Thứ Năm, 9 tháng 6, 2011

NHỚ ƠN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT

NHỚ ƠN THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT
Nguyễn Minh Nhị
Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang

Người nhờ đất sống. Đất nhờ người có tên. Người nhờ người dẫn lối. Uống nước nhớ nguồn là đạo lý Việt Nam ta.
    
Nơi đây, ngày 25/7/1996, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt trên đường khảo sát tình hình, tìm giải pháp cho phát triển sản xuất, hạn chế ngập lụt, xây dựng nông thôn mới, đã dừng chân trao đổi với cán bộ và nhân dân để tìm hướng thoát lũ ra biển Tây. Hướng ấy nay là con kinh, có ký hiệu T5 - Tuần Thống mà ngay sau khi đào thông, nhân dân đã gọi là "Kinh Ông Kiệt". Và tại kỳ họp thứ 14, Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang đã ra Nghị Quyết số 24 ngày 10/7/2009 chánh thức đặt tên: KINH VÕ VĂN KIỆT.

Trên đây là phần mở đầu Văn Bia kỷ niệm công trình thoát lũ ra Biển Tây được Tỉnh An Giang xây dựng tại đầu vàm kinh T5 giáp kinh Vĩnh Tế nhân ngày giổ lần thứ ba của Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt.

Kinh được khởi đào ngày 22/4 và hoàn thành ngày 30/8/1997, trên phần đất An Giang dài 10.900 mét, trên phần đất Kiên Giang dài 25.800 mét, tổng chiều dài 36.700 mét, bề rộng mặt kinh từ 30 - 36 mét, đáy rộng 20 mét, sâu 4 - 4,5 mét. Tổng lượng đất đào 5.608.000 mét khối, đất đấp 2.257.000 mét khối, tổng mức đầu tư  97.743.000.000 đồng.

Ngoài nhiệm vụ là trục chánh trong hệ thống các công trình đưa nước ngọt nhiều phù sa vào sâu Tứ giác Long Xuyên, hạn chế ngập lụt dân cư, ngăn và thoát lũ ít phù sa ra Biển Tây; kinh Võ Văn Kiệt  rửa phèn cải tạo đất khai hoang và  tưới tiêu cho 16.000 héc-ta đất sản xuất trên vùng trũng Tứ Giác mà các nhà khoa học gọi là "Túi phèn".

Đây là một trong hệ thống các công trình cấp bách thực hiện ngay trong năm 1997 mà Quyết định 99/TTg của Thủ Tướng Chánh Phủ bao quát cho cả giai đoạn 1996 - 2000 về công tác thuỷ lợi, giao thông, xây dựng các cụm - tuyến dân cư vượt lũ, xây dựng nông thôn mới toàn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long; tiếp tục hoàn thiện các Chương trình: Khai thác Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và Bán đảo Cà Mau do Ông khởi xướng từ những năm 1987 - 1988 - 1989 khi đất nước vừa Đổi mới, khi Ông còn là Phó Chủ Tịch thứ nhất Hội đồng Bộ Trưởng, rồi Chủ Tịch HĐBT - Thủ Tướng Chánh Phủ, cả khi là Cố Vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng và cho đến khi đột ngột vĩnh biệt chúng ta ngày 11/6/2008 trong tư thế chuẩn bị cho cuộc "chiến đấu" mới chống lại hiện tượng toàn cầu:  "Biến đổi khí hậu - nước biển dâng" mà Ông luôn trăn trở cho Đồng bằng Cửu Long và cho cả nước, mà thế giới dự báo là nước ta nằm trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Thực hiện những chủ trương và các quyết định của ông, ĐBSCL đã đưa sản lượng lúa tăng gấp đôi, đạt 20 triệu tấn, riêng ba tỉnh An Giang - Kiên Giang - Đồng Tháp có sản lượng 10 triệu tấn. ĐBSCL không chỉ là vựa lúa số một của cả nước mà còn là nguồn cung cấp chủ yếu để Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới mổi năm trên dưới 5 - 6 triệu tấn. Bộ mặt nông thôn toàn vùng khởi sắc ngày một rõ nét. Ông đã ghi đậm dấu ấn trên đồng đất Miền Tây, cũng như các công trình trên cả nước mà ông chủ xướng như: Thủy điện Trị An, Đường dây 500 KV Bắc - Nam, Lọc dầu Dung Quốc; các Chương trình: Phủ xanh đất trống đồi trọc, Vệ sinh môi trường, Nước sạch nông thôn, Kiên cố hoá trường học...Những chủ trương có tầm lịch sử.

Hình ảnh Thủ tướng - Anh Sáu Dân thân thương gần gũi nhân dân, nhất là nông dân và dân nghèo, với văn nghệ sĩ - trí thức - nhà tu hành, bà con Việt Kiều; và hình ảnh một vị thủ tướng Việt Nam Đổi Mới lần đầu tiên xuất hiện và ghi ấn tượng tốt đẹp với bạn bè các nước và trên các diễn đàn quốc tế mà ông có mặt. Tất cả, người ta gọi đó là "Dấu ấn Võ Văn Kiệt"!.

Ngược dòng thời gian, người Miền Tây nhớ mãi một Bí thư Khu Uỷ khu Tây Nam Bộ - với bí danh anh Tám Thuận kiên cường, mưu lược lảnh đạo quân và dân Khu 9 đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm khốc liệt của Mỹ - Thiệu sau Hiệp định Pari, tạo tiền đế cho chiến trường miền Nam chuyển thế chiến lược tiến lên Tổng tiến công 1975 toàn thắng. Cả nước cũng biết đến một Bí thư Thành uỷ Hồ Chí Minh tất bật lo gạo hàng ngày cho hàng triệu dân; không chịu bó tay, năng động sáng tạo vực dậy những nhà máy xí nghiệp nằm im vì không có nguyên -nhiên liệu - phụ tùng, tìm cơ chế cho xuất nhập khẩu…góp phần tạo tiền đề cho công cuộc Đổi Mới của cả nước năm 1986. Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh mãi mãi không quên hình bóng Chú Sáu lặn lội trên những công - nông trường Thanh niên xung phong, trên mặt trận Biên giới Tây Nam trong những ngày cả nước gian nan dầu sôi lửa bỏng.

Ông sanh ngày 23/11/1922 trong một gia đình nông dân nghèo xã Trung Hiệp huyện Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long, tên thật là Phan Văn Hoà; năm  16 tuổi Ông đến với cách mạng, là một trong những người lãnh đạo nhân dân huyện Vũng Liêm khởi nghĩa Nam kỳ; từ đó, trên con đường Cách mạng - Kháng chiến, từ Nam ra Bắc, xuôi ngược ba Miền, Ông luôn luôn đi đầu trong suy nghĩ và hành động cách mạng, luôn ở vị trí là người lãnh đạo chỉ huy ở tuyến đầu kiên cường, dũng cảm, tận tuỵ, được mọi người yêu quí và kính trọng. Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, phu nhân và ba người con của Ông đã hy sinh trước bom đạn của quân thù, để lại trong Ông những tổn thất và nổi đau không vì bù đấp được cho đến tận cuối đời. Nhưng với cách mạng, với cuộc đời, Ông luôn là người lạc quan tin tưởng, luôn luôn rạng rở nụ cười - "Nụ cười Võ Văn Kiệt!".

Nhân kỷ niệm lần thứ ba ngày Ông về cõi vĩnh hằng -11//6/2008,  nhân dân An Giang trân trọng khánh thành công trình "Nhớ ơn Thủ Tướng Võ Văn Kiệt" chính tại nơi mười lăm  năm trước Ông đã vạch hướng cho công trình thoát lũ ra Biển Tây. Mảnh đất nầy từ nay có tên Võ Văn Kiệt, nối tiếp Vĩnh Tế - Thoại Hà, lịch sử 200 năm liên tục một dòng chảy cuộn tràn sức sống trên mảnh đất tận cùng Tổ Quốc ở phương Nam!.
   
Ông mãi mãi:

"Vẫn là Thủ Tướng của nhân dân
Là Anh Sáu của mọi gia đình
Lồng lộng bóng soi miền sông nước

Đời nặng ân tình đất nặng chân".                                     
              
Long Xuyên, ngày 04/04/2011.

*Bài viết do Ông Nguyễn Minh Nhị gửi đến NXD-Blog. Xin chân thành cảm ơn Ông!


ÔNG SÁU DÂN DẠY TÔI NGHỀ VIẾT BÁO!

Tô Văn Trường 

Thấm thoát đã 3 năm, kể từ ngày Ông Sáu Dân đi xa. Cũng trong thời gian ấy, nghe theo lời dạy của Ông, tôi mạnh dạn tiếp tục viết  khoảng gần trăm  bài báo được anh em, bạn bè, bạn đọc chú ý và ủng hộ. Chắc chắn tôi không phải là nhà báo chuyên nghiệp (nhà báo có cái nghiệp phải mang), mà chỉ là người làm công tác khoa học  thích viết báo, nhưng cũng đã đủ say sưa, tỉnh táo và can đảm  để nói lên những điều tâm huyết của mình và của  người dân. Nhân ngày giỗ Ông Sáu, thắp nén hương thành kính, tưởng nhớ đến Ông là con người đến từ dân, song luôn ở trong dân, dẫu đã đi về cõi vình hằng. Viết đến đây, tôi lại nhớ lời Ông dạy ngày nào:“Đừng bao giờ nản chí, nghề viết không dễ, để viết cho đúng, cho trúng không chỉ có tâm hồn nghệ sĩ mà trước hết  phải có tinh thần chiến sĩ”.

Trước kia, tôi đã từng nghe người ta nói: “Làm báo là làm nghệ thuật và nhà báo phải là nghệ sĩ”. Từ khi còn rất trẻ, là học sinh phổ thông, là sinh viên, tôi đã thích viết báo tường ở lớp, ở khoa.  Khi đã trưởng thành làm cái nghề khoa học kỹ thuật khô khan, tôi càng ham “ viết lách” không phải để trở thành nghệ sĩ mà chỉ muốn trải lòng mình với mọi người vì thấy có quá nhiều điều muốn nói. Nhưng chỉ đến khi được gặp và gần gũi  Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tên gọi thân mật là Sáu Dân), tôi mới ngộ ra rằng viết báo không phải dễ, muốn làm được như một nhà báo chân chính, thực sự  là một công việc “đội đá, vá trời”! Nhưng cũng chính Ông Sáu Dân đã  quan tâm, động viên cho tôi viết chỉ có điều Ông luôn căn dặn :”Viết báo không chỉ cần có tâm hồn nghệ sĩ, mà trước hết phải có gan của người chiến sĩ cầm súng ra chiến trường nghĩa là phải luôn chiến đấu cho sự thật và tôn trọng, phản ánh sự thật”.   

Có thể nói Ông Sáu chính là người thầy, người chỉ dẫn cho tôi, thổi ngọn lửa nhiệt huyết và trách nhiệm của người cầm bút.  “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” dậy nửa chữ cũng là thầy. Tuy  Ông không dạy tôi con chữ nhưng cao hơn  tất cả, Ông dạy tôi làm người.

Tôi  nhớ có lần nhà báo Lục Tùng thường trú ở đồng bằng sông Cửu Long , cùng với một đồng nghiệp từ Cần Thơ về Vĩnh Long phỏng vấn Ông Sáu để làm bài  kết luận cho Diễn đàn liên quan đến chủ đề “Bờ bao và cây lúa” đăng trên báo Lao Động.  Mặc dù bản thảo bài phỏng vấn khá công phu nhưng khi về thành phố Hồ Chí Minh, Ông Sáu vẫn tiếp tục suy nghĩ, tự tay viết bổ sung đầy 2 trang (bằng bút  bis chữ màu đỏ) chuyển lại cho tôi để tổng hợp thành một bài viết hoàn chỉnh theo ý của Ông.  Nhờ có bộ óc thông tuệ, am hiểu thực tiễn, có nhãn quan chính trị, tầm nhìn xa, nhiều bài viết, trả lời phỏng vấn của Ông Sáu đối với báo chí ở trong và ngoài nước  rất tâm huyết, thực sự thổi “lửa” vào cuộc sống.

Trung tuần  tháng 11 năm 2007, nhân sắp đến sinh nhật lần thứ 85 của Ông Sáu (23/11/1922 - 23/11/2007)  nhà báo Lê Phú Khải đến chỗ tôi làm việc “rủ rê” cùng đến thăm Ông Sáu. Lúc ấy, tôi đang  bận thu xếp  công việc ở cơ quan để ngày hôm sau cùng GS Võ Tòng Xuân và Kỹ sư Đặng Minh Sơn Tổng giám đốc Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng quốc tế (ICIC)  đi Sierra Leone để  thảo luận với các quan chức của chính phủ về chương trình an ninh lương thực và  giúp nước bạn trồng lúa, làm thủy lợi thí điểm ở vùng  Mange Brureh cho nên chỉ kịp trao đổi tóm tắt với Anh Khải một số ý kiến hiểu biết của mình về Ông Sáu. Khi từ  Tây Phi trở về, được đọc bài  báo “Phong độ, bản lĩnh và sáng tạo” của nhà báo Lê Phú Khải viết vê Ông Sáu Dân, đăng trên báo Sài gòn giải phóng ngày 23/11/2007, tôi nhớ nhất câu đối mừng thọ đồng chí Võ Văn Kiệt:

“Áo vải cờ đào, thuở thanh xuân là anh hùng đi cứu nước
Giấy trắng mực đen, tuổi tám lăm thành hào Kiệt của Dân”

Theo một số anh em có điều kiện nhiều năm làm việc với Ông Sáu Dân, tóm tắt trong Ông có mười con người, lần lượt xuất hiện, con người sau không loại bỏ con người trước, đến tuổi trung niên của Ông Sáu Dân thì hội tụ đủ cả  mười con người, hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau và tôn nhau lên. Mười con người ấy là: (1) Con người dân nghèo, làm việc lam lũ và thất học từ nhỏ; (2) Con người Nam bộ đất Vĩnh Long; (3) Con người yêu nước đến với cách mạng như đến một cuộc hẹn gặp; (4) Con người tự làm ra mình; (5) Con người trong dân, của dân, do dân, vì dân, từ cấp cơ sở lên cấp quốc gia và quốc tế, qua các nấc thang, từ miền Nam đến khắp nơi trong cả nước, từ chiến tranh đến hòa bình, trải qua các cương vị, các dạng hoạt động, các vùng miền, các thời kỳ lịch sử; (6)  Con người trí thức; (7) Con người chính khách; (8) Con người nghệ sĩ, yêu cái đẹp, thưởng thức cái đẹp, làm ra cái đẹp theo cách của mình; (9) Con người chiến sĩ, thách đấu không ngừng nghỉ, mạnh dạn sáng tạo như hít thở để sống, đồng thời tuân thủ và đòi hỏi kỷ luật nghiêm minh; (10) Con người thật người, rất người, yêu sống say mê, mãnh liệt, với những ưu điểm người và khiếm khuyết người.
Một số đồng nghiệp, bạn bè của tôi khi thảo luận về 10 con người trong Ông Sáu Dân, họ nhìn nhận, đánh giá tùy theo góc đứng, cách nhìn của mỗi người nhưng đều có điểm chung là kính trọng, ngưỡng mộ vị Thủ tướng của nhân dân. Nếu trong 10 con người Sáu Dân trên đây, cần chọn 1, cho ngắn gọn, tuy không đầy đủ, thì tôi chọn con người thứ 5.  
Theo chúng tôi hiểu,  Ông  Sáu Dân là con người của lý trí sáng suốt, đồng thời là con người của tình nghĩa đồng bào, đồng chí giữa những người Việt Nam, tình nghĩa con người giữa những con người với nhau. Tình nghĩa chân thực, vững bền, đậm đà, thắm thiết. Tình nghĩa với từng cộng đồng người, và tình nghĩa với từng người, kể cả với những người chỉ cùng gặp gỡ, cùng làm việc, cùng chung sống một thời gian ngắn.  Trong tình nghĩa con người với nhau, Ông Sáu  là người biết dâng đi, mà cũng biết nhận về.  Ông ghi nhớ, trân trọng, cảm kích từng tình nghĩa mà mình nhận được.

Trong công việc, khi ở cấp địa phương cũng như khi ở cấp quốc gia, Ông  Sáu rất coi trọng xác định quan điểm và phương hướng hoạt động trong từng lĩnh vực, từng loại việc, song không quá thiên về quan điểm và phương hướng, mà luôn luôn tìm tòi, sáng tạo những phương pháp, những cách thức hoạt động thiết thực, cụ thể. Nhiều anh em đã gọi Ông Sáu Dân là  “con người của phương pháp", phương pháp ấy nẩy sinh chủ yếu từ trong dân, trong việc Ông Sáu Dân sống trong dân, cùng dân, học tập và phát huy dân.

Ông Sáu là người có tầm nhìn, tư duy sâu sắc, mạnh mẽ  để lại nhiều dấu ấn trong giai đoạn lịch sử nhiều biến động của đất nước. Kể cả khi được quyền nghỉ ngơi, Ông vẫn không ngừng tư duy, trăn trở làm sao để đất nước phát triển giầu mạnh, người dân được thực sự tự do, sung sướng. Ông không có bằng cấp học vị nhưng rất thông tuệ nhờ chịu khó tự học, ham đọc sách, học ở trường đời, và biết trọng dụng người tài. Ông học từ thực tế qua công việc từ nguyên thủ quốc gia của các nước đến những buổi trò chuyện, đối thoại với các nhà khoa học, người dân, lắng nghe, suy nghĩ, kiểm nghiệm, sáng tạo để tạo thành trí thức của riêng mình. Từ những việc tưởng chừng rất nhỏ, Ông nhìn ra những việc trọng đại lớn lao của đất nước, của dân tộc. Năm tháng trôi qua, lịch sử ngày càng chứng minh các đề xuất, kiến nghị của Ông luôn đi trước thời đại và được thực tế  minh chứng.

Nhớ tới Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nhớ tới nhân cách của ông. Có thể nói Ông là người lãnh đạo tiên phong suy nghĩ nói và viết về nỗi đau chiến tranh, về sự cần thiết phải hàn gắn nỗi đau đó cho người dân ở cả 2 chiến tuyến. Chính vì tấm lòng nhân văn đó mà người dân càng yêu mến, kính trọng Ông.  Phải là người có tầm nhìn, một nhân cách lớn như Ông  mới hiểu được thấu đáo hai chữ Hiếu Dân và ý nghĩa của hòa giải dân tộc. 

Phẩm chất của người lãnh đạo ở Ông còn thể hiện từ việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Ông luôn quan tâm đi thực tế kiểm tra để  cập nhật, đối chiếu với nhu cầu đòi hỏi của thực tế và sẵn sàng điều chỉnh, bổ sung  các quyết định vì quyền lợi của người dân. Tầm vóc, nhân cách, sự sáng suốt, quyết đoán., dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Ông đã được nhiều người nhắc đến trong các cuốn sách và bài báo viết về Ông.

Mặc dù là người vào sinh, ra tử, hào quang của quá khứ rất đỗi tự hào, có vị thế được nể trọng trong xã hội nhưng Võ Văn Kiệt, luôn sống và hành động vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Nhiều băn khoăn, trăn trở, tâm huyết cuối đời của Ông là suy nghĩ để góp ý với đại hội Đảng lần thứ XI, vai trò trách nhiệm của Quốc hội và Chính phủ đủ mạnh để lãnh đạo đất nước phát triển bền vững. Ông quan tâm đến hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và các thành phần kinh tế. Một trong những nghiên cứu ấp ủ của Ông  là phát triển tổng hợp Vịnh Cam Ranh thành khu kinh tế hùng mạnh, hỗ trợ cho chiến lược tiến ra biển, không phải chỉ đứng trước biển. Ông chia sẻ, day dứt về cuộc sống của người dân vẫn còn nghèo khó lại luôn phải hứng chịu trước các hiểm họa, của thiên tai nhất là bão lũ, hạn hán. 

Trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, Ông  là tấm gương về một nhà lãnh đạo dân chủ,  luôn chân thành học hỏi từ nhân dân, từ giới trí thức tất cả để phục vụ Dân, phục vụ Nước với hàng loạt những quyết sách hệ trọng còn để lại vai trò và dấu ấn sâu đậm cho đến ngày nay. Liên hệ đến thực tế, chúng tôi hiểu để đất nước ổn định và phát triển thì người lãnh đạo thời nào cũng phải biết tin yêu, lắng nghe, kính trọng dân, phục vụ lợi ích của dân, tôn trọng các quyền của dân và phát huy các nguồn lực của dân.

Nhân kỷ niệm 49 ngày Ông Sáu đi xa, tôi viết bài “Lỡ chuyến đi xa” đăng trên báo Sài gòn giải phóng.  Kỷ niệm ngày giỗ đầu tiên của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi trải lòng mình qua bài “Nhịp đập của một trái tim lớn” đăng trên VNN và Tuần VN.

Xin mượn mấy câu thơ của Anh Bẩy Nhị, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang  viết về Ông Sáu Dân để kết luận cho bài viết này: 
"Vẫn là Thủ Tướng của nhân dân
Là Anh Sáu của mọi gia đình
Lồng lộng bóng soi miền sông nước
Đời nặng ân tình đất nặng chân" 
Mời đọc thêm:
LỠ MỘT CHUYẾN ĐI XA
Tô Văn Trường 

Trong thời gian tang lễ, các bài viết về nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (Sáu Dân)  tràn  ngập trên các phương tiện thông tin đại chúng cả trong và ngoài nước. Nhiều bài viết sâu sắc, chân tình làm người đọc rất xúc động. Chúng tôi rất quan tâm đến bài báo tựa đề “Buổi làm việc cuối cùng” của nhà báo Huy Đức với nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đăng trên báo Sài gòn giải phóng ngày 15/6, trong đó có đoạn: ”Từ hơn 2 năm trước, mẩu tin ngắn “Dải băng lớn nhất ở Bắc cực đang tan ra” đã làm ông chú ý. Chính ông cho cắt mẩu tin ấy, chuyển cho TS Tô Văn Trường, Viện trưởng Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam. Ông cũng đọc rất kỹ những cảnh báo của Liên hiệp quốc về khả năng nước biển dâng cao mà Việt Nam là một trong những quốc gia có thể chịu nhiều ảnh hưởng. Ông dự định sẽ đi Hà Lan, như một thường dân cùng với một nhóm chuyên gia thân cận. Chuyến đi vừa để nghiên cứu kinh nghiệm làm đê biển của Hà Lan, quốc gia sống trong điều kiện đất đai thấp hơn mực nước biển, vừa muốn nhắc nhở Việt Nam không thể chậm trễ hơn, nghiên cứu ảnh hưởng của hiện tượng này và có giải pháp chuẩn bị sớm. Chuyến đi Hà Lan ông đã chuẩn bị khá lâu và tới lúc đó thì ông và các thành viên trong đoàn đã đặt vé…để rồi không bao giờ thực hiện được chuyến đi mà ông từng ấp ủ ấy”. 

Đọc bài báo nói trên, tôi chợt nhớ, tìm lại trong quyển sổ thấy mẩu tin nhỏ xíu chỉ bằng 3 ngón tay, do ông Sáu đích thân đưa cho tôi vào cuối tháng 9 năm 2003. Trong bộ óc thông tuệ của ông chứa đựng biết bao những thông tin, tư liệu của cuộc sống nhưng vẫn không quên cả những việc tưởng chừng như rất nhỏ, đã lâu. Chính từ những việc nho nhỏ đó, ông đã suy tư và nhìn ra những việc trọng đại, lớn lao của đất nước, của dân tộc.

Kể từ khi về nước nhận nhiệm vụ, thấm thoát đã 12 năm, tôi may mắn được thường xuyên làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo của ông Sáu. Ngoài tầm vóc của một trong những người lãnh đạo cao nhất của đất nước, tôi nhận được ở  ông tình cảm của người cha, người chú, người thầy, người bạn lớn. Những ngày đầu, ở văn phòng cũng như khi đi khảo sát thực địa, ông thường quan tâm thảo luận các đề tài liên quan đến thuỷ lợi, nông nghiệp, thuỷ điện, giao thông, giáo dục. Tôi vẫn nhớ sau chuyến đi dự lễ khánh thành nhà máy xi măng Sao Mai trở về thành phố vào mùa mưa năm 1998, ngồi trên máy bay trực thăng, ông trao đổi, giảng giải chân tình và hướng dẫn tôi suy nghĩ sang nhiều lĩnh vực kinh tế và xã hội của đất nước. Chính nhờ ông, tôi được đọc nhiều, đi nhiều, viết nhiều…hiểu được phần nào những trăn trở, suy tư của ông về đất nước, con người. 

Ông Sáu mất đi, nhiều người hụt hẫng, trống vắng, riêng tôi còn day dứt, ân hận vì  chính mình đã làm lỡ ước vọng cuối cùng chuyến đi thăm Hà Lan của ông. Ông thường đề cập đất nước Hà Lan tuy nhỏ bé, ngay từ thế kỷ 17 đã phồn vinh nhờ lòng dũng cảm, kiên cường đầy mưu mẹo trong chiến đấu chống ngoại xâm (Tây Ban Nha rồi đến Anh-Pháp) cũng như xây dựng đất nước. Nhiều lần, ông bàn cùng đi Hà Lan, để khảo sát tình hình của đất nước có diện tích, dân số, điều kiện tự nhiên tương tự như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)  nhưng vì sao GDP của họ gấp hơn ta đến 40 lần !?. Sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Nam bộ, ông hiểu sâu sắc về tiềm năng và các trở ngại trên con đường phát triển kinh tế xã hội ở ĐBSCL. Chỉ cần cơn bão vừa, hay một trận lũ lớn như năm 2000 cũng đã gây nên biết bao thảm cảnh, thiệt hại về kinh tế và tổn thất lớn về nhân mạng. Trực tiếp xem phim về quá trình hình thành hệ thống đê biển, cống, âu thuyền của Hà Lan, nghiên cứu tài liệu, thấy rõ sự tác hại ngày càng khốc liệt, không thể lường trước của bão lụt, mực nước biển dâng, ông càng nung nấu ý định đi Hà Lan để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về phòng chống thiên tai. Trước đại hội Đảng lần thứ X, ông bị cơn bạo bệnh phải nằm viện suốt 2 tuần lễ. Chỉ vì lo lắng về sức khoẻ của người tuổi đã cao, khi bay xa hàng vạn km, dù có bác sĩ đi theo nhưng mọi việc khó lường nên mỗi lần ông nhắc đến chuyến đi, tôi đều bàn lùi với đủ các lý do khác nhau. 
.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đang thảo luận chiến lược phát triển tài nguyên nước với Ủy viên Bộ Chính trị Trương Tấn Sang (ngồi giữa) và tác giả (bên phải)

Những năm gần đây, linh cảm quỹ thời gian còn lại không nhiều nên ông hối hả làm việc, hết vào Nam, lại ra Bắc (riêng những ngày lễ tết, sinh nhật, để tránh ồn ào, ông thường lặng lẽ về quê). Năm 2007, đi khảo sát tình hình bão lũ, cứu trợ ở miền trung, miệt mài đến nỗi sau này ông cứ áy náy mãi vì lỡ mất cả cuộc hẹn với cựu Thủ tướng Thái Lan Anand Panyarachun.  Gần đây, thấy bão lụt diễn ra trên thế giới ngày càng khốc liệt, lo cho dân, cho nước, ông lại nhớ về Hà Lan, để rồi cuối cùng chuyến đi được ấn định sẽ xuất phát vào 23 giờ 5 phút đêm 2/6/2008 của Việt Nam Airline từ Tân Sơn Nhất. Theo chương trình, bay đến Paris mất 12 tiếng, rồi trung chuyển qua Hà Lan. Tôi được biết nhiều vị lãnh đạo cấp cao rất quan tâm và lo lắng về sức khoẻ của ông  nhưng ông nhất quyết đi với thành phần thật gọn nhẹ, sao cho ít tốn kém và hiệu quả. Trong kế hoạch, khoảng 12 giờ 30 trưa 3/6 đoàn đến khách sạn ở  thủ đô Hà Lan, thì ngay 3 giờ chiều cùng ngày đã đi thực địa…Đau đớn thay, ước vọng cuối đời của một con người luôn vì dân, vì nước, không biết nghĩ đến bản thân mình lại dở dang không bao giờ thực hiện được.

Những ngày tang lễ, tôi không còn tâm trí và can đảm để viết về ông Sáu vì chỉ mới được vài hàng chữ thì mắt đã ướt nhoè và cổ họng như nghẹn lại. Hôm nay, tương đối tĩnh tâm, tôi muốn ghi lại những kỷ niệm, nhất là về chuyến đi dở dang cuối cùng của ông.  

Ngày 1/6/2008, thư ký của ông gọi điện nói với tôi: ”Chú bị ho, các bác sỹ điều trị ở bệnh viện Thống Nhất chẩn đoán bị viêm phổi, nên phải  điều trị ít ngày cho khoẻ hẳn. Chú nhắn anh, tối mai  cứ bay trước đi Hà Lan…” Không an tâm, khoảng 10 phút sau, tôi gọi lại, dự định hoãn vé để chờ ông cùng đi, thì được thư ký báo lại “ Chú vẫn khoẻ, anh an tâm, mùng 7/6 chú sẽ sang Pháp kiểm tra sức khoẻ sẽ báo để anh biết kế hoạch cùng làm việc ở Hà Lan. Trong trường hợp không sang kịp, chú nhắn anh cứ tiến hành công việc như đã bàn rồi khi về nước hai thầy trò sẽ thảo luận kỹ hơn…” 

Ngày 4/6, ở nhà điện sang Hà Lan báo cho tôi biết ông Sáu đã sang Singapore, rồi sẽ đi Pháp, Hà Lan. Mùng 7/6 từ Hà Lan, tôi gửi email cho ông, nào đâu có biết lúc đó ông đang hôn mê vì lá phổi bên phải bị tổn thương khá nặng, tim, thận đều bị ảnh hưởng phải thở máy và dùng máy lọc thận ở nơi đất khách, quê người. Sáng ngày 11/6 đang công tác ở Born (Đức), vợ tôi từ Việt Nam hốt hoảng, nghẹn ngào, báo tin: “Chú Sáu vừa mới mất ở Singapore, đến trưa hôm nay sẽ đưa di hài chú về TP. Hồ Chí Minh…”  Cả hai đầu dây đều nức nở, rồi chết lặng vì không tin được dù đó là sự thật. Tôi vội vàng kết thúc các chương trình làm việc ở Đức để về viếng chú. Sáng ngày 13/6, vừa về tới sân bay, tôi đến ngay Bệnh viện Thống Nhất, lúc đó rất đông người. Nhờ có người cận vệ của ông Sáu đã chờ sẵn, dẫn tôi đi lối riêng vào viếng trước khi làm lễ nhập quan. Nhìn thi hài nằm bất động như khi đang ngủ, tôi chỉ còn biết nắm chặt bàn tay của ông, khóc như vỡ tung bao nỗi tức tưởi, ấm ức trong lòng và lần đầu tiên trong đời tôi gọi chú xưng con:”Chú Sáu ơi! Con đã về đây, con đợi và mong chú hoài, sao chú lại ra đi đột ngột thế này! Còn biết bao dự định, biết bao tâm sự …chú ơi!”  Thật xót xa, được biết những ngày nằm viện Thống Nhất, ông vẫn đọc và nghiên cứu các tài liệu. Đến ngày 30/5 ông còn bảo mọi người chuẩn bị thu xếp hành lý đến trưa 1/6 về nhà, để tối 2/6 đi Hà Lan. Trưa ngày 13/6 tại Dinh Thống Nhất, gặp anh Ba (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và Hiếu Dân lại nhắc về chuyến đi Hà Lan của ông Sáu, lòng tôi càng tê tái và thầm xin ông tha thứ cho tôi. 

Trên các phương tiện thông tin đại chúng, có rất nhiều bài viết tiếc thương, đánh giá công lao to lớn của ông Sáu đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Các chuyện kể, kỷ niệm về ông từ trong kháng chiến vào sinh, ra tử, bị tù đầy, vợ con ruột thịt, người thân hy sinh trong chiến tranh đến thời kỳ đầy khó khăn, trở ngại khi xây dựng đất nước lại càng kính phục, tiếc thương biết bao về bản lãnh và tư duy vượt thời đại của một con Người suốt đời sống vì dân và thực sự được lòng dân. Không phải ngẫu nhiên, Võ Văn Kiệt lấy bí danh là Sáu Dân, đặt tên con gái yêu quý là Hiếu Dân  mà ngay cả một số bài báo cũng lấy tên là Trọng Dân. Tên tuổi và sự nghiệp của Võ Văn Kiệt đã đi vào lịch sử cận đại. Có những điều ông nói, ông viết phải đến nhiều năm sau mới thấu hiểu được lẽ đời ấy. Có một sự thật ít người nói ra, không phải chỉ khi nghỉ hưu ông mới mạnh dạn góp ý với Đảng và Nhà nước. Lịch sử không  bao giờ có 2 từ “giá như” nhưng tôi vẫn ước ao, đến ngày nào đó, được phép tập hợp công bố tất cả các bài viết, những bức thư công tác của ông Sáu gửi Bộ chính trị, Ban bí thư, thường trực chính phủ và số vị lãnh đạo kể từ sau khi đất nước thống nhất (1975) đến 5/2008 để người dân cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hiểu rõ một cách có hệ thống về tầm vóc của một bộ óc vĩ đại, nhà tư tưởng chiến lược nhìn xa, trông rộng, ý chí tiến công, quyết đoán, luôn thể hiện bản lãnh của một người cộng sản chân chính suốt đời sống và làm việc vì dân, lo cho dân, cho nước.

Trong phạm vi bài viết này, xin kể lại vài mẩu chuyện về tính cách đặc trưng cho phẩm chất Võ Văn Kiệt. Khi còn công tác bí thư thành ủy TP.HCM đến khi làm Thủ tướng, cố vấn hay lúc đã nghỉ hưu ông luôn biết lắng nghe, phân tích các ý kiến trái chiều, biết chấp nhận cả những ý kiến phê bình. Ông thường bảo những vấn đề hệ trọng của đất nước cần phải phát huy trí tuệ của tập thể, thận trọng cân nhắc, không được áp đặt và luôn biết đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên tất cả. Cuộc sống là “bài toán động” nên nhiều khi phải biết nhìn lại mình cho rõ hơn. Khi thảo luận, có những ý kiến khác nhau đó là lẽ tự nhiên của quy luật phát triển, là hồng phúc của đất nước biết tôn trọng dân chủ. Phải thực sự cầu thị, tôn trọng công tác phản biện mới đi đến sự đồng thuận cao và khi đã quyết rồi thì không bàn ngang phải sắn tay làm quyết liệt.

Câu chuyện về đường dây 500 KV cả nước ai cũng biết rất thành công và ca ngợi đó là công lao, dấu ấn của Võ Văn Kiệt nhưng ông bảo đó là công lao của cả tập thể, của Tổng bí thư Đỗ Mười luôn ủng hộ, thúc dục, thì mới có được như ngày nay. Sau khi khánh thành đường dây 500 KV, ông không quên người vừa có công vừa có lỗi nên đã mang huy hiệu và chai rượu vào nhà giam thăm Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải. Tôi được biết, khi ông  Ung Văn Khiêm bị kỷ luật, thời xa xưa ấy, nhiều người sợ vạ lây, xa lánh. Mặc dù một số người thân cận lo lắng, can ngăn nhưng ông vẫn công khai đến thăm vì ông cho rằng người làm cách mạng quan điểm phát triển đất nước có thể  khác nhau nhưng tình người, tình đồng chí không thể bỏ rơi đồng đội khi hoạn nạn. Đấy chính là tính cách rất sòng phẳng và nhân ái của Võ Văn Kiệt.

Bình thường hoá quan hệ với các nước, nghe tưởng như rất đơn giản, thực ra rất phức tạp, có những cơ hội do nhiều nguyên nhân chúng ta đã bỏ lỡ... Ngay chuyện Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, lúc đó ở cấp cao vẫn còn ý kiến khác nhau. Có người vẫn bảo lưu ý kiến “không nhập”. Với tư duy, tầm nhìn biện chứng, ông hiểu rõ bất cứ lĩnh vực nào cũng có hai mặt của nó. Đây là bài toán đánh đổi “được-mất”, miễn sao cái được là lớn nhất và cái mất là ít nhất. Nếu để lỡ mất thời cơ, cái giá phải trả sau này sẽ đắt hơn, nên trên cương vị Thủ tướng, ông rất quyết đoán, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân và cử thứ trưởng Vũ Khoan bay sang Bangkok để  truyền đạt với Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm quyết tâm ký kết gia nhập ASEAN. Mãi đến sau này khi được thừa nhận sự đúng đắn và kịp thời của việc gia nhập ASEAN, ông không quên, nói rõ đấy là nhờ có công lao tư vấn của anh em bên Bộ ngoại giao. 

Ông góp ý với lãnh đạo không phải chỉ toàn là những việc quốc gia, đại sự. Ngày 9/11/2006 khi đọc báo Tiền Phong có bài tựa đề “Chuẩn bị tiệc chiêu đãi phu nhân các lãnh đạo APEC”, từ kinh nghiệm của mình, ông đã viết thư ngay cho một vị lãnh đạo tâm sự, góp ý rất chân tình từ món ăn đặc trưng cho 3 miền, đến tặng phẩm và lễ tiếp, bởi vì  ông nghĩ  qua đây, thể hiện bản sắc văn hoá Việt Nam. Vừa nghĩ đến một phần quốc thể, vừa là mối quan hệ anh em, đồng chí thân tình nên ông mới quan tâm, từng chi tiết nhỏ chu đáo đến thế!

Ông Sáu rất coi trọng người dân và đánh giá cao giới tri thức trong công cuộc xây dựng chấn hưng đất nước. Ông nhìn nhận về tri thức không phải chỉ ở bằng cấp, học hàm, học vị mà là trí tuệ và sản phẩm của họ làm ra cho xã hội. Ông thích thú và cổ vũ các anh “Hai Lúa” dù văn hoá mới chỉ là tiểu học nhưng lại làm ra cầu treo, “thần đèn” di chuyển công trình xây dựng, sáng chế các máy công cụ nông nghiệp làm các nhà khoa học phải thán phục. Có lần ngồi trên thuyền vượt qua một bờ kênh bằng đường ray và cái tời do sáng kiến của người dân ở Cà Mau, ông nheo mắt, hóm hỉnh bình luận mấy anh nông dân này liệu có xứng đáng gọi là “nông dân kiêm kỹ sư”.  Ông không phải chỉ có đi nhiều để tìm hiểu thực tế mà rất chịu khó đọc, nghiên cứu, rồi thảo luận. Nhiều vấn đề phức tạp, trừu tượng cần tìm hiểu, làm rõ, trước khi thảo luận, ông thường gạch chân từng đoạn, ghi chú bằng mực đỏ. Biết lắng nghe, tôn trọng những người đối thoại, với tấm lòng bao dung, nhân từ nên ông dễ dàng bắt được hơi thở của cuộc sống. Gần đây, khi làm việc với đoàn chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) các chủ đề về kinh tế, quy hoạch, kế hoạch, chính sách Đổi mới của đất nước, mặc dù tuổi đã cao nhưng tôi thấy trí nhớ  và tầm nhìn của ông vẫn sáng suốt đến lạ thường!   

Đối với đồng bằng sông Cửu Long không phải ngẫu nhiên mà có được các thành quả kinh tế xã hội như ngày nay. Trưa ngày 14/6 nguyên Bộ trưởng Lê Huy Ngọ gọi điện cho tôi, trong cơn húng hắng ho nhẹ, anh Ngọ vẫn xúc động hệ thống lại cả quá trình hình thành tư duy và chỉ đạo quyết liệt của ông Sáu từ ngọt hoá Gò Công, đến bán đảo Cà Mau, chung sống với lũ,  thoát lũ ra biển Tây,  xây dựng cụm tuyến dân cư, và nhìn xa hơn là hệ thống công trình và phi công trình cho phòng chống thiên tai… Anh Ngọ bảo người dân Việt Nam chịu ơn ông Sáu nhiều lắm, những người có trách nhiệm cần nghiên cứu tổng kết về con người rất đặc biệt này. Tôi được chứng kiến, được đọc nhiều bức thư của người dân, của các nhà khoa học trong và ngoài nước gửi ông Sáu, trong đó có cả những người nổi tiếng là khinh bạc. Vì sao họ lại tin và trọng ông đến thế, ngay cả khi đã nghỉ hưu, không còn quyền lực! Phải chăng ngoài văn hoá ứng xử rất NGƯỜI, ở ông, người ta thấy đó là điểm tựa hay nói một cách nôm na đó là sự tin cậy, kính yêu của người dân dành riêng cho ông. 

Cuộc sống là bất phương trình chứ không phải phương trình. Trong công việc cũng như đời thường cũng có lúc ông Sáu cảm thấy bất lực, nhưng không bao giờ nản chí vì ông luôn tin vào tương lai, vận mệnh của đất nước.

Ông Sáu ơi! Thế là ông đã đi xa thật rồi. Ông có thể thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm của một công dân - công dân Võ Văn Kiệt. Giờ đây, ông đã về cõi thiên thu nhưng nhân dân luôn nhớ và kính trọng ông , Người có bộ óc thông tuệ không ngừng nghỉ, mang đầy đủ dấu ấn của cả 3 thì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Không hiểu sao lúc này, tôi lại khát khao, ước ao được nghe giọng nói ấm vang, thân tình qua điện thoại: ”Mày đang ở đâu đấy!” để được tiếp tục nghe ông chỉ bảo.

Một chuyến đi xa Người  lỡ hẹn
Trăm năm lòng  mãi nghĩ về Dân

  *Các bài viết đều do TS Tô Văn Trường gửi trực tiếp cho NXD-Blog. 
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

TRẦN QUANG ĐỨC: ĐIẾU VĂN CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT



CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT 

Duy Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa Cộng hòa quốc đệ lục thập tam niên lục nguyệt thập tam nhật,
Vãn học Trần Quang Đức cẩn dĩ thanh chước thứ tu chi điện, tế vu Võ thủ tướng chi linh.

Điếu văn viết:

Nay ngày 13 tháng 6 năm thứ 63 Nước CHXHCN Việt Nam, vãn học Trần Quang Đức xin đem lễ sơ rượu nhạt kính viếng anh linh nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Điếu văn rằng:

Than ôi!

Nhân thế tang thương
[1],
Khuôn thiêng
[2] định số.

Chữ Vô thường
[3], ngao ngán cõi phù sinh[4],
Đò Tạo hóa, chóc mòng
[5] miền tịnh thổ[6].

Cửa An Hòa
[7] sét động trời nghiêng,
Hồ Tả Vọng
[8] sấm rền mưa đổ.

Trăm năm chưa đủ một đời,
Thoáng chốc đã về thiên cổ.

Ngùi ngùi tấc dạ tơ vò,
Sùi sụt ai dung
[9] lệ nhỏ.


Nhớ linh xưa:

Văn võ vẹn toàn
Kinh luân
[10] gồm đủ.

Thờ Đảng rất mực lòng son,
Vì Dân xá chi máu đỏ.

Đuổi lũ hung tàn thuở ngôi trời chếch lệch,Rạch Giá
[11] lẫy lừng.
Ra tay kinh tế khi vận nước chông chênh,Việt Nam rạng tỏ.

Gom túc mễ, quét nỗi cơ hoang
[12],
Chỉ cờ mao, dẹp phường tham đố
[13].

Cao dơ mũ lại
[14], những mong thế nước vững vàng,
Xa gác vó câu
[15], luống ngóng sinh dân giàu có.


Vậy nên:

Điều “chí thiện”
[16] bao độ đăm chiêu,
Câu “nhật tân”
[17] đòi phen năng nỏ[18].

Thương ôi! Võ lão!

Nghi ngút khói mây,
Lập lòe nến đỏ.

Thần phách giờ đâu?
Hình hài còn đó.

Hoa lìa cây, rụng cánh bời bời
Én xa tổ, kêu xuân vò võ.

Ba tấc đất vùi sâu đấng anh hùng,
Chín tầng mây khuất xa đường vân lộ.

Tháng ngày khôn xiết nỗi bi ai,
Sớm tối nào quên niềm luyến mộ.


Nay:

Văn tế đôi câu,
Quỳnh tương
[19] một lọ.

Lễ bần bạc gia tư
[20] có vậy,
Lòng kiền thành
[21] thiên địa chứng cho.

Rạp mình xa viếng trời Nam,
Cúi lạy anh linh phù hộ.

“Xã tắc muôn thuở thanh bình,
Quốc dân từng ngày tiến bộ!”


Hỡi ôi! Xin hưởng!

-----------
Chú giải:

[1] Tang thương沧桑: theo sách “Thần tiên truyện” có chép: “Ma Cô bảo rằng: từ trước tới nay đã thây biển Đông ba lần hóa thành nương dâu”, sau lấy câu “沧海桑田tang hải thương điền” (bãi bể nương dâu) để trỏ cuộc đời dâu bể, đổi thay khôn lường vậy.
[2] Khuôn thiêng: còn gọi “khuôn xanh”, từ trỏ “ông Trời” vậy.
[3] Vô thường无常: “Thường” là cái bất biến, thường hằng. Vô thường có nghĩa biến hóa vô định vậy. Nhà Phật cho rằng vạn vật trong thế gian đều nằm trong vòng sinh khởi, biến dị, hoại diệt, thế nên không có thứ gì hữu thành bất biến cả.
[4] Phù sinh浮生: Sách “Trang tử” có câu “其生若浮Kỳ sinh nhược phù” (cuộc sông như trôi nổi), cho rằng đời người trôi nổi vô định, sau người ta mới gọi đời người là cõi “phù sinh”.
[5] Chóc mòng: từ Việt cổ, tức “trông mong, ngóng đợi” vậy.
[6] Tịnh thổ净土: là thế giới thanh tịnh không có sự nhuốm bẩn của năm thứ ô trọc (kiếp số, vận mệnh, chúng sinh, phiền não, kiến văn) theo nhà Phật.
[7] An Hòa安和门: tên một cổng ở cố đô Huế, ngày 4.6.2008, sau khi tế đàn Nam Giao, trời Huế mưa to, sét đánh trúng một góc cổng An Hòa. (Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa)
[8] Tả Vọng左望湖: tức Hồ Gươm, ngày 25.5.2008, giữa khu vực Hồ Gươm có sấm có mưa.(...)
[9] Ai dung哀容: khuôn mặt đau buồn.
[10] Kinh luân经纶: việc se sợi, sau trỏ ý chỉnh lý quốc sự, rồi phiếm chỉ tài năng trị nước, học vấn...
[11] Rạch Giá: một tỉnh thuộc Nam Bộ. Ý trỏ năm 1941-1945, tiên sinh tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá vậy.
[12] Túc mễ粟米, cơ hoang饥荒: tức “thóc gạo”, “đói kém”. Ý trỏ tiên sinh từng chỉ đạo bộ hạ thu mua lúa của dân theo giá tương xứng mà cứu cho thành Sài Gòn khỏi nguy cơ đói vậy.
[13] Cờ mao旄节, tham đố贪妒: “Cờ mao” là cờ của sứ giả, cũng là cờ của trưởng quan quân chính trấn giữ một phương. “Tham đố” tức tham lam, đố kỵ vậy.
[14] Mũ lại: tức “mũ quan”, ý trỏ tiên sinh làm tròn phận sự, ân uy rõ ràng vậy.
[15] Vó câu白驹过隙: “câu” tức “ngựa câu”, loài tuẫn mã lông trắng vậy. Sách “Trang tử” có câu: “Con người sinh ra trong vòm trời đất, tựa như con bạch câu chạy qua cửa sổ, chỉ trong thoáng chốc mà thôi.” Câu “bóng câu qua cửa” hay “bóng vó câu” trỏ ý thời gian vùn vụt trôi qua vậy.
[16] Chí thiện至善: Sách “Đại học” có câu “大学之道,在明明德,在亲民,在� �于至善Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” nghĩa là “Cái đạo của Đại học là ở chỗ làm sáng cái Đức sáng, là ở chỗ khiến đời sống dân chúng đổi mới, và khiến người ta ở vào cõi rốt ráo của cái Thiện.”
[17] Nhật tân日新: Cũng trong sách “Đại học” có câu: “苟日新,又日新,日日新Cẩu nhật tân, hựu nhật tân, nhật nhật tân” nghĩa là “nếu hàng ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới, thì càng ngày càng mới.” Câu này ý trỏ tiên sinh có công lớn trong sự nghiệp Đổi mới của đất nước, đồng thời làm nhiều việc tốt, việc thiện cho nước, cho dân vậy.
[18] Đòi phen, năng nỏ: (từ cổ) “Đòi phen” tức nhiều phen, “năng nỏ” nghĩa là gắng sức.
[19] Quỳnh tương琼浆: tên gọi tao nhã của thức “rượu” vậy.
[20] Bần bạc贫薄, gia tư家资: “Bần bạc” là “nghèo nàn, bạc mọn”. “Gia tư” tức tài sản trong nhà vậy.
[21] Kiền thành虔诚: chân thành, thành khẩn vậy. 




HÔM NAY, GIỖ CỤ VÕ VĂN KIỆT



Thưa chư vị,

Hôm nay, tròn 3 năm ngày Ông Võ Văn Kiệt đi xa. Để tưởng nhớ Thủ tướng Võ Văn Kiệt, NXD-Blog gửi tới chư vị chùm bài về ông, gồm:

- Bài văn cúng cơm và bài tế văn Cụ Võ Văn Kiệt do Lâm Khang viết cách đây 3 năm, trong lúc thi hài của Người đang quàn trong nhà lạnh.

- Bài điếu văn của Trần Quang Đức - lưu học sinh Việt Nam tại Bắc Kinh, viết khi được tin ông Võ Văn Kiệt qua đời.

- Các bài của TS. Tô Văn Trường, ông Bảy Nhị (Nguyễn Minh Nhị - Cựu Chủ tịch tỉnh An Giang)..

VĂN TẾ CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT
Nguyễn Xuân Diện soạn 

Sụt sùi trời Nam
Tang thương đất Bắc


Sáng sớm, Tân – Gia – Ba tin về
Giữa trưa, Bờ - lốc – gơ cấp báo
 
Đau đớn thay! Anh Sáu Dân từ trần
Ngao ngán nhẽ! Nguyên Thủ tướng tạ thế!
 
Nhớ linh xưa:

Mười sáu tuổi, đương thửơ hoa niên, dứt tình nhà đi làm Cách mạng
Tám lăm tuổi, ngại tiếng an chi, nặng lòng nước ra tay phản biện

Ra Bắc vào Nam
Viết văn, làm báo

Gặp gỡ giới báo chí, đầu bạc sát đầu xanh, nằm ngồi lo vận nước
Tâm tình văn nghệ sỹ, lòng son cùng máu đỏ, bó gối ngẫm cơ trời.

Lên tiếng phản biện, lòng đã quyết lòng
Hạ bút luận bàn, chí còn bền chí!

Không mở rộng thủ đô, đừng biến Hà Nội thành nơi thí nghiệm
Hãy giữ lấy Ba Đình, nên để Hội trường làm chỗ tham quan.

Đau đớn thay! Công việc dở dang
Thương tâm quá! Đàn em bỡ ngỡ

Trời Sài Gòn một màu ảm đạm, vật vã mây vần
Mây Biển Đông sắc pha tối sẫm, ầm ầm sóng thét.

Anh em khắp nước bặm môi ghìm tiếng khóc thương
Bè bạn năm châu gạt lệ cúi mình mặc niệm

Xin chúc anh linh Người, sẽ đời đời thanh thản ở chốn Bồng Lai
Nguyện tiếp bước đường Anh, bước chăm chăm hăm hở tới đài Dân chủ!

23h30, ngày 12 tháng Sáu, 2008
Lâm Khang cẩn bút
Nguyễn Xuân Diện


BÀI CÚNG CƠM CỰU THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT
Nguyễn Xuân Diện
Sáng Thứ Sáu, 13.6.2008

Việt Nam quốc,
Hà Nội thủ đô năm hai ngàn lẻ tám

Tháng Sáu, ngày Mười Ba

Chập tối qua Đảng phát tang
Sáng sớm nay, dân òa khóc

Trời Hà Nội mấy ngày oi bức, một sớm khóc òa
Mây khắp nước một đêm nghẹn trời, từng giờ nức nở

Dẫu chưa thiết lập linh sàng
Cũng xin dâng Người cơm cúng.

Trước anh linh xin dâng:

Một ánh nến thắp bằng dòng điện, mà Người kéo từ Bắc vô Nam
Bát cơm trắng nấu từ vựa lúa, mà Người cho thay chua rửa mặn.

Đơn sơ lễ bạc lòng thành
Thống thiết lòng đau lệ chảy.

Phục duy thượng hưởng
Cấn cáo
 

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

TIN ĐẶC BIỆT TỪ VTV


Báo Thể thao & Văn hóa số ra hôm nay cho biết: Cho đến 20h tối qua, tương lai của cả hai bộ phim lịch sử: Huyền sử thiên đô [dừng phát sóng] Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long [lên sóng từ ngày 30.6.2011] vẫn chưa được định đoạt khi những người có trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam chưa có tuyên bố chính thức.

Vào lúc 15h hôm nay (8.6.2011), Giáo sư Lê Văn Lan điện thoại cho biết: có nguồn tin cho biết Đài Truyền hình Việt Nam không phát sóng phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long.

Cách đây ít phút (15h15) tôi có điện thoại tới Ông Trần Bình Minh - Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam để tìm hiểu thông tin này. Ông Trần Bình Minh đã nghe máy và nói đang bận họp; vì vậy tôi chưa kịp hỏi chuyện.

BẢN TIN CỦA BÁO SÀI GÒN GIẢI PHÓNG LÚC 15h26' HÔM NAY

Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam Trần Bình Minh:
Chưa phát sóng phim “Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long”
 Thứ tư, 08/06/2011, 15:26 (GMT+7)

(SGGPO).-Chiều 8-6, trả lời phóng viên báo Sài Gòn Giải Phóng về việc VTV có phát sóng bộ phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long vào ngày 30-6 tới như đã thông báo trên lịch phát sóng phim được đăng trên Tvad- Trung tâm Quảng cáo và dịch vụ truyền hình, Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, ông Trần Bình Minh khẳng định: Phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long sẽ phát sóng vào thời điểm khác.

Đến chiều nay 8-6, lịch phát sóng phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long 
vẫn đang có trên lịch phát sóng phim của VTV (http://www.tvad.com.vn/vn/calendar.aspxn)

Được biết, sau khi có thông về việc VTV sẽ ngừng phát sóng phim Huyền sử thiên đô- một trong số rất ít phim truyền hình về lịch sử của Việt Nam để chiếu phim một bộ phim truyền hình lịch sử khác là Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long, đã khiến dư luận bức xúc. Song ông Trần Bình Minh cũng khẳng định, thông tin về ngày chiếu chiếu phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long vào cuối tháng 6 trên VTV là kế hoạch từ trước.

Bộ phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long dài 19 tập. Ngay sau khi phát đi những đoạn giới thiệu ngắn về phim này trên mạng, đã có nhiều ý kiến phản hồi về tính không thuần Việt của bộ phim này. Sau đó, phim đã bị “thổi còi” của Hội đồng duyệt phim Quốc gia. Lý do: Trong phim có nhiều cảnh quay dễ khiến người xem nhầm tưởng với phim truyền hình Trung Quốc và nhất thiết phải được chỉnh sửa lại cho thuần Việt, bằng cách cắt bỏ một số cảnh thường thấy ở phim sử Trung Quốc như: cảnh vua đi lại ở cầu zíc zắc trên mặt hồ; một số đại cảnh có đông diễn viên quần chúng là người Trung Quốc; trang phục Trung Quốc; sửa lại nhiều đoạn có lời thoại ngôn ngữ hiện đại chưa phù hợp... 

 Cảnh trong Phim Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long

MAI AN
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin tới chư vị về diễn biến của "Đường tới thành Thăng Long"

Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện


ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM GẶP HẠN LỚN


Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện:

Vừa qua, báo Tiền Phong đã đưa tin về việc: "Ngày 3-6, Cơ quan CSĐT, Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh khám xét nơi ở đối với ông Phạm Thanh Hải (SN 1977, kế toán Cục Điện ảnh Việt Nam) về hành vi “giả mạo giấy tờ nhằm chiếm đoạt tài sản”. Từ năm 2009 đến nay, Hải đã lợi dụng chức vụ được giao để làm giả hàng loạt hồ sơ ủy nhiệm chi của Cục Điện ảnh Việt Nam rồi rút khoảng 42 tỷ đồng để tiêu xài cá nhân. Khi vụ việc bị phát hiện, ngày 25-5, nghi can này đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú. CQĐT đang hoàn tất thủ tục để ra lệnh truy nã bị can này. 

Nhân sự kiện này, chúng tôi đưa lại hai bài viết của Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát - nguyên Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh và Nhà văn Phạm Viết Đào  - cán bộ Bộ VH - TT -DL đều trên Blog cá nhân. Bài của Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã được gỡ khỏi Blog, nhưng vẫn được giữ lại trên bản  cache của Google.

ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM GẶP HẠN LỚN
Nguyễn Thị Hồng Ngát 

Suốt từ tuần lễ trước, "tin đâu như sét đánh ngang" từ Cục Điện ảnh- cơ quan đầu não quản lý ngành ' "kế toán Cục Đ.A đã ôm 42 tỷ bỏ trốn" làm bao người trong ngành...ngã ngửa! Mình từng làm Cục phó phụ trách Nghệ thuật ở đó- dù đã nghỉ 6 năm nay nhưng cũng không khỏi bàng hoàng, đau xót.Tối qua trò chuyện qua phôn với Nguyên Cuc phó Hồng Thái- người từng phụ trách tài chính của Cuc ĐA , mới về hưu 3-4 năm nay.H-Thái kêu "nằm ngủ mà trong mơ  cứ khóc suốt vì lo ngành không còn tiền để hoạt động.Mới thấy mình còn nặng lòng gắn bó với CQ Cuc bao nhiêu sau 12 năm công tác ở đấy!".

Khỏi nói là anh em cán bộ nghệ sĩ ở trong và ngoài ngành bàng hoàng ngơ ngác như thế nào trước tin này.

Bây giờ mọi người mới hỏi : Tiền ở đâu ra mà nhiều thế?Ngân sách cấp cho hoạt động ngành mỗi năm là bao nhiêu, làm những việc gì sao không triển khai mà để dồn tích lại những hơn 40 tỷ? Hoạt động sự nghiệp thì ngân sách phải nằm ở kho bạc, mà lấy tiền ra từ kho bạc là rất khó- làm sao một vị kế toán lại có thể lấy ra được những 42 tỷ suốt từ 2009 đến giờ?Chả nhẽ chủ tài khoản không thường xuyên kiểm tra tài khoản ư?.Tất cả những câu hỏi này  CQ có thẩm quyền rồi sẽ có lời giải đáp.

Sáng thứ 6 tuần trước, theo lịch, mình lên duyệt KB phim ngắn thì thấy bao nhiêu là công an kinh tế đang làm việc.Cuc phó Lê Ngọc Minh đang ngồi duyệt KB bị công an gọi xuống thẩm vấn.Cục trưởng thì phân bua là " mình chỉ toàn quan tâm đến nội dung , sợ sai về chính trị...mình là nghệ sĩ, không giỏi kinh tế...!!"Chao ôi, thế thì còn gì để nói  nữa.Chỉ có một điều là rất cảm thấy buồn, thấy nơi mình đã từng công tác sao giờ lại xảy ra nông nỗi....Dù nguyên nhân gì, dù sau này cụ thể ntn thì trách nhiệm người đứng đầu CQ là rất nặng " thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng!". Có người thì lại dựa vào tâm linh- cho rằng đất của Cục ĐA là rất dữ.20 năm trước xây trụ sở Cuc , gây thất thoát gì đó nên một ông đã phải vào tù, ông đứng đầu thì mất chức phải chuyển sang ngành khác. 20 năm sau, lại sửa sang nhà cửa, nghe đâu tốn 10 tỷ đồng...nên lại bị" động long mạch"!!!

Chao ôi, xin SX 1 phim H Hình 10 phút giá có 500 triệu cho 1 đạo diễn trẻ vừa được giải Bông sen vàng của LHPQG mà suốt 3 năm mỏi cả mồm ( dù KB đã được duyệt) mà Cục trưởng không cho, lúc nào cũng bảo " để tính" làm ra vẻ " nguyên tắc " lắm.Tài chính mà, khoản nào vào khoản ấy rồi...Chao ôi, bây giờ mới biết cái nguyên tắc đó là ntn...Cuộc đời, cái gì cũng có giá của nó. Chẳng ai mong điều xấu xảy ra nhưng hậu quả đã rành rành về một sự quản lý vô cùng non nớt, yếu kém và nặng hơn, có thể nói là vô cảm, vô lương tâm nữa...Cả ngành đầy khó khăn, nghệ sĩ thiếu tiền làm phim, sống tạm bợ đi làm thuê làm mướn khắp trong Nam ngoài Bắc...Trong khi đó thì tiền nằm ở Cục- CQ đầu ngành hơn 40 tỷ...!!!!!
6.6.2011. 

VỀ VỤ THỤT KÉT 42 TỶ ĐỒNG Ở CỤC ĐIỆN ẢNH 
Phạm Viết Đào

Blog Phamvietdaonv: Theo thông tin ban đầu mà Blog Phamvietdaonv nhận được từ thứ 6 tuần trước thì đây là khoản tiền do Đài truyền hình Trung ương chuyển cho Cục Điện ảnh để xây dựng chương trình Điện ảnh chiều thứ bảy...Gần đây do quan hệ giữa Vê...Tê...Vê và Cục... trục trặc nên chương trình này bị xếp xó nhưng tiền thì Vê...Tê...Vê chẳng thèm đòi về...Thành ra các bác ở Cục mới thầy đây là tiền nhàn rỗi, tội gì không xơi...Các bác bị tay kế toán lừa hay đây là vở kịch được dàn dựng để bỏ túi khoản tiền 42 tỷ trên ? Hạ hồi chờ các cơ quan chức năng phân giải ??? Theo thông tin thì cái khoản 42 tỷ này các bác lãnh đạo Cục đều thò tay ký hay do thằng thằng kế toán mạo chữ ký?

Sao mà mạo chữ ký và lấy dấu xác nhận ở Cục Điện ảnh và ở Ngân hàng dễ thế ? Ai đã từng rút tiền ở Ngân hàng thì thấy việc kiểm tra chữ ký ở đây không đơn giản chút nào?

Ở Bộ Văn hóa ...đã có nhiều vụ thụt két kiểu này...

Ông Nguyễn Xuân Diện ơi,

Chuyện thụt két ở Cục Điện ảnh lần này không phải là lần đầu, cách đây 20 năm đã xảy ra vụ án 5,9 tỷ; 5,9 tỷ hồi năm 90 của thế kỷ trước là rất to, Liên hiệp Điện ảnh VN hồi đó, tiền thân của Cục Điện ảnh bây giờ đã được nhà nước tài trợ cho khoản tiền lớn trên để đưa về làm phim. Số tiền đầu tư trên cuối cùng đã không mang lại hiệu quả mong muốn, đã xảy ra tham ô, tham nhũng và kết quả là 4 người của Liên hiệp đã phải vào tù…

Người phát hiện ra vụ này, và là người đầu tiên đưa thông tin này lên báo là Phạm Viết Đào; hồi đó đang là chuyên viên theo dõi sáng tác của Vụ Điện ảnh…

Do từ thông tin báo chí mà Thủ tướng Võ Văn Kiệt giao cho Thanh tra Tài chính vào thanh tra để làm cơ sở cho vụ án…Sau vụ này, Cục Điện ảnh được thành lập trên cơ sở sát nhập Liên hiệp Điện ảnh VN vào Vụ Điện ảnh…Khi sát nhập, Phạm Viết Đào được xếp vào diện dôi ra, mặc dù hồi đó Vụ Điện ảnh chỉ có 7 người; Phạm Viết Đào không được xếp việc trở lại điện ảnh. 

Do dư luận báo chí ( Báo Đại Đoàn Kết, Báo Thanh Niên, Báo Quân đội nhân dân, Báo Lao động) nên cuối cùng Phạm Viết Đào được chuyển về làm công tác thanh tra mà không phải ra đứng đường…

Theo mình, đối với điện ảnh thì chuyện thụt két là chuyện nhỏ, chuyện đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật không mang lại hiệu quả; việc đầu tư những khoản tiền lớn vào những bộ phim hoành tráng, “cúng cụ”, không có người xem mới là những thất thoát lớn ở ngành điện ảnh mà rất khó tìm ra thủ phạm.

Theo tính toán của mình, hiện này từ sau khi mình ra khỏi điện ảnh đầu những năm 90 thế kỷ trước đến nay, Nhà nước trong đó có Bộ Văn hóa…đã đầu tư cho điện ảnh gần 1000 tỷ đồng cho việc mua sắm trang thiết bị kỹ thuật hiện đại vào loại bậc nhất Đông Nam Á…Thế giới có loại máy gì đắt tiền, Việt Nam có tất…Trong khi đó phim là do các nghệ sĩ làm ra chứ không phải do máy móc như các ngành công nghiệp khác, hiện nay lương của các nghệ sĩ tại một số cơ sở làm phim trả chưa đủ hệ số…

Mình đã từng làm Trưởng Đoàn thanh tra Trung tâm kỹ thuật Điện ảnh VN, một cơ sở kỹ thuật có những trang thiết bị đứng đầu Đông Nam Á, đầu tư trên 100 tỷ vào giữa nhưng năm 90; văn bản kết luận thanh tra đã có kết luận: 30 % trang thiết bị mang lại hiệu quả; khoảng 20 % trang thiết bị có sử dụng còn khoảng 50 % trang thiết bị mua về đắp chiếu không sử dụng…

Thế mà điện ảnh vẫn tiếp tục đầu tư lớn; có những trang thiết bị như thiết bị kỹ xảo điện ảnh, lọai thiết bị “biến người thành ma”, mua đến 3-4 triệu USD về nhưng không dùng được. Thật khôi hài, một cơ sở như Trường Đại sân khấu Điện ảnh mua thiết bị kỹ xảo tới 400.000 USD để làm thiết bị giảng dạy, từ khi mua về đến nay không sử dụng một giờ nào…Mình đã vào kiểm tra thiết bị này, yêu cầu cán bộ trông giữ bật máy lên xem, kỹ sư này không dám bật vì sợ máy treo làm hỏng máy…

Máy quay phim nhựa Ariflex, loại máy quay hiện đại vào loại nhất thế giới, một chiếc mua trên 200.000 USD; Hiện nay Việt Nam có hàng chục chiếc…Mỗi năm Việt Nam làm được bao nhiêu phim nhựa ?

Tóm lại góp thêm thông tin buồn với Nguyễn Xuân Diện để mọi người hình dung thêm về cách chi tiêu, quản lý tiền của điện ảnh ngoài nội dung ra tư tưởng là nhiệm vụ trọng tâm của ngành này…

Phạm Viết Đào.
--------------------------------------------------
 
TIN DO BÁO TIỀN PHONG ĐƯA:
Kế toán Cục Điện ảnh ôm hơn 40 tỷ đồng bỏ trốn

TP - Ngày 3-6, Cơ quan CSĐT, Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh khám xét nơi ở đối với ông Phạm Thanh Hải (SN 1977, kế toán Cục Điện ảnh Việt Nam) về hành vi “giả mạo giấy tờ nhằm chiếm đoạt tài sản”. 

Từ năm 2009 đến nay, Hải đã lợi dụng chức vụ được giao để làm giả hàng loạt hồ sơ ủy nhiệm chi của Cục Điện ảnh Việt Nam rồi rút khoảng 42 tỷ đồng để tiêu xài cá nhân. Khi vụ việc bị phát hiện, ngày 25-5, nghi can này đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú. CQĐT đang hoàn tất thủ tục để ra lệnh truy nã bị can này. 

DƯ LUẬN LÊN TIẾNG MẠNH MẼ

Đừng nên chiếu "Lý Công Uẩn- Đường tới thành Thăng Long"!

Thứ Tư, 08/06/2011 00:08 

Không chỉ không đồng tình với những giải thích của người có trách nhiệm cho phép phổ biến bộ phim này, bạn đọc còn cảnh báo sự nguy hiểm của nó nếu được phát sóng trên đài truyền hình quốc gia.

Sau bài viết “Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long: Vẫn là phim Trung Quốc... nói tiếng Việt!” và bài phỏng vấn ông Lê Ngọc Minh, Phó cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Duyệt phim Quốc gia (“Không phạm vào điều cấm (?!)”) đăng trên Báo Người Lao Động các số ra ngày 6 và 7-6, hàng trăm bạn đọc quan tâm từ khắp nơi đã gửi ý kiến bày tỏ thái độ của mình.

Không đơn giản là chuyện dã sử
Bạn đọc Đặng Sơn không đồng ý với cách nhìn nhận đây là phim dã sử: “Nếu là phim thuộc dòng phim thị trường hay dã sử thì ông Lê Ngọc Minh có thể nói thế được nhưng bộ phim này được xây dựng để kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, nói về chính sử của dân tộc, điển hình ở đây là nhân vật Lý Công Uẩn.
Ngoài ra, còn biết bao nhiêu nhân vật lịch sử khác liên quan được đề cập trong phim. Vậy thì không thể lấy nhân vật có thật và lịch sử hào hùng có thật của dân tộc Việt Nam ra để làm phim với những cốt truyện và bối cảnh sai phạm như thế được. Nên nhớ là phim ảnh có sức truyền tải văn hóa rất lớn tới mọi tầng lớp trong xã hội”.
Cảnh trong phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long (Ảnh do đoàn phim cung cấp)
Phản ứng tương tự, bạn đọc Hoàng Lân viết: “Lý Công Uẩn là nhân vật lịch sử có thật. Yêu cầu làm phim về ông cũng phải thật theo lịch sử. Như vậy, bộ phim Lý Công Uẩn - Đường  tới thành Thăng Long phải là phim lịch sử, không phải là phim dã sử. Do vậy, nội dung phim phải chân thật, chi tiết từ trang phục đến lời thoại, bối cảnh đều là Việt Nam. Hư cấu chẳng qua là thêm tình tiết cho hấp dẫn; trau chuốt cho đẹp hơn về hình ảnh nhân vật, chứ không thể làm thay đổi theo cách bịa đặt, xuyên tạc...”.
Bạn đọc Minh Nghĩa đặt vấn đề: “Phim ảnh không đơn thuần là giải trí mà còn có chức năng giáo dục. Nhưng phim Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long lại đậm đặc văn hóa Trung Quốc, bóp méo lịch sử dân tộc Việt Nam như vậy, xin hỏi công chiếu phim này để làm gì?”. 
Sao chuyền “quả bóng trách nhiệm” cho người xem?
Bạn đọc có nick name ABC đặt vấn đề: “Nhà nước giao nhiệm vụ cho Hội đồng Duyệt phim Quốc gia là duyệt phim để cấp phép phát hành hay không, bây giờ hội đồng lại chuyền “quả bóng trách nhiệm” cho nhân dân, như lời ông Lê Ngọc Minh  nói: “Chốt lại, phim không phạm vào những điều cấm... Còn hay dở thế nào thì để khán giả quyết định”. Nếu nói vậy, có lẽ không cần đến Hội đồng Duyệt phim Quốc gia  thẩm định làm gì và nếu chỉ thẩm định nó có phạm điều cấm hay không thì tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam thừa sức làm điều đó”.
“Dù là “dã sử” thì người Việt vẫn phải là người Việt, không thể dùng tính “dã sử” để biến người Việt thành người Trung Quốc như thế này được”.
Bạn đọc Mai Anh
Một bạn đọc tên Sơn viết: “Với chức năng, nhiệm vụ của mình, những người có trách nhiệm nên làm hết trách nhiệm, đừng thoái thác, đùn đẩy lẫn nhau và bây giờ đẩy cho cả người xem. Chưa xem mà chúng tôi đã yêu cầu ngừng chiếu rồi, vậy không còn gì để bàn nữa. Nhờ có tinh thần bất khuất mà chúng ta mới được độc lập như ngày nay. Việc hủy bộ phim này cũng là bài học cho những người làm phim. Không phải cứ đã quay là phải chiếu”. 

Bạn đọc Trần Văn không đồng tình với quan điểm để người xem quyết định: “Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật ra công chúng phải cân nhắc kỹ chứ. Một bộ phim có thể làm người xem hiểu sai lịch sử, hiểu sai bản sắc, truyền thống của người Việt vậy mà những người có trách nhiệm nhắm mắt cho qua?”. 

Hãy thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc!
Bạn đọc Thu Minh viết: “Trong bối cảnh hiện nay, thiết nghĩ nhà đài càng không nên chiếu bộ phim lịch sử Việt nhưng lại mang đậm nét Trung Quốc (từ đạo diễn, ê kíp, diễn viên, trang phục, đến bối cảnh...). Chúng ta hãy thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc bằng hành động chứ không chỉ hô hào...”.
Bạn đọc Nhật Minh đưa ra lời khuyên: “Nếu đây là bộ phim bình thường thì không có gì phải bàn cãi, nhưng đây lại là bộ phim mang tính lịch sử dân tộc, không thể dựa vào một vài ý kiến của cá nhân! VTV nên cân nhắc kỹ”.     
Với bạn đọc Hoàng Nga: “Theo tôi, ý kiến dừng bộ phim như giáo sư Lê Văn Lan là hợp lý”.
Bạn đọc Quang Hòa cho rằng: “Bộ phim lai căng này nếu không thể chiếu trong dịp đại lễ 1.000 năm  Thăng Long - Hà Nội thì nay lại càng không thể chiếu. Như một món ăn nấu hỏng, đã không thể ăn hôm qua thì mãi mãi cũng sẽ không thể ăn được bởi nếu ăn vào là sinh đủ thứ bệnh tật. Mà cái bệnh đáng sợ nhất là bệnh làm mất đi niềm tự hào, kiêu hãnh của một dân tộc. Một khi đã làm mất đi niềm tự hào, kiêu hãnh đó, chúng ta sẽ không còn là người Việt Nam nữa”.
“1.000 năm Thăng Long là sự kiện trọng đại của quốc gia dân tộc, chúng ta có thể không làm gì để kỷ niệm, con cháu cũng sẽ không trách chúng ta, nhưng đã làm thì phải làm cho đúng. Thăng Long được hình thành trong bối cảnh dân tộc ta quyết tâm xây dựng nền độc lập dân tộc, tự lực tự cường, đứng ngang hàng với nhà nước phong kiến phương Bắc và tổ tiên ta đã làm được, nay sao lại đưa lên phim những hình ảnh lệ thuộc phương Bắc như vậy? Chiếu phim này, theo tôi, sẽ không những gây ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của thế hệ trẻ chúng ta, gây bức xúc cho người dân mà còn có tội với tổ tiên, những người 1.000 năm trước đây đã làm tất cả để xây dựng một nước Đại Việt độc lập”- bạn đọc có nick name ABC viết.  
Huy Nguyên