Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

HÌNH ẢNH CẦU CHÒ/ CẦU TRÒ MỚI TÌM THẤY TRONG SÁCH CŨ


HÌNH ẢNH CẦU CHÒ/ CẦU TRÒ MỚI TÌM THẤY TRONG SÁCH CŨ

Tôi để tâm tìm hình ảnh và các bài viết về "cầu trò" ở quê hương tôi, thực là rất hiếm có khó tìm thấy 1 quyển sách nào viết về nó, hoặc đăng ảnh chụp / ảnh vẽ kèm có chú thích tên "Cầu Trò" / "Cầu Chò".
Rất vui vừa thấy hôm qua một cuốn sách "Souvenirs Franco-Tonkinois 1879-1886" sách do một nhà truyền giáo (cha tuyên úy) cùng đoàn quân viễn chinh Pháp lên đánh và hạ thành Sơn Tây ghi chép.
 
Trong sách, tại trang 192 có đăng 1 hình ảnh kèm ghi chú "Pont de Cau Cho sur la route de Son Tay à Hanoi" (Cầu Chò trên đường đi từ Sơn Tây đến Hà Nội). Trong sách này tôi nhận thấy tác giả cũng đã dùng từ "Xứ đoài". Có lẽ đây là một trong những "tác giả Tây" dùng từ "Xứ đoài" sớm nhất trong tác phẩm "chữ tây".
 
Nhân hôm nay FB cũng vừa nhắc lại bài viết về Càu Trò của tôi. Tôi xin chia sẻ bài viết cùng ảnh mới với những ai yêu quý miền đất Phúc Thọ - Xứ Đoài quê hương tôi.
 
Cầu Gia Hòa được thể hiện trên bản đồ Huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ thời Đồng Khánh

CẦU TRÒ QUÊ TÔI - LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THUYẾT
Nhân vừa mới được đọc tuần trước bài "Chuyện của nó" / "làng của nó" của bác Khuất Thị Hoa (Khuất Thi Hoa), người làng Kỳ Úc có đề cập đến tên nôm, tên chữ các làng trong xã và truyền thuyết cầu Trò. Bài viết dưới đây nhằm góp thêm một vài thông tin tư liệu lịch sử về Cầu Trò (còn gọi là Cầu Gia Hòa) để người quê ta thêm yêu một cổ tích.
 
Cầu Trò tên gọi thân quen của một cây cầu nằm trên QL 32, nối liền Thủ đô Hà Nội với Thị xã Sơn Tây và các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lai Châu. Cầu Trò cách Hà Nội khoảng 36,5 km (cách thị xã Sơn Tây chừng 5,5 km), bắc qua một đầm nước (ĐNNTC viết là "khe", bản dịch thác bản văn bia viết là "sông nhỏ") chảy qua làng Gia Hòa, huyện Thạch thất xưa kia, nay thuộc Thị Trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ nên cũng có tên gọi là Cầu Gia Hòa.
 

2 mặt bia đá viết về việc xd Cầu trò

Cầu Trò là điểm hẹn đã đi vào ca dao, cuộc sống của người dân quê tôi. Xưa kia, những đôi nam nữ yêu nhau, họ lo cho nhau từng bước đi, nhịp đến qua những nơi hẻo lánh hiểm nguy: "... Em đi anh tiễn (đến) Cầu Trò / Em về, anh đón Ba Gò Đông Viên..." (Văn hóa làng xã huyện Phúc Thọ, Nguyễn Văn Trường, nxb CTQG, 1997, tr. 97). Lại có cụm từ hẹn đến "Kho gạo Cầu Trò" mỗi khi đến kỳ xuất nhập dự trữ lúa gạo của Nhà nước. Các cô cậu học sinh cũng có một thời hẹn nhau ở trường Cầu Trò (Đền, quán Cầu Trò bây giờ làm phòng học những năm 1975-1980), và bây giờ lại hẹn ở "đầu Cầu Trò" mỗi khi họp lớp, hay đến các cơ quan huyện Phúc Thọ...




Cầu Trò hay Cầu Gia Hòa ngày nay

SỬ LIỆU VIẾT VỀ CẦU TRÒ
1. Bia Kiều Trò bi ký, 橋稠碑記 (ký hiệu: 18179/18180), sưu tầm ở xã Gia Hòa, tổng Lạc Trị, huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, bia 2 mặt, khổ 72 X 120 cm, niên đại Chính Hòa thứ 18 (1697). Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập X, tr. 82 viết tóm lược nội dung: "Xã Gia Hòa, huyện Thạch Thất có 1 con sông nhỏ chảy qua, xưa kia có cầu đi lại rất là khó khăn. Có 1 người trong xã (vì mất chữ, không rõ tên) đã bỏ tiền của ra mua gỗ và gạch ngói để làm Cầu Trò giúp cho dân làng đi lại được dễ dàng thuận tiện. Nay lập bia ghi lại việc này, ca ngợi công đức của người đó, ghi họ và tên chư vị đã góp công, góp của vào việc dựng cầu (Thác bản rất mờ).
- Theo T.s Nguyễn Xuân Diện (Xuân Diện Hán Nôm) - Nguyễn Xuân Diện, Viên NC Hán Nôm, Đi tìm lời giải huyền thoại Cầu Trò, Nguyễn Xuân Diện,1994), thác bản TU TẠO TẬP PHÚC KIỀU CHÒ BI KÝ, toàn văn bản chữ Hán, chữ khắc chân phương, gồm 38 dòng, khoảng 2.500 chữ. Bia được tạo năm Chinh Hòa thứ 18 (1697) nhà Lê. Người soạn bài văn khắc trên bia là người họ Nguyễn, đỗ giải Nguyên, làm quan tới Cẩn sự tả lang. Người viết chữ là Nguyễn Tôn Vinh, chức Tăng thống. Người khắc vào đá là Trần Kim Bảng.
Nội dung bia viết: Xã Hòa Triền (tên cũ của xã Gia Hòa) là vùng đất danh thắng, dân cư đông đúc, có dòng sông vắt qua quanh co uấn khúc, phong thủy hữu tình. Song cũng chính dòng sông làm cản trở giao thông khiến việc đi lại hai bên sống gặp nhiều khó khăn. Dân làng nhiều phen muốn dựng cầu nhưng chưa thành. Nay các quan viên sắc mục và toàn người dân địa phương dựng một chiếc cầu chín nhịp, trên có lợp ngói để che mưa gió cho khách bộ hành. Công quả hoàn thành trên bia dựng ghi lại. Mặt sau liệt kê danh sách các vị hưng công làm cầu.
Qua nội dung văn bia, cầu Trò có từ trước 1697, đếnnăm ấy mới bắt đầu làm theo kiểu thượng gia, hạ kiều (trên cầu có lợp mái), cầu chín nhịp, trên có lợp ngói để che mưa gió cho khách bộ hành.

Cầu Ngo, xã Tích Giang được Kts Nguyễn Bá Lăng vẽ và mô tả rất giống cầu Trò và cho biết thêm: "những cầu quán này còn thấy bắc ở mấy nơi nữa trên sông Tích giang, gần thị xã Sơn Tây và trong vùng".

2. Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, viết đầu Triều Nguyễn (Trấn Sơn Tây, Q.10, Lê Quang Định, bản dịch, nxb Thuận Hóa, 2005, tr.457) có ghi: [18b]... Từ cửa hữu ngoài thành [Sơn Tây], thuộc huyện Phúc Lộc phủ Quảng Oai, 17.704 tầm 4 thước đến địa giới phủ Hoài Đức. Người ta đi 1.016 tầm 4 thước đến chợ Phú Nhi, đi tiếp 1.458 tầm, đến điếm xã Tiền Huân. Đi tiếp 2.377 tầm đến chợ Ô Cách xã Bách Lộc, thuộc huyện Thạch Thất, tục gọi là Chợ Gạch (phiên chợ có bán nhiều lụa, vải, lưới. Hai bên chợ có quán xá, đông đúc, khách đi đường có thể nghỉ lại). Đi tiếp 428 tầm, dọc đường là dân cư và ruộng cấy lúa xen nhau, đến cầu xã Hòa Triền (tên gọi làng Gia Hòa trước năm 1843, NVT), cầu dài 9 tầm, trên cầu có mái ngói, tục gọi là Cầu Trò.
 
3. Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Quốc sử quán Triều Nguyễn, nxb Thuận Hóa, 1997, tr.230 viết: “cầu Gia Hòa ở huyện Thạch Thất,trên cầu có mái ngói”. Ở trang 223, sách này cũng viết: "Khe Thanh Câu ở cách huyện Thạch Thất 15 dặm ở phía Tây Bắc, phát nguyên từ địa phận huyện Phúc Thọ, chảy về phía Đông Nam hơn 10 dặm, qua Cầu Gia Hòa đến xã Thanh Câu, rồi đổ vào sông Tích".
 
4. Đồng Khánh địa dư chí, Viện NC Hán Nôm và Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, tập 4 - tập bản đồ thể hiện cầu Gia Hòa có lợp ngói trên phần địa dư huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ (xem bản đồ huyện Phúc Thọ và Thạch Thất kèm theo).
 
5. Sách Sơn Tây tỉnh địa chí, Phạm Xuân Độ, in năm 1941, tr. 235 viết: "Sông ngòi - Thạch Thất có nhiều ngòi do sở dẫn thủy nhập điền khai năm 1930 để lấy nước vào đồng ruộng. Làng Gia Hòa có ngôi Cầu Chò (Trò ???)".
 
TRUYỀN THUYẾT VỀ CẦU TRÒ
 
1. Truyền thuyết về miếu Cầu Trò và Cầu Trò, theo bản khai báo Thần tích thần sắc làng Gia Hòa (Mã FQ4°18/III,19, lưu tại Viện TTKHXH) do ông Tô Văn Tụng, Chánh Hội làng Gia Hòa, ký ngày 28/3/1938 phần khai về "Đức chúa ở quán dưới" như sau: Đức chúa ở quán dưới, ngài là Đoan Chang (Trang ?) Y đức công chúa, húy là Kiều Chu Chung Tiên, họ Hồng Bàng, con vua Lạc Chiêu Vương, ngài sinh ngày 10 tháng giêng, hóa ngày 22 tháng 3, ngày hiển thánh không rõ. Ngài có công ban phát lương tiền cho dân, khi ngài đã hóa, rồi, đến đời vua Trần Thánh Tôn có Nguyên nhân và Xiêm nhân sang chiếm ở Bạch Hạc giang, vua cùng quan chạy đến khu Hòa Đông (thuộc làng Gia Hòa ngày nay), tức là chỗ đền thờ ngài bây giờ, bị bùn lầy cản trở, không chạy được, vua bèn làm lễ yết thiên địa và bách thần, chợt thấy một đám mây ở đằng Tây xuống, hình như nữ nhân, vua hỏi, ngài nói là con gái của vua Lạc Chiêu Vương, đời trước phong cho ở địa hạt này. Nay quốc gia có đại sự xin giúp. Ngài nói xong, phút chốc thấy thiên sắc ảm đạm, tựa như có cây gỗ để trên bùn nước, vua cùng quan, quân noi đấy mà sang được.
 
2. Sách Xã Chí làng Gia Hòa, bản viết tay ngày 19/3/1943 viết: "Miếu Cầu Trò làm có 1 cái nhà, tiền đao, hậu đốc, miếu nhỏ, đục trạm thường. Miếu này thờ công chúa, lưu giữ được ba đạo sắc phong".
 
3. Năm 1994, trong một chuyến du khảo để nghiên cứu lịch sử ca trù, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện viết: Đến thôn Gia Hòa, xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, trên đường Hà Nội - Sơn Tây, gần tới thị trấn Gạch, có một cây cầu, tên gọi cầu Trò, cầu Trò nằm trên địa phận thôn Gia Hòa xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ. Người ta vẫn kể rằng, xưa có một cô đào đã từng làm mê mẩn bao quan viên, bởi vẻ đẹp đoan trang kiều diễm, bằng nhịp phách giòn tan và những luyến láy trác tuyệt. Một đêm mưa gió, tan cuộc hát, nàng trở về nhà, không may cho nàng vừa về đến cầu thì nàng cảm lạnh mà chết. Dân làng thương nàng, quan viên đã từng say mê tiếng hát của nàng đã chôn cất và lập miếu thờ nàng ở ngay bên cầu.
 
Câu chuyện ấy, tình cảm ấy đã làm bao người thương xót thân phận “nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương” của người ca nữ nọ. Sau khi nàng chết, cầu ấy gọi là cầu Trò. Trò là nhà trò. Trò là trù, ca trù.
 
Nhà thơ Vũ Đình Liên nghe chuyện ấy cảm động mà viết lên bài thơ Cảm tạ với hai câu kết:
 
“Tạ lòng nào biết nên chi được
Phách ngọc dồn thêm một nhịp vàng”
(Đi tìm lời giải huyền thoại Cầu Trò, Nguyễn Xuân Diện,1994).
 
Cũng chuyến đi ấy, Nguyễn Xuân Diện gặp được cụ thủ từ ở ngôi đền bên cạnh cầu Trò cho xem ngọc phả, bằng chữ Hán và bản diễn ca bằng chữ Nôm, về đền Mẫu. Ngọc phả chép rằng: Vua Hùng Chiêu Vương có 32 hoàng tử và 18 công chúa. Trong số 18 công chúa có một người tên là Y Đức, hiệu Trung Tiên. Nàng là con của bà vợ thứ ba (bà Đàm Hiền Vân) của vua Hùng. Khi nàng 15 tuổi thì mẹ nàng qua đời. Nàng cư tang 3 năm, giữ tròn đạo hiếu. Sau nàng xin phép vua cha để được đi chơi khắp mọi nơi. Một hôm nàng đến trang Gia Hòa, huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai (Sơn Tây) thấy ở đây sông ngòi khuất khúc, cảnh vật tươi xinh, nàng bèn ở lại, phát tiền mua ruộng và lập ở đây một hành cung. Một thời gian sau nàng lại về triều và mất ở đó.
 
Vào thời nhà Trần, giặc Nguyên đem quân chinh phạt nước ta. Trần Thánh Tông mang quân ra chống cự ở Bạch Hạc, bị thua trận phải lui về Sơn Tây và mắc lại ở đầm lầy, ở gần miếu thờ Ý Đức công chúa. Trần Thánh Tông sai bày hương cầu khấn trời đất và các thần phù trợ. Bỗng có một đám mây trắng hạ xuống. Trong đám mây ấy có một vị nữ thần. Nhà vua hỏi, nữ thần đáp rằng: "Ta là con gái của vua Hùng Chiêu Vương, tên là Ý Đức, hiệu Trung Tiên, đời trước được phong Phúc thần ở đây. Nay nước nhà gặp biến, thiếp xin được giúp đỡ để lập chút công trạng". Khi nàng vừa dứt lời, có một cây gỗ chò nổi trên mặt bùn, bắc ngang qua đầm. Vua và các tướng sĩ lần lượt đi trên cây gỗ chò qua đầm. Khi mọi người đã đi sang bờ bên kia, cây gỗ tự nhiên biến mất, đầm nước trở lại như thường. Sau khi bình xong giặc Nguyên, Trần Thánh Tông lệnh cho trăm quan tới đền thờ nàng để làm lễ tạ, lại sắc cho các trại xung quanh, hàng năm, vào ngày giỗ nàng (ngày 22 tháng 3 đều làm lễ tế). Bản ngọc phả này do Thượng thư bộ Lễ triều Lê soạn. Đó là tất cả sự thật về ngôi đền bên cầu Trò.
 
Như vậy, qua tư liệu lịch sử, Cầu Trò ở làng Gia Hòa, thuộc huyện Thạch Thất xưa kia, nay thuộc huyện Phúc Thọ đã có từ trước 1697, đến năm ấy mới xây theo kiểu thượng gia, hạ kiều (trên cầu có lợp mái), cầu chín nhịp, trên có lợp ngói để che mưa gió cho khách bộ hành. Văn bia còn cho biết rõ tên và chức danh người soạn bài văn khắc, người viết chữ và người khắc chữ trên bia.
 
Qua truyền thuyết, Cầu Chò là cây gỗ chò, được bắc qua đầm lầy ở làng Gia Hòa, nơi gần miếu thờ Ý Đức công chúa do con gái của vua Hùng Chiêu Vương, tên là Ý Đức, hiệu Trung Tiên giúp đỡ vua Trần Thánh Tông mang quân ra chống cự ở Bạch Hạc, bị thua trận phải lui về Sơn Tây rồi qua Cầu Chò này.
 
Vì thế, dân địa phương và quanh vùng còn tranh luận giữa chữ "Chò", tên cây gỗ chò do vị công chúa thứ 18 của vua Hùng Chiêu Vương, tên là Ý Đức, hiệu Chung Tiên phò giúp vua Trần Thánh Tông và tướng sĩ qua ải khó khăn hay chữ "Trò", trong "nhà trò". "Trò" là "trù" của "ca trù" từ một truyền thuyết về một ca nữ kiều diễm, đoan trang bị cảm lạnh, rồi chết khi qua cầu trong đêm mà dân thôn thương nhớ đã góp tay, góp sức chôn cất và lập miếu thờ cô ngay bên cầu.
 
Truyền thuyết kể lại cho người đời nay nghe như một huyền thoại linh thiêng. Sử liệu khắc ghi và được người đời lưu giữ những thành tích đích thực từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều nói lên tinh thần cộng đồng làng xã, người dân địa phương nơi đây đối với một công trình công cộng "cầu-đường" và nói lên tình nhân ái, tính nhân văn và sự ham mê nghệ thuật của dân địa phương nơi đây.
 
Tác giả bài viết này thiên về tên gọi và tên chữ là "Cầu Trò" hơn chữ "Cầu Chò" và hơn cả tên gọi là "Cầu Gia Hòa", bởi chữ "Trò" lâu nay, theo thói quen đa phần người dân địa phương viết theo âm nói tương đối nặng của người xứ Đoài. Vả lại, giờ đây, cây cầu đã được thay thế hoàn toàn bằng Bê-tông, cốt thép, mặt cầu láng nhựa, không có một chi tiết cầu nào bằng gỗ, cũng không có cây chò nào xung quanh cầu. Du khách qua đây sẽ chìm trong giấc ngủ êm ru bởi mặt đường rải nhựa khá thoáng, rộng, sẽ khó mới nhận ra ta vừa qua một cây cầu lịch sử.
 
****** 
Chú thích ảnh: Ảnh 1-1:
Ảnh 2 có ghi chú "le pont de Cau Cho sur la route de Sontay à Hanoi", đăng tại tr.192 sách "Souvenirs Franco-Tonkinois 1879-1886".
Ảnh 2a-2b: 2 mặt bia đá viết về việc xd Cầu trò
Ảnh 3a-3b-3c: Cầu Trò hay Cầu Gia Hòa ngày nay
Ảnh 4: Cầu Ngo, xã Tích Giang được Kts Nguyễn Bá Lăng vẽ và mô tả rất giống cầu Trò và cho biết thêm: "những cầu quán này còn thấy bắc ở mấy nơi nữa trên sông Tích giang, gần thị xã Sơn Tây và trong vùng".
TB: Cảm ơn cô giáo, Kiều Thị Trang (Trang Kieu Thi) đã cung cấp cho 3 ảnh mới càu Gia Hòa ngày nay đăng kèm bài này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét