văn chương cũng năm đường bảy ngõ!
Trò đời đã nhiều chuyện lá lay,
Con tạo lại bày trò cắc cớ!
Nhớ xưa
Bao thi nhân hùng khí chưa mờ,
Bao kiệt tác ngôn phong còn rõ.
Đồ Chiểu đâm mấy thằng gian, bút thép chẳng tà,
Cử Trị mắng bao phường nịnh, lòng son vẫn tỏ.
Hịch Tướng Sĩ, sông Bạch Đằng nước cuộn sóng gào,
Cáo Bình Ngô, núi Chí Linh cây rung lá đổ.
“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!

Thế mà nay,
Học hành đôi chữ lem nhem,
Văn vẻ ba xu ú ớ.
Vỗ bụng, khoe ráp được vần ngược, vần xuôi,
Vểnh tai, thích nghe nịnh lời nầy, lời nọ.
Văn nghe giống nước mắm chấm dùi,
Thơ đọc như thầy chùa gõ mõ!
Không rành luật đối, cũng xưng mầy đó ta đây,
Chẳng sạch vần gieo, cũng vô hội nầy hội nọ.
Thơ in vài tập, chừng như đội đá vá trời,
Văn viết đôi bài, đã vội khua môi múa mỏ.

Vậy mà,
Báo tháng thường đăng,
Báo ngày chẳng bỏ!
Chỉ tội người nghe con ráy lùng bùng,
Chỉ thương người xem con ngươi lổ đổ!
Ráng banh miệng, mà cười chẳng ra cười
Cố xệch môi, mà khổ không ra khổ!

Vinh chăng?
Đi xe đời mới, đặt đít sướng mông,
Ở nhà lầu cao, ngẩng đầu trật cổ!

Như ta đây,
Dù cái thi, cái phú chưa đầy lá mít, lá mơ,
Nhưng cái nghĩa, cái tâm khá hơn loài sâu loài bọ.
Ghét quân khẩu Phật tâm xà,
Ghét phường miệng hùm gan sứa.
Không dè lời, cứ thẳng mực tàu.
Theo đúng thước, làm đau lòng gỗ!
Bao năm “bán phổi”, đệ tử mấy ngàn,
Một thuở khua chèo, bạn bè vô số.

Ngặt vì,
Kết bạn thì “Tri mãn nhân gian”
Ngoãnh mặt lại,”Vô thân tứ cố”!
Không độ nỗi những kẻ cúi lòn,
Chẳng theo kịp mấy thằng bợ đỡ!
Chẳng bù cái mũi có giàm,
Không giống đồng xu có lỗ!
Chẳng phải bành voi mặc kẻ leo lên,
Không như trôn đĩ mạnh ai mấy xỏ!

Dù cho,
Thời buổi nầy mà rách dép rách giày,
Xe đạp nọ luôn trật sên trật chó!
Dù áo Tử Lộ (!) còn đành mạn cổ, vá vai,
Nhưng mặt Nhan Hồi (2) không dễ bôi vôi, trét nhọ.

Đã từng,
Văn chương treo ở đầu giàn,
Bút mực đem quăng một xó.
Nào chê bai chữ nghĩa rẻ như bèo,
Mà tức khí vàng thau cùng một rọ!

Khổ vì,
Muốn hoàn lương mà nghiệp đĩ cứ đeo,
Muốn quăng bút, mà đường văn còn nợ!
Sá gì gạo vét mòn lon,
Thây kệ giày đi há mỏ!
Đêm dài lắm mộng, ai rằng Vương Khải (3) là vui?
Nước sạch cành hông, ai bảo Vĩnh Kì (4) là khổ?

Thôi thì,
Mặc ai pha muối pha đường,
Mặc nó lộn vừng lộn đỗ.
Tự hào vì thứ ta đủ, mà họ không cần,
Kiêu hãnh bởi điều họ dư, mà ta không có!

Xem xong,
Ai nhột thì cứ “xổ nho”
Ai khoái thì xin cổ võ!

Chú: 
(1) Tử Lộ: Học trò  nghèo của Khổng Tử.
(2) Nhan Hồi: Học trò  giỏi của Khổng Tử
(3) Vương Khải: (thường đi với Thạch Sùng), hai người giàu nhất một thời của Trung Quốc, đêm luôn sợ trộm mà ngủ không yên.
(4) Khải Kì: Vĩnh Khải Kì, người nghèo, thường uống nước suối, ăn rau rừng, mà lúc nào cũng vui, ca hát.
Nguồn: Phong Điệp.net

Bài đọc thêm trên Blog Phạm Viết Đào, 
để thấy một bọn văn sĩ trẻ khốn nạn ở Tp Hồ Chí Minh hôm nay: 
VĂN SĨ TRẺ SÀI GÒN ĐANG LÀM GÌ KHI GIẶC TÀU ĐANG GÂY HẤN NGOÀI BIỂN ĐÔNG ?
Phản hồi của Văn Nô trên anhbasam
Trong lúc thanh niên Sài Gòn sôi nổi xuống đường biểu tình chống Trung Quốc thì tại Hội nghị các nhà văn trẻ TP Hồ Chí Minh do “phê bình gia” Lê Quang Trang làm Chủ tịch , các nhà văn trẻ chơi trò… thi “hoa hậu”, “đố vui có thưởng”, thi “hóa trang”…
Một bạn đọc trên lethieunhon.com cho biết:“ Tôi là người ngoại …đạo. Nhờ cái vụ bum xùm này mà tôi tò mò tìm tới trang Web HNVTp HCM để tìm hiểu cái Hội nghị, cái Hội trại cùng cái Hậu Nghị-Trại này.Trời ạ,ngộ nghỉnh đủ thứ.Có nhiều bản “phản cung đầu thú” về bài phỏng vấn nào đó của vài nữ nhà văn trẻ cùng với cán bộ LQT có trình tự nội dung y chang nhau đang được treo trên Web.Giống như được mớm cung từ một người (Híc híc!) nào đó nhằm tránh né che chắn đỡ gạt cho ai đó.

Lại có chuyện các nhà văn trẻ Sài Gòn được xe đám tang chở tới Cần Giờ chia phe tổ chức các cuộc chơi thi hoa hậu, cải trang làm Hải tặc, làm Hoàng đế…Trời đất ơi, ngộ quá xá trời ngộ. Giống như mấy trò trơi thiếu nhi vận, thiếu niên vận nhằm thông qua đó thu hút, tập họp, giáo dục, giác ngộ cùng tiến tới đoàn ngũ hóa dần dần thành lực lượng chính trị quần chúng phục vụ cho đường lối chiến tranh ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược thời chống Mỹ cứu nước ngày nào…

Ối Chèn Phẹt ơi, không thể tưởng tượng được những trò chơi tập thể quá date thời Bác Mao còn sống này lại được khôi phục rồi áp dụng cho mấy nhà văn nữ lẫn nam gọi là trẻ nhưng phần lớn đều làm cha làm mẹ hết rồi.

Lại nghe nói có nhẩy lò cò gì nữa.Úi chu choa ơi.Nếu mô hình Hội-Trại văn học này mở rộng tới các nhà văn già hiện nay mỗi khi có một trại sáng tác hay bồi dưỡng VH nào đó thì ắt dzui dữ lắm.Trở thành cảnh tượng đất nước đang thời cực thái bình thạnh trị có lẽ hơn cả đời Nghiêu Thuấn xưa.Lúc ấy ai ăn hối lộ cứ ăn; ai đói nghèo, oan uổng vì bị tư bản xanh đỏ nước ngoài câu kết với cường hào ác mới trong nước giựt đất, ăn chận tiền bồi thường hay đàn áp, đánh đập công nhân lao động đồng bào thì cứ việc thoải mái đói nghèo oan uổng.

Nhà văn chúng em cứ tập trung vào việc nhày lò cò quanh đóm lửa hồng hội trại cùng lò cò quanh trang viết mà thôi. Hi hi…Sướng thật mấy đại hài đồng văn thi sĩ Sài Gòn ơi. Hội thì có nhưng chả thấy Nghị đâu.Mà có Nghị gì đó thì giống như mấy cô cậu học trò xầm xì nhao nhao trong việc xin thêm tiền đi học, đi chơi game hay phải sắm xe gắn máy cho mình từ ba mẹ.
Mắc …cười quá. Không ..nín comment vào đây được. Có gì thì xin dùng văn thi thơ cao siêu bóng bẩy lý giải hóa độ giùm cái đầu óc bả đầu kiêm dừa khô cùng tâm thế vô cùng không khách quan vì đã không nói theo cái vô cùng chủ quan của cán bộ nhé.
bái bai.
He…he…
Nguồn: Phạm Viết Đào-Blog.


 

NẾU TRUNG QUỐC BỊ PHƯƠNG TÂY CẤM VẬN LẦN NỮA?

Việt Nam và ASEAN quyết tâm cắt lưỡi bò Bắc Kinh

Nếu Trung Quốc bị phương Tây cấm vận lần nữa 

Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, Trung Quốc bị một số nước phương Tây chủ yếu cấm vận về nhiều mặt. Sau một thời gian, hầu hết mọi cấm vận đã được xoá bỏ. Nay, nếu bị cấm vận lần nữa, Trung Quốc sẽ ra sao?

Một người Trung Quốc giấu tên (bút danh: Thần Bản bố y xyj) nhưng tỏ ra khá quen thuộc với nhiều nhân vật có trách nhiệm trong những ngành sản xuất, quản lý có liên quan của Trung Quốc đã đề cập tới vấn đề nói trên. Theo ông này, nếu Trung Quốc bị cấm vận lần nữa, Trung Quốc phải gánh những hậu quả sau đây:

1. Sau ba năm, mọi máy bay hàng không dân dụng Trung Quốc sẽ phải ngừng bay vì không còn phụ tùng thay thế.

2. Sau ba năm, mọi tuyến đường sắt cao tốc phải ngừng chạy. Theo ông Hà Hoa Vũ, tổng công trình sư bộ Đường sắt Trung Quốc và ông Tạ Duy Đạt, giáo sư trường đại học Đồng Tế: “Toàn bộ bánh xe lửa chạy tốc độ cao và phần mềm hệ thống điều khiển phải nhập khẩu”.

3. Toàn bộ ngành sản xuất xe hơi du lịch Trung Quốc phải ngừng sản xuất, vì Trung Quốc chưa thể sản xuất được các chi tiết của động cơ. Ngay cả thép tấm, bu lông dùng cho xe cao cấp cũng vậy.

4. Toàn bộ ngành sản xuất ti vi màu Trung Quốc sụp đổ. Theo thứ trưởng bộ Công nghiệp Loại Cần Kiệm, toàn bộ hệ thống mạch vi điện tử trong ti vi do Trung Quốc sản xuất vẫn dựa vào nhập khẩu.

5. Toàn bộ ngành sản xuất điện thoại di động sụp đổ. Toàn bộ hệ thống mạch vi điện tử dùng trong điện thoại di động đều phải dựa vào nhập khẩu.

6. Toàn bộ ngành sản xuất màn hình lỏng sụp đổ vì 98% màn hình lỏng dựa vào nhập khẩu.

7. Trung Quốc sẽ không xây dựng những toà nhà cao tầng nữa, bởi vì sẽ không có thang máy đủ khả năng leo lên độ cao lớn. Ngành thang máy Trung Quốc, kể cả khâu kỹ thuật và nghiên cứu phát triển ngành này hoàn toàn bị thương nhân nước ngoài khống chế, người Trung Quốc chỉ nhận trách nhiệm “lắp ráp”. 

8. Ngành công nghiệp đóng tàu sẽ sụp đổ toàn diện vì Trung Quốc chỉ biết đóng vỏ tàu và lắp ráp.

9. Trung Quốc sẽ không còn máy giặt, tủ lạnh, vì chưa sản xuất được hệ thống điện dùng cho hai loại máy này.

10. Ngành sản xuất đồ chơi Trung Quốc sẽ hoàn toàn sụp đổ, bởi vì các hệ thống vi mạch dùng cho đồ chơi, Trung Quốc cũng chưa sản xuất được.

11. Ngành máy móc công trình Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện. Theo thống kê của hội máy móc công trình tỉnh Hồ Nam, tiền nhập khẩu phụ tùng cho các loại máy công trình của tỉnh này chiếm 40% giá thành. Năm 2006 xuất khẩu được 500 triệu USD, tiền nhập khẩu phụ tùng chi tiết máy mất 300 triệu USD.
12. Ngành sản xuất điện chạy bằng sức gió Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì toàn bộ kỹ thuật then chốt của ngành này đều do nước ngoài nắm.

13. Trung Quốc sẽ không còn máy bay trực thăng. Qua lần động đất ở Tứ Xuyên, thấy xuất hiện nhiều máy bay trực thăng với nhiều kiểu dáng. Toàn bộ là hàng nhập của Nga, Mỹ, Pháp. Trong nước có loại Zhi-8 (Trực-8) nhưng phải phỏng theo kiểu Siêu ong vàng của Pháp, còn loại Zhi-9 (Trực-9) phải nhập khẩu kỹ thuật của Pháp.

14. Máy công cụ khống chế bằng số và dao cắt gọt sẽ tuyệt chủng ở Trung Quốc. Hiệu trưởng trường đại học Khoa học kỹ thuật Trung Hoa, viện sĩ viện Công trình Trung Quốc Lý Bồi Căn cho biết từ năm 2002, Trung Quốc trở thành nước dùng nhiều máy công cụ các loại lớn nhất thế giới và nước nhập khẩu các loại máy này lớn nhất thế giới. Năm 2005, Trung Quốc nhập khẩu các loại máy công cụ cao cấp hết 5,2 tỉ USD, năm 2006 tăng lên 6,4 tỉ USD. 80% máy công cụ sản xuất trong nước và các loại dao cắt gọt vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.

15. Các thiết bị then chốt dùng cho điện hạt nhân, thiết bị chế tạo các mạch vi điện tử, thiết bị y tế dùng hạt nhân, thiết bị kỹ thuật cốt lõi của ngành hoá dầu v.v... sẽ không còn vì Trung Quốc chưa chế tạo được.

16. Toàn bộ ngành sản xuất mô tô Trung Quốc sẽ sụp đổ bởi vì những phụ tùng then chốt vẫn phải nhập khẩu.

Sau khi đưa ra những luận cứ trên, tác giả viết: “Thưa các vị, tôi biết những điều tôi viết đã làm tổn thương sâu sắc tới lòng tự tôn yếu đuối của các vị, trước tiên xin đừng vội phản đối, tôi nói là sự thực. Sự thực là các máy tính điện tử mà các vị đang sử dụng hiện nay có tới 99,99999% sử dụng mạch vi điện tử nước ngoài...”.

Tam Dương (lược dịch)

TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH: NHÂN VỤ TÀU VIKING 2


Nguyễn Trọng Vĩnh
.
image
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Ảnh: NXD
Ngày 26/05 nhiều tàu Hải giám Trung Quốc xông vào cắt cáp của tàu Bình Minh 2 đang thăm dò địa chấn trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta chỉ cách tỉnh Khánh Hòa có 116 hải lý, đã bị Bộ Ngoại giao, báo chí và nhân dân ta phản đối, dư luận thế giới chỉ trích. Vậy mà sáng ngày 09/06 phía Trung Quốc vẫn cố tình ngang ngạnh cho hai tàu Hải giám yểm trợ tàu cá 6226 lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking 2 phá hoạt động thăm dò tại tọa độ 47,5’ Bắc và 109 độ 17,5’ Đông trong thềm lục địa Việt Nam.

1. Rơi mặt nạ

Hai sự hiện trên đã làm rơi cái mặt nạ hòa bình, có trách nhiệm của nước lớn, phơi rõ bộ mặt thật “bá quyền nước lớn ăn hiếp nước nhỏ” của những người cầm quyền Trung Quốc. Nó cũng làm rách toạc “tấm màn phù thủy 16 chữ và 4 tốt được giăng ra với lãnh đạo Việt Nam lâu nay, " lộ rõ tính giả nhân giả nghĩa”, “ nói một đằng, làm một nẻo”, “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm, của những người lãnh đạo Trung Quốc.

2. Chống quốc tế hóa và đàm phán đa phương

Mọi tranh chấp, tốt nhất là nên giải quyết bằng đàm phán hòa bình. Chúng ta muốn đàm phán công khai giữa Trung Quốc với tập thể các nước ASEAN liên quan. Trung Quốc không chịu, cố đòi đàm phán nội bộ song phương với Việt Nam cũng như với từng nước ASEAN. Vì sao vậy?

a. Vì họ chỉ to mồm tuyên bố chủ quyền “không thể tranh cãi” chỗ này, chỗ kia mà họ không có được cứ liệu lịch sử nào có giá trị để chứng minh kể cả những vùng biển và bãi đá, cách rất xa Trung Quốc, gần nước hữu quan; còn về phía Việt Nam, chúng ta có đủ cứ liệu lịch sử và pháp lý. Từ đời vua Minh Mạng thứ 15 đã có sắc chỉ ban cho đội trưởng Hải đội Hoàng Sa phái ra Hoàng Sa tìm kiếm sản vật, coi giữ các đảo và cắm bia khẳng định chủ quyền đất nước Đại Nam (Việt Nam ngày nay).

Thời thực dân Pháp cai trị Việt Nam thì do một phân đội Pháp đóng giữ. Chiến tranh thế giới thứ II Nhật hất cẳng Pháp chiếm đóng, sau khi Nhật đầu hàng, tại Hội nghị San Francisco 1951 gồm 50 nước có cả đại diện Trung Quốc, ông Trần Văn Hữu thay mặt Việt Nam tuyên bố chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, cả Hội nghị không ai phản đối. Thời Việt Nam Cộng hòa, thì quân Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Khi chúng ta sắp giành toàn thắng thì Trung Quốc tranh thủ thời cơ đem quân đánh quân Việt Nam Cộng hòa mà chiếm lấy quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việc này cả thế giới đều biết. Nếu nhà nước ta công bố những tư liệu này và tuyên truyền rộng rãi ra quốc tế, đưa ra Liên Hợp Quốc, ra Tòa án Quốc tế, đưa ra trong đàm phán đa phương thì Trung Quốc thất lý, cái “lưỡi bò” tự vẽ ra một cách phi pháp thì có giá trị gì, ai công nhận? Đây mới chính là lấy nước chữa lửa hung hăng ăn cướp của giới cầm quyền Trung Quốc.

b. Họ không chịu đàm phán tập thể với các nước ASEAN vì họ không có lý gì để cãi với họ trừ câu vẫn to mồm tuyên bố suông “chủ quyền của Trung Quốc không thể tranh cãi” trơ trẽn bấy lâu nay. Họ nằng nặc đòi đàm phán nội bộ song phương. Đó là thủ đoạn chia rẽ kiểubẻ từng chiếc đũa trong bó đũa. Đàm phán tay đôi để họ dễ đe dọa, dụ dỗ, mua chuộc và gây nghi ngờ lẫn nhau giữa các nước hữu quan. Việt Nam ta công khai phải đoàn kết với các nước trong Biển Đông trong cuộc đấu tranh chung chống Trung Quốc vi phạm chủ quyền các nước chúng ta.

3. Đâu còn tình láng giềng, anh em

Về tình láng giềng anh em. Khách quan mà nói thì trong những năm 50, khi cách mạng hai nước thành công, khí thế cách mạng đang lên, còn có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa, ta coi Liên Xô là anh Cả, Trung Quốc là anh Hai, lúc đó quả có tinh thần láng giềng, anh em. Không có sự giúp đỡ của Trung Quốc về vũ khí, phương tiện thì chúng ta chưa thắng Pháp vào năm 1954. Khi Mỹ hất cẳng Pháp nhảy vào đánh ta cùng với Liên Xô, Trung Quốc cũng giúp ta về nhiều mặt. Trong sự giúp đỡ đó cũng có lợi ích của Trung Quốc. Lúc đó ông Mao còn coi Mỹ là kẻ thù. Đánh Mỹ cùng Việt Nam trên đất Việt Nam còn hơn để Mỹ thẳng tiến sát biên giới Trung Quốc như năm 1950 Mỹ tiến sát sông Áp Lục, bom rơi vào đất Trung Quốc thì phức tạp. Về cuối cuộc chiến, Mỹ gặp khó khăn, Nixon tìm sang Trung Quốc hy vọng nhờ gỡ bí và Đặng Tiểu Bình cũng muốn bắt tay với Mỹ thì tình nghĩa anh em đối với Việt Nam đã dần phai nhạt. Đến tháng 2/1979 Đặng Tiểu Bình huy động hàng chục vạn quân sang bắn giết dân ta, tàn phá 6 tỉnh biên giới của ta và tiếp đến 1988 đem chiến hạm đánh đắm tàu của ta, giết hơn 70 cán bộ, chiến sĩ ta thì chính những người cầm quyền Trung Quốc đã coi Việt Nam là kẻ thù rồi, còn đâu là tình láng giềng anh em nữa mà bây giờ còn kỳ vọng?! (tôi không nói giữa nhân dân hai nước).

4. Trung Quốc đàm phán bao giờ cũng ăn hơn

Cuộc đấu tranh của các nước ASEAN trong đó có Việt Nam với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của mình là cuộc đấu tranh lâu dài, tất yếu rồi cũng có đàm phán, đàm phán cũng lâu dài, không dễ dàng. Chúng ta phải kiên trì. Tôi có kinh nghiệm là trong đàm phán, Trung Quốc bao giờ cũng ngoan cố giữ quan điểm của mình, không nhượng bộ. Cuộc đàm phán phân định biên giới trên bộ bắt đầu từ năm 1974, 1975. Khi tôi còn làm Đại sứ tại Bắc Kinh mãi đến năm 2000 hai bên ký hiệp định, chúng ta còn mất nhiều phần đất, mất cao điểm 1509 trong huyện Vỵ Xuyên, Hà Giang, ½ thác Bản Giốc, hơn 100m từ Hữu Nghị quan xuống Tân Thanh, cộng lại mất bằng cả một tỉnh Thái Bình. Trung Quốc bao giờ cũng tìm cách ăn hơn. Chúng ta cần cảnh giác!

5. Cậy mạnh ăn hiếp, Việt Nam cũng không sợ

Mặc dầu tôi biết bán chất của người cầm quyền Trung Quốc, nhưng tôi vẫn muốn mọi vấn đề xảy ra trong quan hệ hai nước đều được giải quyết bằng hòa bình. Tôi không chủ trương đối đầu quân sự với họ không phải vì thấy lực lượng quân sự của họ mạnh gấp nhiều lần lực lượng quốc phòng của chúng tôi mà sợ đâu. Tôi thấm nhuần tư tưởng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng tôi mà thôi. Tôi cũng muốn chung sống hòa bình hữu nghị với Trung Quốc trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không xâm phạm lợi ích của nhau, không can thiệp vào nội bộ nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Tôi tin rằng, nhân dân Trung Quốc cũng muốn thế. Cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm 1979 họ được gì, các triều đại Hoàng đế Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam, người dân Trung Quốc được gì.

Qua hai vụ việc tối 26/05 và 09/06 tôi mong lãnh đạo chúng tôi nhận ra thực chất của “16 chữ và 4 tốt”, phát huy tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm, đi cùng nhân dân, lên tiếng đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, công bố tư liệu cho toàn thể thế giới biết, để cho quần chúng biểu thị lòng yêu nước của mình, để cho báo chí phê phán sai trái của Trung Quốc. Để họ chấm dứt hành động ngang ngược phá hoạt động bình thường của chúng ta trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ta, chấm dứt hãm hại ngư dân ta. Trong tình hình thế giới hiện nay, nếu gây chiến tranh họ sẽ bị hoàn toàn cô lập.

N. T. V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Nguồn: Bauxite VietNam.