
Nguyễn Xuân Diện
Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long lên ngôi hoàng đế năm 1802 và đặt kinh đô tại Phú Xuân (Huế). Thăng Long mất vị trí là kinh đô, vua đổi tên chữ Hán của Thăng Long 昇龍, với nghĩa là "rồng bay lên" thành ra từ đồng âm Thăng Long 昇隆, nhưng mang nghĩa là "thịnh vượng".
Sau cơn binh lửa, thành quách cung điện tan tành và hoang phế, nhà vua biết rõ tâm lý hoài Lê (thương nhớ quyến luyến triều Lê) của giới nho sĩ ngoài Bắc nên ông cho xây Khuê Văn các để an lòng họ và cho xây Kỳ đài để làm biểu tượng của triều đại.
Nay, cả hai công trình đều còn nguyên vẹn và từ lâu đã trở thành biểu tượng của thủ đô; riêng Khuê Văn các còn trở thành biểu tượng văn hiến của Việt Nam.
Khuê Văn Các
Khuê Văn Các là quà tặng của Hoàng đế Gia Long dành cho giới sĩ phu Bắc Hà nói riêng và giới Nho sĩ nói chung của miền Bắc.
Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành (1758-1817) được giao việc xây dựng Khuê Văn các vào mùa thu năm 1805.
Công trình nhỏ bé này được đánh giá là một công trình mẫu mực, đạt đến tỷ lệ vàng của kiến trúc Việt. Cân đối, đăng đối, hài hoà, chứa đựng tri thức về triết học, toán học, thiên văn học, văn hoá trong từng cấu kiện và tỷ lệ. Khi công trình hoàn thành, có cả một bài phú ca tụng vẻ đẹp của Khuê Văn Các.
Khuê Văn Các ẩn hiện trong những tán cây già. Hai tầng tượng trưng cho Lưỡng nghi. Mỗi tầng 4 mái tượng trưng cho Tứ tượng. Tám mái tượng trưng cho Bát quái Kinh Dịch.
KHUÊ. Sao Khuê là một trong nhị thập bát tú, tượng trưng cho văn chương, với khung cửa TRÒN nằm trong một khung VUÔNG, tượng trưng cho trời và đất (trời Tròn đất Vuông). Ý nói đây là nơi đối đãi Âm - Dương, hội tụ tinh hoa Trời Đất.
Khung cửa TRÒN của gác Khuê Văn soi bóng xuống giếng VUÔNG Thiên Quang tỉnh càng làm rõ sự âm dương đối đãi (hay đối chuyển) trong kiến trúc cổ. Mỗi khi làn nước giếng Thiên Quang xao động thì bóng gác Khuê Văn lại như lay động lung linh tạo nên những chuyển động rất thi vị.
VĂN là vẻ đẹp. Vẻ đẹp của gỗ là “vân”, của chim thú là “vằn”. Vẻ đẹp của con người là “Văn”. Văn là đạo đức lễ nhạc giáo hoá pháp điển và văn chương.
CÁC là gác/lầu. Kiến trúc cao tầng có mái che.
KHUÊ VĂN CÁC là lầu gác tôn vinh, ca tụng, nêu cao vẻ đẹp của văn chương, giáo hoá, điển lễ, pháp điển và văn hiến. Ý của nhà vua là tôn trọng văn hiến của Bắc hà nói riêng, Việt Nam nói chung (quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long chuẩn y năm Giáp tý - 1804).
Nay, cả hai công trình đều còn nguyên vẹn và từ lâu đã trở thành biểu tượng của thủ đô; riêng Khuê Văn các còn trở thành biểu tượng văn hiến của Việt Nam.
Khuê Văn CácKhuê Văn Các là quà tặng của Hoàng đế Gia Long dành cho giới sĩ phu Bắc Hà nói riêng và giới Nho sĩ nói chung của miền Bắc.
Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành (1758-1817) được giao việc xây dựng Khuê Văn các vào mùa thu năm 1805.
Công trình nhỏ bé này được đánh giá là một công trình mẫu mực, đạt đến tỷ lệ vàng của kiến trúc Việt. Cân đối, đăng đối, hài hoà, chứa đựng tri thức về triết học, toán học, thiên văn học, văn hoá trong từng cấu kiện và tỷ lệ. Khi công trình hoàn thành, có cả một bài phú ca tụng vẻ đẹp của Khuê Văn Các.
Khuê Văn Các ẩn hiện trong những tán cây già. Hai tầng tượng trưng cho Lưỡng nghi. Mỗi tầng 4 mái tượng trưng cho Tứ tượng. Tám mái tượng trưng cho Bát quái Kinh Dịch.
KHUÊ. Sao Khuê là một trong nhị thập bát tú, tượng trưng cho văn chương, với khung cửa TRÒN nằm trong một khung VUÔNG, tượng trưng cho trời và đất (trời Tròn đất Vuông). Ý nói đây là nơi đối đãi Âm - Dương, hội tụ tinh hoa Trời Đất.
Khung cửa TRÒN của gác Khuê Văn soi bóng xuống giếng VUÔNG Thiên Quang tỉnh càng làm rõ sự âm dương đối đãi (hay đối chuyển) trong kiến trúc cổ. Mỗi khi làn nước giếng Thiên Quang xao động thì bóng gác Khuê Văn lại như lay động lung linh tạo nên những chuyển động rất thi vị.
VĂN là vẻ đẹp. Vẻ đẹp của gỗ là “vân”, của chim thú là “vằn”. Vẻ đẹp của con người là “Văn”. Văn là đạo đức lễ nhạc giáo hoá pháp điển và văn chương.
CÁC là gác/lầu. Kiến trúc cao tầng có mái che.
KHUÊ VĂN CÁC là lầu gác tôn vinh, ca tụng, nêu cao vẻ đẹp của văn chương, giáo hoá, điển lễ, pháp điển và văn hiến. Ý của nhà vua là tôn trọng văn hiến của Bắc hà nói riêng, Việt Nam nói chung (quốc hiệu Việt Nam do vua Gia Long chuẩn y năm Giáp tý - 1804).

Kỳ đài - Cột cờCột cờ Hà Nội là một kết cấu dạng tháp được khởi công xây dựng năm 1805 và hoàn thành vào năm 1812.
Theo Wikipedia:
Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch.
Tầng 1: Mỗi chiều 42,5 mét; cao 3,1 mét
Tầng 2: Mỗi chiều 27 mét; cao 3,7 mét
Tầng 3: Mỗi chiều 12,8 mét; cao 5,1 mét; có 4 cửa, trừ cửa Bắc, 3 cửa còn lại đều có đắp 2 chữ tuỳ theo từng hướng:
Cửa Đông - Nghênh Húc (迎旭 – đón nắng ban mai)
Cửa Nam - Hướng Minh (向明 – hướng về ánh sáng)
Cửa Tây - Hồi Quang (回光 – ánh sáng phản hồi)
Từ tầng 1 đến tầng 3 đều có cầu thang xoắn dẫn lên.
Trên tầng 3 là thân cột Cờ hình trụ có 8 cạnh thon dần lên phía trên, mỗi cạnh 2,13 m với thân cao 18,2 mét. Trụ hình thang xoáy trôn ốc gồm 54 bậc; được rọi sáng (và thông hơi) bằng 39 ô cửa sổ hình hoa thị và 6 ô cửa sổ hình dẻ quạt. Những ô cửa này được đặt dọc các cạnh, mỗi cạnh có tới 5 hoặc 6 cửa sổ.
Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3 mét có 8 cửa sổ tương ứng 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4 mét và cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ cao 8 mét, phía trên treo cờ.
Toàn phần xây từ đế đến trụ này cao 33,4 mét gồm 3 tầng đế cao 12 mét, cột cao 18,2 mét, lầu 3,3 mét. Nếu kể cả trụ treo cờ thì trên 40 mét.
Khi người Pháp phá thành Hà Nội, họ định phá luôn cột cờ, may mắn là họ không tiến hành việc này, lý do vì họ muốn biến nó thành đài xem đua ngựa.
Cột cờ Hà Nội từ năm 1956 - 2024 nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (trước đây là Bảo tàng Quân đội), nay là trong Hoàng thành Thăng Long, trên đường Điện Biên Phủ, quận Ba Đình.”(Hết trích).
NXD
Ảnh Khuê Văn Các của Léon Busy chụp 109 năm trước. Nguồn: FB Nguyễn T.A Phong.