Nguyên Ngọc là một trong số ít nhà văn Việt Nam mà văn nghiệp không bị đứt đoạn bởi
bất cứ lý do nào: chiến tranh, biến động thời cuộc, tuổi tác...Ảnh: TL.
Nguyên Ngọc: Minh triết của rừng
Người Đô Thị
28/10/18 15:56
Tôi bắt đầu đọc Nguyên Ngọc cũng đã khá lâu. Thú thực, các tác phẩm hư cấu của ông: Đất nước đứng lên, Mạch nước ngầm, Đất Quảng… không hấp dẫn tôi nhiều lắm. Có lẽ vì đó là những tác phẩm của một thời, và không phải là thời của tôi? Nhưng ký Nguyên Ngọc thì khác. Cũng được ông viết trong cái thời chiến tranh ấy, mà sao đến giờ đọc lại bài ký 'Đường chúng ta đi' vẫn thấy gai người trước một thứ văn xuôi đẹp, vừa giàu chất thơ vừa hừng hực lời hiệu triệu.
Tạng văn Nguyên Ngọc dường
như chỉ phát huy đến tối đa năng lực và sức hấp dẫn của nó khi ông dùng
đến thể ký. Tập ký gần đây nhất của Nguyên Ngọc, Các bạn tôi trên ấy (NXB Trẻ, 2013), viết về Tây Nguyên, gợi lên khá nhiều điều cần phải suy ngẫm. Nghĩ lại, và nghĩ tiếp.
Trong số hai mươi tư bài của tập ký, bài Nước mội, rừng xanh và sự sống
là một bài khá lạ. Nguyên Ngọc không đưa người đọc vào không gian của
cao nguyên Nam Trung bộ ngay, mà ông kéo người đọc xuống biển, đúng hơn
là xuống vùng đất mấy trăm cây số ven biển Nam Trung bộ, nơi miên man
những cồn cát lớn, nơi vốn mặc định trong ý nghĩ của rất nhiều người
chúng ta là đất nghèo, nghèo xác nghèo xơ.
Có
thật là thế không, có luôn là thế không, khi trong quá khứ, chính ở vùng
đất này đã từng hiện diện một vương quốc Champa cực kỳ thịnh vượng? Sự
thịnh vượng ấy từ đâu mà có? Câu trả lời: từ nước mội. “Nước mội là
nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức
có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành. Ở đây người ta
vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ
trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ,
cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay,
cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất” (tr.44).
Vậy
đó, nước mội giúp người dân xứ cát phát triển sản xuất nông nghiệp. Nó
cũng giúp họ phát triển hoạt động giao thương biển, khi ít nhất, dù muốn
hay không, thương thuyền quốc tế khi qua các cảng biển ở đây vẫn phải
cập bờ để “ăn” nước ngọt. Ngọn nguồn của nước mội ở đâu? “Chính rừng
Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu
triệu năm nay, như một người Mẹ vĩ đại, bao dung mà tảo tần, hứng lấy
tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, để dành, tằn tiện, tuyệt
đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất
tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi
nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia”
(tr.46). Từ xa đến gần, rốt cuộc rồi Nguyên Ngọc lại trở về với Tây
Nguyên, quê hương tinh thần, vùng yêu (mà cũng là vùng đau) của mình.
Tập bút ký Các bạn tôi ở trên ấy đã nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2013. Ảnh: TL
Bằng
các trang viết về Tây Nguyên trong tập sách, Nguyên Ngọc đã làm hiển lộ
một Tây Nguyên với tất cả sự huyền ảo, mê đắm, đơn giản mà minh triết
một cách đặc dị của nó. Có thể nói, xuyên qua những biểu hiện phong phú
đến rậm rịt của đời sống, của văn hóa các tộc người Tây Nguyên, ông đã
tìm thấy “yếu tố nền”, có ý nghĩa chi phối mọi dạng thức tồn tại ở nơi
đây. Đó là Rừng. Tây Nguyên chính là rừng. Nguyên Ngọc khẳng định: “Ở
Tây Nguyên, rừng là tất cả, bao trùm. Khởi nguyên là rừng. Chúa dạy:
Khởi đầu là Lời. Ở đây, khởi đầu là Rừng. Nguyên lai là rừng. Rừng là
bắt đầu và tận cùng của mọi thứ trên đời này. Như không gian, như thời
gian, vô tận” (bài Người về Kông Chro, tr.177).
Một
không gian rừng, một thực thể rừng kỳ lạ và kỳ diệu. Nó tỏa ra một sức
hút, một sức ám đến không thể cưỡng lại được đối với con người. Rải suốt
các bài ký, Nguyên Ngọc đã kể cho ta biết, một cách thật thú vị, về
nhiều con người bị rừng Tây Nguyên “ám” như thế nào: Nhạc sỹ Y Yơn, nghệ
sỹ múa Giang Nga, họa sỹ Su Man, một ông phó tư lệnh quân khu người
Hre, rồi Hruck – con trai anh hùng Đinh Núp v.v… toàn những người đang
công tác sinh sống yên lành bình thường giữa cộng đồng, bỗng chốc biến
mất. Họ “về rừng”, về chỉ để lang thang trong rừng vài ngày, rồi trở
lại.
Thậm chí có những con người vốn sinh ra và
trưởng thành trong một không gian xã hội khác hẳn, khi đến với rừng Tây
Nguyên, lập tức bị chiếm lĩnh hoàn toàn, họ sống trong rừng Tây Nguyên
như những người Tây Nguyên suốt hàng chục năm trời. Đó là trường hợp của
các nhà dân tộc học Jacques Dournes (tác giả cuốn P’tao, một lý thuyết về quyền lực ở người J’rai Đông Dương) và Georges Condominas (tác giả cuốn Chúng tôi ăn rừng)
– những “ông Tây” đã yêu Tây Nguyên và đã thực sự “sống Tây Nguyên”.
Nhưng như vậy thì mới chỉ là sự ghi nhận rừng Tây Nguyên ở bề mặt, ở lớp
vỏ. Một người gắn bó với Tây Nguyên hơn nửa cuộc đời - cũng là người,
nói như nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, “đi rất rộng trong văn hóa, đi rất sát với cuộc sống, với nhân dân, và đi rất sâu trong tư duy” - như Nguyên Ngọc, ắt sẽ còn phát hiện từ đó nhiều điều hơn thế nữa.
Ảnh trong Chuyên đề “Nguyên Ngọc vẫn đang trên đường”
- Người Đô Thị báo in tháng 10.2017
Rừng
là sức hút và rừng cũng là sức đẩy. Rừng là đam mê và rừng cũng là nỗi
sợ. Nếu như tôi không nhầm, có lẽ Nguyên Ngọc là người đầu tiên và cũng
là duy nhất cho đến lúc này nhận ra rằng: “Con người Tây Nguyên là
con người sống rất chông chênh, trên một ranh giới mong manh, bên này là
rừng bên kia là xã hội. Họ luôn bị níu kéo giữa hai bên… Tây Nguyên
chính là thế chông chênh kia, một thế chông chênh bền vững, một thế bền
vững chông chênh” (bài Các bạn tôi ở trên ấy, tr.72).
Cái
thế chông chênh ấy lý giải tại sao người Tây Nguyên, vẫn phải sống ở
làng, nhưng lại có những lúc bất chợt tan biến mất vào rừng, lang thang
vô định trong rừng, như một thôi thúc tự thân, không thể không thỏa mãn,
cho dẫu họ luôn ám ảnh nỗi sợ bị sảy chân, bị rơi tõm vào cái âm u
hoang dã của rừng.
Cái thế chông chênh ấy lý
giải tại sao vào mùa Ninh Nông hàng năm, khi lúa đã gặt xong, mọi cư dân
trong làng người Xơ Đăng lại bỏ tất cả nhà cửa, vật dụng, quần áo mà
vào thật sâu trong rừng mươi ngày, nửa tháng, hái lượm tìm cái ăn, cọ đá
vào nhau để làm ra lửa, dùng cái cây mà ném con thú… như người nguyên
thủy, và năm nào cũng vậy.
Cái thế chông chênh
ấy cũng lý giải tại sao đi giữa rừng Tây Nguyên, thỉnh thoảng ta lại bắt
gặp một khoảnh đất lạ, mang dấu vết của một nơi từng là làng: mấy cây
mít, xoài, vài bụi ớt hiểm, mấy cây cà đắng, dăm cột nhà cháy… Người Gia
Rai gọi đó là rngol, “Rngol là một khoảnh nhỏ con người đã mượn của
rừng để thuần hóa làm làng, plei, làm văn hóa, nay lại trả về cho rừng,
và hoang dã đang chiếm lại, rất nhanh. Cũng có thể một hôm nào đó con
người lại đến đây, lại mượn thêm lần nữa, thuần hóa cho mình một đoạn
khúc nào đó, rồi lại trả, cho thành rngol, rồi lại mượn, làm plei, và
lại trả…” (bài Akhan, mùa xuân, tr.248).
Cứ
thế, trên thực địa Tây Nguyên của mối quan hệ rừng, đại diện cho tự
nhiên, và người, đại diện cho văn hóa, Nguyên Ngọc đã tiến tới một nhận
thức mang tính biện chứng về quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên: “Văn
hóa là sự cố gắng bứt ra của con người khỏi tự nhiên, bứt ra nhưng vẫn
cứ phải dính liền, không chìm nghỉm trong ấy nhưng vẫn còn phải nhúng rễ
rất sâu trong ấy, nếu không muốn khô khốc, cằn cỗi, chết rụi” (bài Các bạn tôi ở trên ấy,
tr.72). Đây là một nhận thức quan trọng, theo tôi, quan trọng đến mức
nó có thể và cần phải trở thành kim chỉ nam cho một định hướng phát
triển bền vững về mọi mặt ở Tây Nguyên, và không phải chỉ ở Tây Nguyên.
Trước
hết, nó giúp ta hiểu rằng với con người thì tự nhiên chính là bào thai
mẹ, là nguồn dưỡng chất, là cái Gốc. Cái cách mà chúng ta đã và đang làm
với rừng Tây Nguyên – chặt và đào, hùng hục khai thác, tàn phá rừng đến
cùng kiệt – không gì khác hơn, chính là hành động triệt hạ cái Gốc kia.
Khô hạn và lũ lụt từ đấy mà ra. Và con người Tây Nguyên, khi không còn
rừng nữa, còn có chỗ nào để họ thỉnh thoảng tan biến vào, tự làm mới lại
tâm hồn mình bằng cách tắm gội trong ngọn nguồn nguyên thủy?
Còn
có không gian nào để từ đó những lễ và hội, những nhà rông nhà dài,
những đêm akhan miên man, những ché rượu cần, những cồng và chiêng,
những cuộc diễn tấu Klong Put tự nhiên và đầy ngẫu hứng… tồn tại, vận
hành trong một thể thống nhất, hữu cơ? Không ít lần Nguyên Ngọc đã lo
sợ: “Tây Nguyên đang mất gần sạch rừng xanh rồi. Đại ngàn thì tuyệt
đối không còn. Tất cả đang trống trơn, phơi ra đỏ ngầu đất trơ khô cháy.
Con người ở đấy rồi sẽ ra sao đây? Thú thật, tôi chưa biết, chỉ lo sợ.
Rất lo sợ” (bài Tây Nguyên, mùa lễ hội, tr.270).
Thứ
hai, nhận thức trên sẽ giúp ta hiểu đúng về đặc điểm của văn hóa tộc
người, tránh được những ngộ nhận, nhờ thế, không ứng xử sai và không dẫm
phải vết xe đổ của sự áp đặt văn hóa. Trong tập bút ký này, Nguyên Ngọc
đã nêu nhiều dẫn chứng chứng minh điều đó. Người ta xúc phạm đến người
Tây Nguyên khi “cả gan” hỏi mua hoặc đặt làm tượng nhà mồ chỉ vì không
hiểu rằng tượng nhà mồ không phải thứ làm ra để bán, người chế tác tượng
(có thể là bất kỳ ai) không hề nghĩ mình là nghệ sỹ đang sáng tạo nghệ
thuật, anh ta thậm chí còn không có chủ định làm ra pho tượng nữa kia. “Ở
Tây Nguyên không có người nghệ sỹ chuyên nghiệp. Người ta không làm
nghề nghệ thuật. Nghệ thuật tuyệt đối không phải một nghề. Nghệ thuật là
đời sống, cách sống, thế thôi. Là hơi thở, là không khí… Ở Tây Nguyên,
vậy đó, người ta làm nghệ thuật vì chẳng đừng được. Vì một khao khát tự
bộc lộ, tự biểu hiện, tự bóc mình ra, đột ngột ập đến, không cưỡng lại
nổi” (bài Tượng gỗ rừng già, tr.33, 34, 35).
Nguyên Ngọc đối tửu bên ché rượu cần cùng nghệ sĩ Glơh – một trong những nghệ sĩ
khắc gỗ, làm tượng gỗ tài hoa trên Tây Nguyên. Ảnh: TL
Người
ta đã vô duyên, đã phí tiền của công sức khi làm và “đem cho” làng Tây
Nguyên cái nhà rông đúng kiểu truyền thống, vì không hiểu rằng nhà rông
phải do tự làng làm lấy, sống đời sống của làng, nó chính là linh hồn
của làng. “Một cái nhà rông đem cho, dù người cho là ai, dù với
thiện chí chân thành đến bao nhiêu và đẹp đẽ đến mấy, sao chép giỏi đến
mấy kiểu nhà rông đúng nhất, cổ xưa nhất, vẫn là một ngoại vật, một dị
vật trong đời sống của làng” (bài Nhà rông, hồn của làng, tr.57).
Cuối
cùng, quan trọng hơn cả, nhận thức trên sẽ giúp ta hiểu đúng giá trị
của văn hóa tộc người, từ đó tránh được sự kỳ thị (công khai hoặc ngấm
ngầm) về văn hóa. Còn nhớ, vào những năm năm mươi của thế kỷ XX, trong
một hội thảo quốc tế về chống phân biệt chủng tộc, nhà dân tộc học lừng
danh thế giới Claude Levy Strauss trình bày một bản báo cáo có tên Lịch sử và chủng tộc
(đã có bản dịch tiếng Việt, của Huyền Giang) trong đó ông nhấn mạnh:
không có những nền văn hóa tộc người cao hơn hay thấp hơn, mà chỉ có
những nền văn hóa tộc người khác nhau.
Nguyên
Ngọc đã thấy mọi vấn đề ở Tây Nguyên, từ tâm linh, tình cảm, tri thức,
văn hóa, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng đều nằm ở vai trò của rừng,
sự tồn tại của rừng, và cách hành xử với nó, nghĩa là với cộng đồng bản
địa. Ảnh: TL
Đọc tập bút ký của
Nguyên Ngọc, thấy rõ ràng văn hóa Tây Nguyên là một nền văn hóa khác
biệt, và là một sự khác biệt cần phải, rất đáng được trân trọng, cho dẫu
đó là sự khác biệt của một thiểu số. Có thể nói, Nguyên Ngọc đã trầm
mình vào nó, quan sát, cảm nhận, đánh giá nó với tư cách của một người
bên trong chứ không phải một người ở bên ngoài hay ở bên trên. Bởi thế,
dễ hiểu tại sao ông đã viết, với đầy sự tự hào về vẻ đẹp của nhà rông
Tây Nguyên, vẻ thanh nhã cao quý của già làng Tây Nguyên trong đêm kể sử
thi.
Bởi thế, dễ hiểu tại sao ông đã viết, rất
say sưa và đầy sự đồng cảm, về bản tính thích đi lang thang vô định của
người Tây Nguyên, quan niệm của họ về cái sống và cái chết, đàn ông và
đàn bà, hôn nhân và tình dục, làm và chơi, tích lũy và đem cho v.v… Phải
đắm đuối với Tây Nguyên đến thế (đắm đuối nhưng tỉnh táo!) ông mới có
thể làm được một sự liên hệ thú vị giữa lễ thổi tai với rượu cần, và
nhận ra ở đó một triết lý:
“Nhớ và quên,
ngẫm mà xem, phải chăng nói cho cùng đó là hai lẽ sinh tồn tuy hai mà
một, hai mặt chủ yếu không thể tách rời của công cuộc làm người ở đời.
Không biết nhớ thì hiển nhiên không thể là con người rồi. Song sống mà
không biết quên, không có những lúc biết quên đi đến mức “nẻ cả lỗ tai”
thì cũng chẳng thể nào sống nổi trên cõi nhân gian biết mấy khổ đau, quá
phức tạp và nhiêu khê này. Cuộc đời này, phải chăng lắm lúc cũng đáng
quên biết bao nhiêu, quên phứt đi cho rảnh, cho rồi, mà ngẫm cho cùng
cũng lại đáng sống để mà nhớ lấy biết bao nhiêu” (bài Lễ thổi tai và rượu cần, tr.314).
Đó là minh triết mà Nguyên Ngọc nhận được từ văn hóa Tây Nguyên. Minh triết của rừng.
Cảm ơn bạn Hoài Nam. Nguyên Ngọc là một biểu tượng, không chỉ của văn hóa, Xứ mình. Biểu tượng đó cho thấy Dân tộc ta quả không mù mờ. Đến mức lú lẫn, một mực tin vào hoang tưởng...
Trả lờiXóaThử hỏi, trong số các nhà xã hội học, tâm lý học và văn hóa học của nước Việt, đã có ai phát hiện ra những điều mà Nguyên Ngọc phát hiện về Tây Nguyên?
Trả lờiXóaCảm ơn tác giả Hoài Nam!
Cảm ơn anh Nguyên Ngọc!” (Hoàng Xuân Phú)