Những người cùng khổ ở Đắk Nông
Khi ước mơ thoát nghèo lại dẫn đến chấn song sắt và xà lim tử tù.
Thuở xa xưa, không ai để ý đến Tây Nguyên xa xôi, một vùng đất chưa
có nhiều người biết đến, vốn nuôi nấng những tộc người còn chưa có chữ
viết. Ở đó, rừng rậm là bá chủ. Rừng ôm trọn lấy tất cả. Rồi người Pháp
đến để khai mở vùng đất rậm rạp này. Người Kinh chỉ mới mò mẫm đến chốn
hoang vu này trong những năm chiến tranh khói lửa.
Tây Nguyên mở rộng vòng tay với tất cả, những ai chịu được cái buồn
muôn thuở. Đâu đâu cũng là rừng, mùa nào cũng buồn như mùa nào, yên
tĩnh, trầm lặng. Dân di cư sợ hãi, co cụm vào một chỗ để chống chọi với
cái buồn nẫu ruột.
Nhưng đó là chuyện của ngày xưa, ngày những người Kinh còn xa lạ với
khí hậu khắc nghiệt, rừng rậm âm u. Tây Nguyên bây giờ thoáng đãng hơn,
tiện nghi hơn bởi vị bá chủ đã bị chặt hạ trong những đợt xâm lăng vô
cùng tận. Sau chiến thắng, đội quân đó lại xâu xé lẫn nhau.
Đặng Văn Hiến cũng là di dân nhưng anh không ghi danh vào đội quân
hung tàn đó. Anh đến với Tây Nguyên trên đôi chân trần, khuân trên vai
một ước mơ nhỏ bé nhưng cháy bỏng. Không chỉ anh, những người đồng hương
của anh cũng thế. Nghèo đói đã buộc họ ra đi.
Làn sóng di dân
Làn sóng di dân
Đầu những năm 1990, những tộc người ở phía Bắc di cư vào Nam đã tạo
thành một làn sóng di dân khổng lồ. Họ nghèo quá rồi, không còn đủ đất
đai để trồng trọt nữa. Mà họ chỉ biết mỗi cái nghề đấy.
Lời đồn thổi về một mảnh đất rộng lớn ở miền Nam được truyền miệng
nhau, nơi mà họ vẫn có thể sống bằng bản năng làm nông và sự am hiểu núi
rừng của mình. Tây Nguyên nghẹt thở đón nhận dòng những người tiếp nối
nhau đi tìm đời sống mới.
Khi đó, ở một vùng quê nghèo ở Lạng Sơn, gia đình Đặng Văn Hiến,
người dân tộc Nùng, vẫn có thể chống chọi với cái đói và cái rét. Họ mới
chỉ có một đứa con gái. Họ cũng có một căn nhà riêng và biết sống chắt
chiu. Nhưng cuộc sống tằn tiện đắp đổi qua ngày đó kéo dài không lâu.
Hiến cũng đến chỗ này chỗ kia trong tỉnh để làm thuê nhưng đều thất bại.
Có cố gắng ở mảnh đất quê nhiều đến đâu đi nữa thì cái nghèo vẫn bám
anh như đỉa đói bám chân.
Mang mơ ước vào Nam
Cuối cùng, lời đồn thổi và động viên của bạn bè đã thuyết phục được
anh thử vận may một lần, đúng hơn là nghèo đói không cho anh cái quyền
được chần chừ.
Anh sẽ theo người quen vào Tây Nguyên một chuyến. Nhưng anh đã tính
trước, rằng đất ở trong đấy rẻ, lại dễ trồng trọt, anh sẽ chỉ cần đi làm
thuê một thời gian thôi. Anh sẽ ăn uống dè sẻn, sẽ tích góp đủ tiền để
mua một mảnh đất nhỏ. Rồi anh sẽ cất nhà trên đó, sẽ đón vợ con vào đoàn
tụ. Anh sẽ cất nhà gỗ cho rẻ tiền. Lúc nào dư dả, anh sẽ xây nhà bê
tông. Điều và cà phê thì chỉ cần trồng một vài năm rồi cứ thế mà thu
hoạch. Vợ sẽ nhặt những trái điều căng tròn còn anh sẽ tước những hạt cà
phê chín mọng. Tất cả sẽ do chính tay anh vun trồng. Nếu không thích,
anh sẽ nhổ chúng đi rồi trồng những cây khác. Anh không phải làm công
cho ai cả.
Đầu những năm 2000, khi anh vào Nam đã được một thời gian và biết rõ
những vùng Bình Phước, Đắk Lắk và Đắk Nông ngày nay, anh đón vợ vào rồi
cùng đi làm thuê. Dẫu sao đủ vợ đủ chồng sẽ đồng lòng hơn, ước mơ sẽ đến
sớm hơn khi hai người cùng nhau tích góp.
Năm đó, ước mơ của hai vợ chồng đến theo một cách khác. Họ lấy tiền
dành dụm được để thuê đất rẫy của người quen với giá rẻ. Dẫu chỉ là đất
thuê nhưng vẫn có chút cảm giác thuộc về mình.
Với bàn tay cần cù của cả hai, những vườn rau mơn mởn của mùa trồng
trọt đầu tiên đã nảy nở. Nhưng đúng lúc đó, trời dội liền mấy cơn mưa
tầm tã, rả rích mấy ngày trời. Những luống rau cũng phải đầu hàng hàng
trước số phận. Hết vốn nhưng không chán nản. Anh Hiến và vợ lại lặn lội,
làm thuê khắp vùng đất mà anh nghĩ sẽ có cơ may đổi đời này. Làm gì
cũng được, từ tước cà phê, dọn vườn điều, nhặt điều, phơi sẵn, v.v. miễn
họ có tiền cho ước mơ của mình.
Mảnh vườn của Hiến
Năm 2005, ước mơ của anh đã hiện ra ngay trước mắt. Tôi nghĩ anh đã cố hết sức để tìm ra mảnh vườn của mình sớm nhất có thể. Mảnh vườn đó nằm sâu hun hút sau mấy dãy núi, cách thị trấn Gia Nghĩa (Đắk Nông) đến 90 cây số.
Mảnh vườn của Hiến
Năm 2005, ước mơ của anh đã hiện ra ngay trước mắt. Tôi nghĩ anh đã cố hết sức để tìm ra mảnh vườn của mình sớm nhất có thể. Mảnh vườn đó nằm sâu hun hút sau mấy dãy núi, cách thị trấn Gia Nghĩa (Đắk Nông) đến 90 cây số.
Quốc lộ 14 thẳng tắp dẫn đến thị trấn Gia Nghĩa thì không có gì để
nói. Nhưng từ ngã ba Đông Dương thì tôi phải đi trên một con đường đất
đỏ kỳ dị. Không phải ai cũng đủ kiên nhẫn và kỹ năng lái xe máy để đi
trên những cung đường như thế này. Du khách cũng đã giã từ con đường
này, từ giã thác Đắk G’lun mờ ảo. Mùa mưa, hai bánh của xe máy phải gắn
xích thì mới chiến thắng con đường khốn khổ này. Mùa nắng cũng không thể
chạy nhanh vì lòng đường mấp mô, mô đất cùng với đá như những gai nhọn
hất cả bánh xe tung lên không trung.
Hai bên đường, đồi núi đã “xuống tóc” thành những ngọn đồi trọc, dấu hiệu chiến thắng của đội quân xâm lăng.
Mảnh vườn của Hiến nằm ở phía bên kia con suối, sau khi qua một làng
nhỏ của những người Mông di cư từ miền Bắc. Ở đầu con suối này là nhà
của đội trưởng Sắc, quản lý đồn công an của Tiểu khu 1535. Vì vậy, ai ra
vào khu vực này anh ta đều nắm rõ như lòng bàn tay.
Có lẽ phải vào tận cùng những nơi xa xôi như vậy mới có chỗ cho ước
mơ của Hiến. Kể cả cái thị trấn Gia Nghĩa bé nhỏ hay dọc theo Quốc lộ 14
trông có vẻ đìu hiu cũng đã khước từ anh. Anh thuê đất ở đây để trồng
khoai mì rồi mua lại từ người chủ đã quá chán ngán với cảnh núi rừng nơi
này. Hiến vay của bố 24 triệu đồng cộng với tiền dành dụm để mua cho
kịp lúc ông chủ muốn bán nó đi.
Tiểu khu những ngày không yên ả
Ở một vùng sâu hun hút như vậy nhưng Tiểu khu 1535 chưa bao giờ là một vùng đất bình yên. Đồn công an bận rộn suốt với những vụ đánh đấm trong vùng. Chốc chốc tôi lại thấy đội trưởng Sắc gọi lính của anh thay sắc phục rồi cưỡi xe máy chạy mất hút sau mấy quả đồi. Những bữa cơm của họ thường không thể kéo dài hết bát cuối cùng.
Đồn nằm trên một đỉnh đồi khá cao, cách con suối khoảng bảy, tám cây số. Đường lên đó khó gấp đôi con đường từ ngã ba Đông Dương rẽ vào. Trại khá rộng, phía trước là một quảng sân khá rộng ngó ra những ngọn đồi trọc đang đợi những cây điều lớn lên. Mấy chiếc xe máy, một bàn ăn cơm, vài chiếc võng dù trang trí cho khoảng sân này. Bên trong nhà có một lối đi ở giữa, hai bên là nơi ngủ của công an được đóng bằng ván cao khoảng một mét, bên dưới là nơi để đồ dùng.
Chuyện đánh đấm chủ yếu xảy ra giữa những người nghèo khổ đang thực hiện ước mơ và đội quân xâm lăng là các công ty trồng trọt được chính quyền cho thuê đất. Một chuyện không mới ở Tây Nguyên khi chính quyền giao đất cho doanh nghiệp bằng cách vẽ lên bản đồ hoặc chỉ tay về phía những quả đồi. Ở những nơi đó, họ không biết hoặc giả vờ không biết đã có những di dân nghèo khổ đang canh tác. Nông dân không có giấy tờ sử dụng đất, họ mua lại hoặc tự phát hoang ở những mảnh rừng mà họ nghĩ là vô chủ.
Rồi những công ty trồng trọt từ trên trời rơi xuống, cầm sẵn giấy tờ thuê đất đến giành giật ngôi vườn của họ, cũng bởi vì trồng trọt ở những vùng đất này quá béo bở. Bằng một cách nào đó, các công ty dễ dàng có được những khu đất màu mỡ; giá nhân công lại rẻ mà còn dễ dãi khi không đòi hỏi hợp đồng lao động; giá điều và cà phê cũng thường ổn định. Vì vậy mà họ bất chấp luật pháp để công nhân đánh đấm với nông dân, giành từng mét đất.
Năm 2008, ba năm sau khi Hiến trồng những cây điều và cà phê đầu tiên. Mảnh đất của anh đã trở thành một ngôi vườn trông cũng đẹp mắt, có thể dựa vào đó mà sống. Cũng trong năm đó, công ty Long Sơn được chính quyền tỉnh cấp đất. Ngay lập tức, họ phát hiện ra những nơi trên giấy tờ thuộc về họ đã có người trồng trọt. Họ đưa công nhân cầm gậy gộc, máy xúc đến húc đổ vườn điều của Hiến và nhiều hộ dân trong vùng.
Lúc này, Hiến có lẽ đã học được cách trở nên mạnh mẽ hơn mỗi ngày. Mảnh vườn của anh nom lúc nào cũng có cảm giác là đang có người rình rập để phá hoại. Anh không thể đánh mất ước mơ của mình dễ dàng như vậy. Anh đã đi một đoạn đường dài từ Lạng Sơn tới Đắk Nông, rồi cần cù làm việc để có được mảnh vườn này.
Chính quyền cũng không có cách giải quyết. Chuyện đánh đấm vì thế mà xảy ra trong nhiều năm, nhiều nông dân bị đánh gãy chân gãy tay, chấn thương sọ não phải nhập viện, bị bắt đi tù vì gây rối trật tự, thỉnh thoảng còn có tiếng súng nổ. Một vùng đất đầy ước mơ nhưng cũng chứa nhiều điều bất trắc.
Những công nhân người Stiêng
Đầu tháng Mười năm 2016, chiếc xe bán tải của công ty Long Sơn đỗ xịch trước một con đường nhỏ đầy đất đỏ dẫn vào một ngôi làng của người Stiêng. Chỗ này cách thị trấn Đồng Xoài sầm uất khoảng mười cây số.
Tổ tiên của người Stiêng là những thợ săn oai hùng. Họ đã truyền lại cho hậu duệ của mình một thân hình cường tráng. Nhưng thật ra nó lại không hữu dụng lắm trong xã hội chuộng sự lọc lõi của người Kinh. Cố gắng lắm họ mới có những bữa cơm no bụng. Họ sống trong những ngôi nhà tình thương, đi nhặt điều, làm thợ hồ, bất kỳ chuyện gì cần cơ bắp và sự cần cù.
Chiều hôm đó, Điểu Thành, Điểu An và Điểu Vinh, ai cũng to lớn vạm vỡ, cùng leo lên chiếc xe bán tải của công ty Long Sơn để lên Tiểu khu 1535.
Vợ của Điểu Thành sắp đẻ đứa con đầu lòng, anh phải kiếm một ít tiền.
Điểu An và Điểu Vinh là hai anh em họ, họ cũng muốn có một công việc cố
định để tránh đám choai choai vô công rồi nghề trong xóm lôi kéo.
Từ nay, họ sẽ có việc làm cố định. Vinh sẽ có tiền gửi về cho người
mẹ đang ốm yếu, người cha không có việc làm, và một ít tiền để em gái
cậu có thể học hết lớp 9. Vả lại, họ là những người hàng xóm, có họ hàng
với nhau, lại cùng sắc tộc nên không ai dám đụng đến họ, biết đâu sẽ
còn vui nữa. Năm đó, Vinh mới 16 tuổi.
Chiếc bán tải nổ máy rồi vòng qua một xóm khác để đón Điểu Tào, một
người cha có bốn đứa con. Với mức lương hơn bốn triệu đồng và bao ăn,
tất cả đều thấy đường đến tương lai như được rút ngắn dần khi chiếc bán
tải tăng tốc trên quốc lộ.
Buổi sáng tang thương
Tuần cuối của tháng Mười năm 2016, mưa đã trút nước xuống Tiểu khu
1535 được hơn ba tháng nay. Con suối đã dâng đầy nước nên chiếc bè kéo
dây được mang ra sử dụng. Đất nhão ra, dính vào gót giày thành từng mảng
lớn. Nước của sình lầy bắn lên áo quần của người đi rẫy ít nhất phải
lên đến đầu gối. Chẳng ai buồn rửa xe máy vì rồi chúng sẽ lại lấm lem
vào ngày hôm sau.
Lúc này, vợ chồng Hiến đã có thêm một con trai hai tuổi. Mấy năm
trước, con gái đầu của họ là Nhung đã học hết phổ thông ở Bình Phước.
Bấy giờ, Nhung đã vào quận Thủ Đức của Sài Gòn để học may ở một chỗ của
người quen.
.
.
Ngôi nhà mơ ước của Đặng Văn Hiến với vườn điều và cà phê bao quanh. Ảnh: Gia đình cung cấp, chụp vào ngày 9/10/2019.
Công ty Long Sơn có thêm nhân công nên chiến đấu ngày càng hăng hơn. Họ đã đầu tư vào vùng này nên muốn lãi càng nhiều càng tốt. Họ không muốn bồi thường cho người dân vì họ đã có giấy tờ thuê đất do tỉnh cấp là bằng chứng hiệu quả nhất, người dân mới thực sự là người phải trả lại đất cho họ.
Những công nhân người Stiêng ngỡ ngàng với công việc đầy bạo lực ở
đây. Họ không chỉ làm nông nặng nhọc mà còn kiêm luôn cả cái công việc
đánh đấm nguy hiểm. Thành, Vinh, An và Tào bằng cách nào đó đã tạo ra
mối thâm thù ảo với những người nông dân ở đây. Chỉ có cách đó họ mới
đóng được vai ác mà công ty đã giao. Họ muốn trở về nhà lắm chứ, để còn
đi tìm một tương lai khác. Họ biết thế nào rồi cũng sẽ gặp rắc rối ở
đây. Nhưng họ phải lĩnh tháng lương đầu tiên đã, bỏ về lúc này thì chỉ
có đi bộ với một cái bụng đói về nhà.
Ba giờ sáng ngày 23 tháng Mười năm 2016, khi cơn mưa đêm còn chưa
dứt, ông Thiện – người quản lý của công ty Long Sơn – dựng tất cả các
công nhân dậy để chuẩn bị máy móc, hung khí lên đường lấy lại đất. Tờ mờ
sáng, khoảng 30 người của công ty Long Sơn tiến đến nhà Hiến khi anh
còn đang ngủ. Họ đã đặt sẵn máy ủi ngay trước khu vườn của anh. Những
cây điều và cà phê trong vườn anh đã trưởng thành và cho trái đều đặn
hằng năm. Công ty Long Sơn cho một tốp người khác mai phục sẵn trước cửa
nhà. Tiếng chó sủa inh ỏi khiến anh phát hiện rắc rối đã đến ngay trước
cửa nhà.
Hiến có một khẩu súng tự chế dùng để săn chồn từ năm 2011. Khẩu súng
này giúp anh chống lại nhóm người hùng hổ của công ty Long Sơn. Không có
nó, anh chỉ còn biết đứng nhìn ước mơ của mình nát tan dưới chiếc máy
xúc. Thật khó có thể biết chính xác về điều người đàn ông có thể làm khi
gia đình họ gặp nguy hiểm.
Điểu An nhìn làn đạn từ trên gác nhà Hiến bay loạn xạ trong không
trung đi thẳng đến nhóm công nhân đứng trong vườn và xung quanh nhà
Hiến.
Một viên đạn xuyên qua tấm khiên, đâm thủng nón bảo hiểm và găm thẳng
vào lớp sọ đầu của An. Những công nhân còn lại chạy tán loạn. Điểu
Thành bị làn đạn làm hư hoàn toàn mắt bên phải. Điểu Tào và Điểu Vinh bị
thương nặng rồi chết tại chỗ. Và một người khác cũng phải bỏ mạng là
Dương Văn Tiến, một người thanh niên 26 tuổi quê ở Ninh Thuận. Tiến đã
làm cho công ty Long Sơn được hai năm. Đáng lẽ, nếu Tiến ở lại nhà sau
đám tang của em trai mình vào tuần trước đó thì có thể anh đã giữ được
mạng sống.
Buổi sáng hôm đó, Hiến còn có Hà Văn Trường là em họ bên vợ đến chơi
nhà anh đã hơn một tháng. Trường có đưa đạn cho Hiến lắp vào súng. Anh
Ninh Viết Bình, nhà ở gần đó, rất thân với nhà Hiến cũng mang súng chạy
đến và bắn hai phát vào nhóm công nhân.
Ở Tiểu khu 1535, người ta chỉ dựng đồn công an chứ không xây trạm y
tế. Những người bị bắn kéo nhau chạy khỏi nhà Hiến, chờ đợi mòn mỏi để
được chuyển đến bệnh viện.
Sáng hôm đó, tiếng súng phát ra từ khu rẫy của Hiến nhưng không đến
được đầu con suối. Phải mất một lúc, ông Long – nhà liền kề với nhà đội
trưởng Sắc – mới hay tin. Mất khoảng một tiếng đồng hồ, ông Long mới lái
được chiếc xe chở củi bằng đầu kéo máy cày đến chỗ những người bị bắn
đang ngắc ngoải. Cũng phải mất ít nhất chừng ấy thời gian để đưa họ đến
đầu con suối. Từ đó, họ mới được đưa đến bệnh viện trên con đường lầy
lội của ngã ba Đông Dương. Nếu đến bệnh viện ở thị trấn Gia Nghĩa cũng
mất không dưới một tiếng đồng hồ vì trời mưa khiến đường rất lầy lội.
Phải chăng tiếng súng của Hiến không ác độc đến nỗi tước đoạt mạng
sống của những công nhân ngay lập tức mà họ đã chết vì thời gian di
chuyển đến bệnh viện quá lâu?
Có những chuyện chỉ cần xảy ra chậm hay sớm hơn một chút thì tương
lai đã có một số phận mới. Đôi lúc, những người nghèo khổ luôn cảm thấy
họ làm gì cũng sai và bị trừng phạt.
Trưa hôm đó, khi trời còn mưa lất phất, cảnh đau thương biến mất, trả
tiểu khu về với cái buồn muôn thuở. Hiến và Trường, người thấp, kẻ cao,
khoác áo mưa đi không ngoảnh lại.
Hà Văn Trường
Anh Trường là em họ bên vợ của Hiến, cùng quê ở Lạng Sơn. Anh cao,
gầy, gương mặt góc cạnh, rõ những đường nét của một người đàn ông vất
vả. Nhà nghèo, cha mẹ già và đứa con mới hai tuổi, Trường vào thành phố
Hồ Chí Minh làm công nhân cho một xưởng nấu sắt.
Tháng Chín năm 2016, lò nấu sắt nổ bung bét thành từng mảnh, Trường
xém chết tại đó. Anh nghỉ việc rồi rong ruổi lên nhà Hiến ở chơi ngót
nghét đã hơn một tháng. Nói là ở chơi nhưng có lẽ anh không còn chỗ nào
để đi.
Chỉ đưa băng đạn cho Hiến nhưng anh không tránh khỏi tội danh giết
người với 12 năm tù giam, giảm xuống còn chín năm tù sau khi xét xử phúc
thẩm.
Cho đến lúc mãn hạn tù, Trường chỉ mới 40 tuổi, anh vẫn có thể xây
dựng lại cuộc đời. Nhưng vấn đề là giờ anh không biết mình còn giữ được
mạng sống cho đến ngày mãn hạn tù hay không.
Những cơn đau đầu khủng khiếp đến với Trường sau ngày anh bị bắt. Trước đó, anh hoàn toàn là một người khỏe mạnh.
Không biết công an giam anh thế nào nhưng tháng Tư năm 2019, Trường
nhập viện ở Bệnh viện Đồng Xoài lần thứ hai rồi chuyển gấp lên Bệnh viện
Đa khoa Chợ Rẫy để mổ vì xuất huyết não. Lúc em trai của anh gọi điện
cho tôi, chân anh vẫn bị còng vào chiếc giường sắt của bệnh viện trong
tình trạng mê man hoàn toàn.Vợ của Trường chưa bao giờ đến thăm anh. Chị
mang đứa con trai hai tuổi bỏ về nhà bố mẹ khi anh bị bắt. Bố của
Trường mất hồi tháng Chín sau một cơn bạo bệnh. Người mẹ già thì đang
nằm bệnh viện vì u phổi.
Hà
Văn Trường nằm mệt nhọc trong bệnh viện Đồng Xoài, bị xích chân vào
giường bệnh và hai công an canh gác trước cửa phòng bệnh. Ảnh: Gia đình
cung cấp.
.
.
Ninh Viết Bình
Ninh Viết Bình rời bỏ quê nhà ở Thái Nguyên sau khi bố mẹ từ chối cho anh kết hôn với một người phụ nữ. Bằng một cách nào đó, anh vẫn đăng ký kết hôn và có một đứa con với cô ấy.
Nhưng cuộc hôn nhân không chính thức ấy không đi được đến đâu. Anh bỏ vào Tiểu khu 1535 rồi dựng nhà và sống một mình ở đó, cách nhà Hiến khoảng một cây số. Hiến và Trường quen nhau như những người tha phương cầu thực và co cụm lại để bảo vệ lẫn nhau.
Khi anh bị bắt, cha của anh đã vào tiểu khu để thay anh chăm sóc vườn điều và cà phê. Nhưng gần đây, ông không thể chăm sóc được nữa vì sức khỏe lao dốc nên lại trở về Thái Nguyên. Ninh Viết Bình còn chịu thêm 15 năm tù giam nữa mới được trở về nhà. Lúc đó, anh sẽ ở vào tuổi 53.
Mai Thị Khuyên – vợ của Hiến
Trở thành vợ của một tử tù sau phiên tòa sơ thẩm vào đầu năm 2018,
chị vẫn tin chồng mình xứng đáng được ân xá vì trong lòng chị, anh Hiến
là một người hùng.
Từ ngày chồng bị bắt, chị Khuyên ngược xuôi trên những chuyến xe đò
Bắc – Nam, vật vã với chứng say xe nặng. Khi thì chị về Bắc để lo cho bố
mẹ chồng, chăm sóc đứa con trai giờ đã năm tuổi đi học mẫu giáo. Khi
thì chị về lại Đắk Nông để thăm anh Hiến và coi sóc khu vườn tược. Khi
thì chị chạy tiền từ nhiều nơi để bồi thường dần cho các gia đình nạn
nhân.
Chị Khuyên không thể làm công việc làm vườn như chồng vì lâu lâu chị
lại bị mệt nặng do hở van tim. Gần đây, chị đưa cho tôi xem một giấy xét
nghiệm về khối u ở vú. May mắn thay, đó là không phải là một khối u ác
tính.
Bản án tử hình của anh Hiến đã khiến chị vượt xa ra khỏi cuộc sống
trước kia. Trước đó, chị là vợ của một nông dân bình dị, có một khu vườn
nhỏ, có những đứa con thơ và chỉ lo việc bếp núc trong nhà. Nhưng từ
ngày chồng gặp nạn, chị biết dùng mạng xã hội, chị trả lời phỏng vấn báo
chí, chị gặp đại diện của các đại sứ quán, v.v.
Đặng Thị Nhung – con gái của Hiến
Suốt mấy tháng đầu năm nay, Nhung ở nhà một mình. Khi bầu trời sập
tối, tiếng côn trùng thi nhau râm ran trong những bụi cây, Nhung đóng
cửa ở một mình trong căn nhà ván gỗ có mấy chỗ đã hư hỏng vì mối mọt.
Trước nhà có một cái sàn nước nhỏ để rửa chén và giặt giũ. Nơi tắm
rửa cũng nằm ở phía trước nhà, cạnh sàn nước, kế đến là nhà bếp. Khi
trời mới hừng đông, Nhung thức dậy để chuẩn bị nông cụ làm vườn.
Khi bố Nhung bị bắt, gia đình đã mất đi một người đàn ông duy nhất.
Công việc làm vườn giao lại cho chính cô con gái 20 tuổi chưa một lần
đụng tay vào cán cuốc. Đáng lẽ, Nhung sẽ được đi Nhật Bản để làm việc
như lời hứa của bố. Ước mơ của bố nhưng cũng là niềm mong ước của Nhung.
Nhung kể với tôi rằng, trước khi bố bị bắt, cô đã chán cái tiểu khu
xa xôi, hẻo lánh, mùa nào đi lại cũng cực nhọc và còn đầy nguy hiểm với
những tay du côn do các công ty thuê mướn này. Cũng vì mong ước này mà
em đi học nghề may sau khi tốt nghiệp phổ thông.
Nhung có trách bố cô trong những ngày đầu ông bị bắt. Nhưng bây giờ
đã khác, Nhung thương mến cái tiểu khu này hơn, cô biết bố đã cực nhọc
như thế nào với gốc điều và cà phê.
Ba tháng trước, Nhung đưa tôi xem lá thư mà cô gửi bố, trong đó có
đoạn viết: “Bố à, bố là một người rất dũng cảm, hy sinh vì mọi thứ. Bố
chấp nhận đánh đổi tất cả để gia đình có được cuộc sống tốt hơn. Con
cũng đã mạnh mẽ hơn, đôi chân bé nhỏ của con đã vững vàng hơn. Con sẽ
làm tròn trách nhiệm của một người con, một người chị mạnh mẽ để vượt
qua tất cả khó khăn. Bố đã mang tới cho con biết bao là nỗi nhớ, biết
bao là tủi hờn nhưng chính vì điều đó đã giúp con khôn lớn, nghị lực và
kiên cường hơn trong cuộc sống.”
Vợ
và con của Hiến chụp cùng bố mẹ, anh chị em của anh. Chị Mai Thị Khuyên
bế con trai 5 tuổi, Đặng Thị Nhung (áo xanh, hàng thứ hai), ông Đặng
Văn Lợi – cha của Hiến (ngoài cùng, bên phải). Ảnh: Thịnh Nguyễn.
Đặng Văn Lợi – cha của Hiến
Suốt những năm 70, khi quân đội Mỹ triển khai những chiến dịch ném bom ác liệt cuối cùng của họ bằng máy bay B-52 xuống những vùng quê nghèo ở Lạng Sơn, ông Đặng Văn Lợi thu mình trong những căn hầm nhỏ để tải đạn cho bộ đội. Vì gia đình chỉ có hai anh em nên nhà nước để ông làm dân công hỏa tuyến còn người anh thì cầm súng chiến đấu. Cách vài tuần ông lại đi một chuyến, đào đường, tải đạn, vận chuyển lương thực cho bộ đội. Hiến được sinh ra cũng trong những năm tháng chiến tranh đó.
.
Suốt những năm 70, khi quân đội Mỹ triển khai những chiến dịch ném bom ác liệt cuối cùng của họ bằng máy bay B-52 xuống những vùng quê nghèo ở Lạng Sơn, ông Đặng Văn Lợi thu mình trong những căn hầm nhỏ để tải đạn cho bộ đội. Vì gia đình chỉ có hai anh em nên nhà nước để ông làm dân công hỏa tuyến còn người anh thì cầm súng chiến đấu. Cách vài tuần ông lại đi một chuyến, đào đường, tải đạn, vận chuyển lương thực cho bộ đội. Hiến được sinh ra cũng trong những năm tháng chiến tranh đó.
.
Hòa bình lập lại, ông Lợi được giữ chức trưởng thôn và gia nhập đảng Cộng sản Việt Nam. Những năm 1990, ông làm gương cho dân làng khi khuyên Hiến vào Nam để không phải lấn chiếm đất đai như những người nghèo đói khác.
Ông Lợi có nét nghiêm khắc, cương nghị của một đảng viên cộng sản ở những vùng quê nghèo. Khi hay tin con trai cả bắn chết người, ông giận lắm. Ông nghĩ dù là con trai mình hay ai đi chăng thì đều phải đền tội cho xứng đáng.
Nhưng bây giờ thì ông đã thay đổi, sau khi vào tận Đắk Nông để kiểm chứng hết mọi việc, ông tin nếu là Hiến thì ông cũng sẽ làm như vậy. Người lương thiện nào cũng sẽ đấu tranh đến cùng cho những gì họ đã cần cù tạo ra.
Những người cùng khổ
Ông Lợi có nét nghiêm khắc, cương nghị của một đảng viên cộng sản ở những vùng quê nghèo. Khi hay tin con trai cả bắn chết người, ông giận lắm. Ông nghĩ dù là con trai mình hay ai đi chăng thì đều phải đền tội cho xứng đáng.
Nhưng bây giờ thì ông đã thay đổi, sau khi vào tận Đắk Nông để kiểm chứng hết mọi việc, ông tin nếu là Hiến thì ông cũng sẽ làm như vậy. Người lương thiện nào cũng sẽ đấu tranh đến cùng cho những gì họ đã cần cù tạo ra.
Những người cùng khổ
Trên mạng xã hội, người ta hay nói về những ngôi sao, những tỷ phú,
những giáo sư tài năng chứ rất hiếm khi nào nói về những người nghèo
khổ. Họ chưa bao giờ là chủ đề trong quá một ngày.
Nhưng Đặng Văn Hiến đã khiến người ta nói nhiều hơn về những nông dân
nghèo khó có ước mơ. Trong những dòng chia sẻ trên mạng xã hội, Hiến
đại diện cho những người lao động chân chính nhưng bị đẩy vào đường cùng
mà bản án tử hình là một vực thẳm có thể nuốt chửng anh bất cứ lúc nào.
Trước cái ngày Hiến cầm súng lên nổ những phát đạn long trời nhắm vào
những người công nhân vốn cũng chẳng khá khẩm gì hơn, anh chẳng có gì
ngoài một ước mơ nhỏ nhoi và một mảnh vườn mà anh đã vất vả lắm mới có
được. Anh chỉ cố gắng để bảo vệ nó mà thôi. Rồi Hà Văn Trường và Ninh
Viết Bình, họ cũng chỉ như Hiến, cố gắng đến với ước mơ bằng đôi bàn tay
chất phác của mình.
Tôi dám chắc có rất nhiều người hiểu được nỗi đau khổ của họ trước sự
khốn cùng của luật pháp. Từng ngày qua, họ cũng phải đấu tranh như
Hiến, đó là những dân oan mất đất, những người tù hứng chịu những bản án
bất công, và những người nghèo làm gì cũng thấy mình sai và bị trừng
phạt.
Dường như ở đất nước chúng ta, những ước mơ bình dị và thiện lương
của những người sống dưới đáy xã hội, rất nhiều khi, lại đẩy con người
ta đến sau chấn song sắt và xà lim tử tù. Đó không phải là một đất nước
của hy vọng. Đó là một đất nước tuyệt vọng.
***
Bài viết dựa trên hồ sơ vụ án Đặng Văn Hiến và tư liệu phỏng vấn các nhân vật.
tô luôn theo dõi vụ này và bài viết làm tôi xúc động quá
Trả lờiXóaTôi luôn theo dõi vụ này và bài viết làm tôi xúc động quá cũng như căm phẫn quá. Đất nước này không còn là của mình nữa rồi.
Trả lờiXóaĐể đánh giá Tòa ngày nay thì nên đọc lại Vụ án Đồng Nọc Nạn https://anhsangluat.com/vu-an-dong-noc-nang/ Để biết Tòa án Thực dân xử án thế nào, như lời của trang trên Link trên: „Sau phần tranh tụng xong, Tòa vào phòng để thảo luận, bàn cãi rất lâu, sau đó trở ra tuyên một bản án mà không một bản án nào có thể công bằng và nhân ái hơn.“
Trả lờiXóa(Đọc Link Wikipedia chi tiết hơn - Ví dụ tra google Vụ án Đồng Nọc Nạn)