thời Việt Nam Cộng Hòa
Trần Văn Chánh
27/10/2014
B. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TRUNG HỌC
I. CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC
1. Chương
trình Trung học Hoàng Xuân Hãn 1945
a.
Tổng quát
Đây là chương trình Trung học
đầu tiên của Việt Nam dùng chuyển ngữ
tiếng Việt được một nhóm giáo sư
dựa theo chương trình Pháp biên soạn cấp tốc
chỉ khoảng 10 ngày dưới sự chủ trì của
Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân
Hãn trong thời Chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù
vậy, chương trình này đã được áp
dụng trên toàn quốc (gồm cả vùng quốc gia và vùng
kháng chiến) trong thời gian từ năm 1945 đến
niên khóa 1952-1953, mà tất cả những chương trình
Trung học đến sau đều căn bản mô
phỏng theo nó, lấy nó làm cơ sở để từ
đó bổ sung, sửa đổi cho thích hợp với
trình độ học sinh cũng như tình trạng
tiến triển chung của nền giáo dục và khoa
học ở mỗi thời kỳ khác nhau. Kể cả đối
với những chương trình mới nhất
được áp dụng trong thời VNCH (1955-1975), dấu
ấn và ảnh hưởng của chương trình Hoàng
Xuân Hãn vẫn còn khá sâu đậm.
Trung học chia làm 2 cấp: (1) Phổ
thông học 4 năm, gọi là Đệ nhất niên,
Đệ nhị niên, Đệ tam niên, Đệ tứ
niên. Lại chia làm 2 ban gồm: Cổ văn (A) và Kim văn
(B); (2) Chuyên khoa học 3 năm, gọi là Đệ
nhất niên, Đệ nhị niên, Đệ tam niên.
Lại chia làm 4 ban gồm: ban Khoa học A (chuyên Vạn
vật học, Hóa học,
Vật lý học), ban Khoa học
B (chuyên Toán, Lý hóa), ban Sinh ngữ C (chuyên Văn
Việt Nam, Anh, Pháp văn), ban Hán tự D (chuyên Văn
Việt Nam, Hán tự, sinh ngữ Pháp hoặc Anh).
Các môn học: Quốc văn, Hán, Toán,
Lý hóa, Vạn vật, Sinh ngữ, Triết, Kinh tế,
Sử, Địa, Vẽ, Thủ công, Nhạc, Nữ công,
Nuôi trẻ.
Do tính cách tiên phong, lịch sử và
tầm quan trọng của bộ chương trình Trung
học đầu tiên này, chúng tôi xin chép lại nguyên văn
“Thể lệ bậc Trung học” đặt ở
đầu bộ chương trình, qua đó thấy
được cách sắp xếp, phân chia của các
cấp và các ban:
THỂ LỆ BẬC TRUNG HỌC
I. Chiếu theo Dụ số 67 ngày
30.6.1945 của Việt Nam Hoàng đế [Bảo
Đại], bắt đầu học khóa 1945-1946, sẽ
bãi bỏ bậc Cao đẳng Tiểu học và bậc
Trung học tổ chức theo thể lệ ban hành từ
trước.
II. Sau bậc Tiểu học, sẽ
tổ chức một bậc Trung học (trường
học duy nhất). Bậc Trung học mới chia ra làm hai
cấp:
1) Cấp trung học phổ thông:
Gồm có bốn lớp: đệ nhất niên, đệ
nhị niên, đệ tam niên và đệ tứ niên trung
học phổ thông [tương đương với
lớp Đệ thất, Đệ lục, Đệ
ngũ, Đệ tứ hay lớp 6,7,8,9 sau này].
Mỗi
lớp có hai ban: Ban A hay là ban
Cổ văn.
Ban B hay là ban Kim văn.
Bảng
chia giờ hàng tuần và chương trình học khóa
đính theo đây.
Tốt nghiệp thi bằng trung
học phổ thông [tương đương Trung học
Đệ nhất cấp hay cấp II sau này].
2) Cấp Trung học chuyên khoa: gồm
có ba lớp: đệ nhất niên, đệ nhị niên và
đệ tam niên trung học chuyên khoa [tương
đương Trung học Đệ nhị cấp hay
cấp III sau này]. Mỗi lớp có bốn ban:
Ban
khoa học A chuyên về Vạn vật học.
Ban
khoa học B chuyên học Toán pháp và Lý Hóa học.
Ban
Sinh ngữ chuyên khoa.
Ban
Hán tự chuyên khoa.
Học sinh hai ban khoa học A và B, tùy
theo chí hướng và sức học, có quyền chọn
học chương trình Hán học hay chương trình
một sinh ngữ thứ hai.
III. Bắt đầu từ khai
giảng niên khóa 1945-46, tất cả các trường Cao
đẳng Tiểu học sẽ đổi làm
trường Trung học phổ thông, và tất cả các
trường trung học hiện tại sẽ đổi
làm trường Trung học chuyên khoa.
Riêng trong niên khóa 1945-1946, sẽ còn
giữ lại các lớp Triết học văn
chương, Triết học khoa học và Toán pháp sơ
đẳng, dành cho học sinh đã đỗ bằng Trung
học Sơ cấp.
IV. Theo nghị định số 113
ngày 3/7/1945 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Mỹ thuật, muốn vào lớp Đệ nhất trung
học phổ thông [tương đương Đệ
thất hay lớp 6 sau này] các trường công, học sinh
phải có bằng Tiểu học và không quá 14 tuổi
chẵn, kể tới ngày 31 tháng 12 dương lịch
năm xin vào.
Muốn
vào lớp Đệ nhất niên trung học chuyên khoa
[tương đương Đệ tam hay lớp 10 sau
này] các trường công, học sinh phải có bằng Trung
học phổ thông hay một bằng tương
đương (Cao đẳng tiểu học, Brevet Elémentaire,
Brevet d’enseignement primaire supérieur) và không quá 18 tuổi chẵn
kể tới ngày 31 tháng 12 dương lịch năm xin
vào.
Riêng
năm 1945, hạn tuổi thi vào hai lớp ấy gia thêm cho
là 15 tuổi và 19 tuổi.
Đối
với nữ học sinh, các hạn tuổi trên này
đều gia thêm một năm.
V. Ngày thi và số học sinh lấy vào
các lớp sẽ do Bộ Giáo dục Mỹ thuật
định. Hội đồng khảo thí gồm hiệu
trưởng trường chủ tịch và giáo sư
mỗi cấp làm giám khảo.
VI.
Các môn thi định như sau này:
1)
Thi vào Đệ nhất phổ thông [tương
đương Đệ thất hay lớp 6 sau này]:
Một
bài ám tả và câu hỏi 1
giờnhân số 2
Một
bài luận quốc văn 1
giờnhân số 3
Hai
bài toán 1 giờ 30 p nhân số 3
Không
thi vấn đáp
2)
Thi vào Đệ nhất chuyên khoa [ tương
đương Đệ tam hay lớp 10 sau này]:
Một
bài luận quốc văn chung cho 4 ban 2 giờ
nhân số 3
Một
bài toán (chung cho 2 ban khoa học A và B) 2 giờ 30 nhân số 3
Hai
bài sinh ngữ (riêng cho ban Sinh ngữ) 3 giờ nhân 2 x 2 = 4
Dịch
chữ Hán (riêng cho ban Hán tự) 2 giờ nhân số 4
Không thi vấn đáp
b. Nội dung
chương trình
Để cụ thể hóa mà không quá
rườm rà, nhằm có cơ sở thực tế so sánh
với các chương trình đến sau, chỉ xin nêu thí
dụ về chương trình môn Quốc văn và môn Luân
lý-Công dân giáo dục của lớp Đệ tứ niên A và
B cấp Trung học phổ thông [tương
đương Đệ tứ hoặc lớp 9], như
sau:
CHƯƠNG TRÌNH QUỐC VĂN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LỚP ĐỆ TỨ A VÀ B
Văn phạm: Các loại tiếng
(tiếp theo). Cách đặt câu. Các thứ mệnh
đề. Mỹ từ pháp [tức biện pháp tu từ].
Luận: Như lớp Đệ tam,
chỉ thêm những đề hơi có tính cách văn
chương.
Giảng
văn:
a) Trích Đoạn
trường tân thanh. Các tác phẩm khác bằng tiếng
Việt của Nguyễn Du. Tỳ
bà hành (bản dịch). Quốc
sử diễn ca.
b) Thơ văn sau Đoạn trường tân thanh: Lý Văn
Phức, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Đình Chiểu
(trừ Lục Vân Tiên). Tôn Thọ
Tường, Phan Văn Trị, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn
Công Trứ; Dương Khuê, Vũ Phạm Hàm, thơ văn
cận đại và hiện đại.
CHÚ:
Nhân giảng văn sẽ cho học trò
biết ít điều đại cương về văn
học sử từ đầu thế kỷ thứ XIX
đến nay cùng những điều thường
thức về các thể thơ: thơ cổ phong, hát nói,
phú, thơ mới.
c)
Văn xuôi, trích ở các tác giả, hiện tại.
CHƯƠNG TRÌNH LUÂN LÝ VÀ CÔNG DÂN
GIÁO DỤC
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LỚP ĐỆ TỨ
Luân
lý: Giá trị tinh thần.
Chọn
nghề nghiệp theo khuynh hướng. Luân lý về
chức nghiệp.
Cổ tục xấu và cổ tục
tốt.- Bảo thủ và tiến bộ.- Tinh thần
kỷ luật.- Tinh thần đoàn kết.- Tinh thần hy
sinh.
Những
tư cách phải có của người đứng chỉ
huy.
Chức
vụ thanh niên trong nước.- Chức vụ anh tài trong
nước.
Cần
phải có một lý tưởng hoạt động.
Công
dân giáo dục: Kinh tế học lược giảng.
Sản
xuất tài sản.- Lưu thông tài sản.- Phân phối và
tiêu thụ tài sản.
Địa
vị nước Việt Nam ở Đại Đông Á và
trong hoàn cầu.- Bổn phận và quyền lợi
đối với vạn quốc.- Cách dung hòa lòng yêu nhân
loại với lòng yêu nước.- Bình luận về trạng
thái hiện thời của nước Việt Nam.- Lòng tin
tuyệt đối ở tương lai nước ta.
2. Chương
trình Trung học 1949
a. Tổng quát
Ban hành theo Nghị định
9-NĐ/GD ngày 5/9/1949 và áp dụng từ năm học
1949-1950, dưới thời Quốc gia Việt Nam với
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy
Quát.
Trung học chia làm 2 cấp: (1) Phổ
thông học 4 năm, gọi là lớp Đệ thất,
Đệ lục, Đệ ngũ, Đệ tứ
(tương đương với lớp 6,7,8,9 bây
giờ). Chia làm 2 ban: ban A Cổ điển và ban B Sinh
ngữ; (2) Chuyên khoa học 3 năm, gọi là Đệ
tam, Đệ nhị, Đệ nhất (tương
đương lớp 10, 11, 12 bây giờ). Chia làm 3 ban: Khoa
học, Sinh ngữ, Cổ điển.
Các môn học: Quốc văn, Hán
học, Luân lý và Công dân giáo dục, Toán học, Lý Hóa
học, Vạn vật học, Pháp ngữ, Anh ngữ,
Triết học, Sử học, Địa dư, Vẽ,
Thủ công, Âm nhạc, Dưỡng nhi, Gia chánh, May.
Phát huy thêm một bước từ
chương trình Hoàng Xuân Hãn, có thể coi đây là lần
cải cách chương trình quy mô và có tính bước
ngoặt, phản ảnh tinh thần và phương pháp
của nền giáo dục mới trong giai đoạn
đầu du nhập Việt Nam. Những bộ
chương trình trung học về sau của VNCH đã
được biên soạn chủ yếu dựa theo
chương trình này, cả về nội dung lẫn câu
chữ, rồi thêm hoặc bớt một số chi
tiết cho phù hợp. Dưới đây là nguyên văn
“Mấy lời nói đầu” rất tâm huyết của
Bộ trưởng Giáo dục Phan Huy Quát:
MẤY LỜI NÓI
ĐẦU
Kể từ niên học
1949-1950, một chương
trình giáo dục mới bậc Trung học sẽ
được áp dụng trong toàn quốc.
Tiểu ban nghiên cứu
chương trình giáo dục mà tôi hân hạnh lãnh trách
nhiệm điều khiển trong khi tiến hành công
cuộc đã chú trọng đến tinh thần
người công dân Việt Nam mới, không hẳn sao
nhãng những yếu tố
thực hiện trong giai đoạn hiện tại.
Dựa vào kinh nghiệm trong
mấy năm vừa qua, cùng kết quả những công
trình các nhà học giả hằng lưu tâm với vấn
đề giáo dục.
Chương trình mới lấy
hai nguyên tắc sau đây làm chuẩn đích:
- Gây dựng một tinh thần quốc
gia mạnh mẽ và sáng suốt.
- Xúc tiến một nền giáo dục
hợp với trình độ khoa học hiện đại.
Phương pháp áp dụng trong
các học đường sẽ là phương pháp
thực nghiệm mục đích để cụ thể
hóa cùng hợp lý hóa các bài học.
Nếu chương trình bậc
Tiểu học có tính cách phổ thông để đạt
tới nền học vấn đại chúng cưỡng
bách, thời chương trình bậc Trung học phải
sửa soạn thanh niên Việt Nam cho đủ kiến
thức theo các ngành học chuyên môn.
Bậc Trung học định
7 năm, sau thời gian đó, học sinh thi Tú tài.
Tuy chương trình
được xếp đặt điều hòa trong
thời gian đó, nhưng ngay trong bốn niên đầu
(từ Đệ thất niên đến Đệ tứ niên)
[Đệ thất đến Đệ tứ, tức
lớp 6 đến lớp 9 sau này], đã dạy cho học sinh những
điều căn bản thường thức thiết
yếu để một mặt có đủ học
lực theo bậc Trung học đến cùng, một
mặt giúp các học sinh luống tuổi sau 4 niên học
có thể tìm việc làm hoặc theo học những
trường chuyên nghiệp.
Vì mục đích đó, vả
lại cũng muốn tránh nạn khoa cử có khi làm kìm hãm
năng lực học sinh được phát triển, nên
sau 4 niên học đầu đó, sẽ chỉ mở
kỳ thi cốt để kiểm điểm lại
kết quả 4 niên học. Những học sinh đỗ
trong thời kỳ này sẽ được Bộ Quốc
gia Giáo dục cấp cho một chứng chỉ nhận
đã học qua 4 năm.
Từ Đệ tam niên trở
lên đến Đệ nhất niên [Đệ tam
đến Đệ nhất, tức từ lớp 10
đến lớp 12 sau này], chương trình chú ý
đến việc đặt nền móng những ngành
đại học chuyên môn. Học sinh theo học những
ban chuyên khoa và sau ba niên học sẽ thi lấy bằng
Trung học tốt nghiệp tức là Tú tài Việt Nam.
Bằng này chia làm hai phần, phần thứ nhất thì vào
cuối đệ nhị niên, phần thứ hai thì vào
cuối Đệ nhất niên.
Để điều hoà
chương trình cùng trau dồi khả năng và sở
trường học sinh Việt Nam, sẽ thiết lập
những ban chuyên môn ngay từ Đệ thất niên.
Trong 4 năm đầu (từ
đệ nhất niên đến đệ tứ niên)
sẽ chỉ có 2 ban, ban A tức cổ điển, ban B
tức sinh ngữ. Theo danh hiệu, hai ban chỉ khác nhau
ở chỗ ban A thời chú trọng đến văn
chương cổ điển nước nhà và Hán học,
còn ban B thì cho học sinh tập học ngay những sinh
ngữ chính hiện tại. Còn về các môn khác, cả 2 ban
đó vẫn giữ nguyên tính cách phổ thông như nhau.
Từ Đệ tam đến
Đệ nhất niên, nguyên tắc chuyên khoa cần
phải duy trì, nên chương trình có quy định 3 ban:
ban khoa học, ban sinh ngữ và cổ điển.
Những nguyên tắc, cùng
phương pháp và thể thức nói trên sẽ
được áp dụng một cách hợp lý, trong tất
cả các môn học, tuỳ theo từng lớp, từng
ban. Theo niên độ từ lớp dưới lên lớp
trên, giữa các ban, chương trình mới sẽ giới
hạn một... [mất
mấy chữ].
Vấn đề chuyển
ngữ đã được giải quyết: ở
bậc Trung học cũng như ở mọi bậc
học khác, tiếng Việt Nam phải là chuyển ngữ.
Riêng ở bậc Trung học,
học sinh sẽ có dịp trau dồi cặn kẽ
tiếng mẹ đẻ trong những giờ giảng
văn. Những áng văn chương tuyệt tác cùng các
văn gia, thi gia trứ danh sẽ được giảng
tường tận qua sự phân tách những khuynh
hướng trong lịch sử văn chương
nước nhà.
Ngoài Quốc văn làm chuyển
ngữ, Pháp văn được chọn làm sinh ngữ
chính sẽ bắt đầu dạy ở lớp
Đệ thất niên [lớp 6] ban Trung học.
Về môn này, lối học
thụ động áp dụng từ xưa phải bỏ
đi, để nhường chỗ cho phương pháp
hoạt động. Những bài văn phạm sẽ
đi đôi với bài ngữ vựng hoặc giảng
văn, như vậy sẽ thêm phần linh hoạt và không
mất nhiều thời giờ.
Bên cạnh Pháp ngữ, còn có Anh
ngữ, một thứ tiếng phổ thông nhất trên
thế giới, tiếng này sẽ cũng được
dạy ngay từ Đệ thất niên.
Về việc dạy ngoại
ngữ, môn âm ngữ học [ngữ âm học] sẽ
được đặc biệt chú ý.
Cũng về phần văn
chương, chương trình mới duy trì giá trị Hán
tự, nên lập ra ban cổ điển. Bài học
chữ Hán sẽ không còn là bài học khô khan, trái lại
sẽ hòa hợp với những
bài giảng Việt văn. Ban cổ điển cũng
như ban sinh ngữ, sẽ đào tạo sau này những
sinh viên theo học văn chương trong đại
học đường Việt Nam.
Toán học cùng môn Vật lý hóa, Vạn
vật học trong chương trình mới phải là
phản ánh những sự tiến triển mới mẻ
nhất của khoa học hiện đại. Phần lý
thuyết sẽ thu hẹp lại trong khuôn khổ những
nguyên tắc căn bản, phần thực hành trái lại
sẽ dồi dào để cụ thể hóa các bài học.
Vạn vật học dạy ở 4 ban từ Đệ
tam đến Đệ nhất niên, nhưng chỉ có trong
chương trình thi Tú tài phần thứ hai.
Sử ký, Địa dư
của chính nước nhà bấy lâu bị bỏ rơi
sẽ được đặt vào địa vị môn
học xứng đáng và trình bầy, giảng dạy
một cách khoa học ngoài cả những thành kiến
hủ lậu hoặc nghi sử. Tuy nhiên địa dư
cùng lịch sử các nước trên hoàn cầu cũng
được chú trọng hơn nữa.
Môn Triết dạy ở các
lớp Đệ nhất niên các ban, thứ nhất là
ở ban cổ điển. Học sinh sẽ tập suy
luận trong những buổi đàm thuyết hướng
dẫn. Hơn nữa tư tưởng các triết gia Âu
Mỹ sẽ được nghiên cứu bên cạnh các
học thuyết Á Đông.
Ngoài các môn học chính kể
trên, chương trình Trung học mới còn chú ý đến
phần đức dục và thể dục học sinh. Luân
lý và Công dân giáo dục trong bốn năm đầu dạy
cho học sinh, qua những bài học thực tế,
bổn phận làm người, làm công dân trong một
nước.
Bài học thể dục từ
nay sẽ được bồi bổ thêm bằng
những buổi tập võ bị.
Tóm lại, đại
cương chương trình giáo dục bậc Trung học
mới dựa trên quan niệm tổ chức một
nền giáo dục quốc gia trong một nước
độc lập.
Về phương diện cá
nhân học sinh, nguyên tắc tổng hợp được
áp dụng, vừa để các khả năng học sinh
tự do nẩy nở, vừa chỉ huy những môn
học thiết yếu cần trau dồi.
Về phương diện giá
trị tổng quát, chương trình mới này sẽ
phối hợp được những sự tiến
triển mới mẻ với những đặc
điểm văn hóa thuần túy Việt Nam. Như vậy
đối chiếu với văn bằng ngoại
quốc, thứ nhất là bằng Tú tài Pháp, giá trị
chắc chắn của văn bằng Việt Nam sẽ là
đảm bảo cho các sinh viên Việt Nam tòng học
bất cứ ở trường đại học nào, trong
nước hoặc ở ngoại quốc.
Sau cùng, Bộ Quốc gia Giáo
dục thấy cần phải nói rõ thêm về việc thi
hành chương trình mới, vì với thời gian thi hành,
mới thấy rõ thêm các đặc điểm cùng
khuyết điểm.Tôi rất mong các giáo sư, lâu dần
với kinh nghiệm thu lượm trong khi dạy học,
sẽ vạch rõ quan niệm riêng, để đính chính
những chỗ sai, thừa hoặc thiếu, như
vậy chương trình sẽ thêm phần hoàn hảo.
Hà
Nội, ngày 30 tháng 8 năm 1949
Bộ
trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
PHAN HUY QUÁT
b. Nội
dung chương trình
Trích thí dụ chương trình Quốc
văn và Luân lý-Công dân giáo dục lớp Đệ tứ
(tương đương lớp 9 bây giờ):
CHƯƠNG TRÌNH QUỐC VĂN
Nguyên tắc.- Học trò vào cấp Trung
học đã biết đủ những tiếng
thường dùng để biểu diễn các tư
tưởng thiển cận quan hệ đến
đời sống hàng ngày và những môn khoa học
thường thức. Vậy chỉ nên chú trọng
đến những danh từ do chữ Hán mà ra và những
danh từ khoa học thông dụng.
a) Những danh từ ấy cần
định nghĩa cho rõ và nếu có thể
được nên viết cả nguyên chữ Nho cho
những chữ phiên âm để khỏi ngộ nhận
những chữ đồng âm.
b) Nên chú trọng đến cách
viết những chữ âm gần giống nhau (như s, x,
ch, tr, v.v…).
c) Nhiều chữ kép gồm một
chữ Nho với một tiếng Việt ghép vào với
nhau mà cả hai chữ cũng cùng một nghĩa (như
sinh sống, tu sửa, bàn luận v.v…). Nên sửa bỏ
những chữ điệp ý ấy đi.
d) Nên dùng những bài giảng văn
để dạy ngữ vựng. Đồng thời
dạy học trò quan sát sự vật, đặt câu
với những chữ học trong bài ngữ vựng.
Đệ tứ niên A và B
Ngữ vựng.- Danh từ về luân
lý, công dân giáo dục, triết học và kinh tế học
(chỉ dạy những tiếng phổ thông).
Tập
văn.- Như lớp Đệ ngũ, chỉ thêm
những đề hơi có tính cách văn chương.
Giảng
văn:
a)
Trích Đoạn trường
tân thanh, Tỳ bà hành
(bản dịch), Quốc
sử diễn ca.
b) Thơ văn sau Đoạn trường tân thanh: Cao Bá Quát,
Nguyễn Đình Chiểu (trừ Lục Vân Tiên). Tôn Thọ Tường, Phan Văn
Trị, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Dương
Khuê, thơ văn cận đại và hiện đại.
CHÚ:
Nhân giảng văn, sẽ cho học
trò biết ít điều đại cương về
văn học sử từ đầu thế kỷ
thứ XIX đến nay cùng những điều thường
thức về các thể: thơ cổ phong, hát nói, phú,
thơ mới.
c)
Văn xuôi trích ở các tác giả hiện đại.
CHƯƠNG TRÌNH LUÂN LÝ VÀ CÔNG DÂN
GIÁO DỤC
Đệ tứ niên
Luân
lý.- 1) Lương tâm. Quan niệm về trách nhiệm, lý trí
và lương tâm.
2)
Các môn phái về luân lý. Luân lý hòa hợp với nhân loại.
3)
Anh hùng. Lý tưởng của người quân tử.
4)
Bình luận vài đoạn trích ở Tứ thư và Cổ
học tinh hoa.
Công dân giáo dục.- Kinh tế học
lược giảng. Nói qua về kinh tế tự do,
chỉ huy. Sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu
thụ tài sản.
Chú ý.- Trong các bài luân lý nên chọn
những câu phương ngôn, ngạn ngữ, cách ngôn, châm
ngôn của Á Đông và của Âu Tây có liên quan đến bài
dạy mà cho học trò học thuộc lòng.
3. Chương
trình Trung học 1958-1959
a.
Tổng quát
Được ban hành theo Nghị
định số 1286-GD/NĐ ngày 12/8/1958, dưới
thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Trần
Hữu Thế, ấn định kể từ niên học
1958-1959 chương trình Trung học trên toàn cõi Việt Nam
(tức toàn cõi miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ).
Đây là bộ chương trình được áp dụng
xuyên suốt thời kỳ VNCH, mà những chương
trình cập nhật hóa đến sau đều căn
cứ vào với sự thay đổi chút ít ở một
vài chi tiết nhỏ không đáng kể.
Học
trình gồm 4 năm Trung học Đệ nhất
cấp (Đệ thất,
Đệ lục, Đệ ngũ, Đệ tứ,
tương đương các lớp 6,7,8,
9) và 3 năm Trung học Đệ nhị cấp (Đệ tam, Đệ nhị,
Đệ nhất, tương đương các lớp 10, 11,12).
Các môn học: Quốc văn, Hán
tự, Sử địa, Công dân giáo dục, Sinh ngữ,
Vạn vật, Lý hóa, Toán, Triết học (chỉ có ở lớp
Đệ nhất), Vẽ, Âm nhạc, Thể dục,
Thủ công (dành cho nam sinh), Nữ công Gia chánh Dưỡng
nhi (dành cho nữ sinh).
Tuy cũng chỉ cải biên từ
những chương trình đã có trước, bộ
chương trình Trung học mới này đã tỏ ra có
nhiều điểm tiến bộ, được biên
soạn có quy củ và công phu hơn. Vì vậy, bởi
tầm quan trọng của nó, để làm tài liệu tham
khảo cho nền giáo dục miền Nam trước 1975,
dưới đây xin chép lại nguyên văn bài “Nguyên
tắc cải tổ Chương trình Trung học”
đặt ở đầu sách Chương
trình Trung học do Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn
xuất bản năm 1960:
NGUYÊN TẮC CẢI
TỔ CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC
I.
Nguyên
tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam
(Lược bỏ bớt,
vì chỉ nhắc lại y như Chương trình Tiểu
học 1959-1960 đã giới thiệu ở phần trên)
II.
Nguyên
tắc đại cương cho việc soạn thảo
chương trình Trung học
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản
của nền giáo dục Việt Nam đã được ấn
định, bậc Trung học có mục đích:
-
Hun đúc tâm hồn và tính khí,
-
Mở mang kiến thức phổ
thông,
-
Rèn luyện phương pháp
suy tưởng và hành động, để chuẩn bị
học sinh có đủ khả năng ra đời hay chuyển
sang và các ngành Kỹ thuật chuyên nghiệp hoặc tiến
lên bậc Đại học.
Do đó, chương trình Trung học:
-
Chú trọng đào tạo con
người quân bình về hai phương diện cá biệt
và cộng đồng.
-
Vừa phải thích ứng với
những hoàn cảnh thực tế hiện tại, vừa
có tính cách trường cửu.
-
Cần được giản
dị hóa, tránh lối nhồi sọ, nhưng vẫn cố
gắng đưa mỗi vấn đề học tập
đến chỗ chính xác tinh tường.
III.
Những
tương quan giữa Trung học và Đại học
a) Tương quan về tổng quát:
Để cho có sự nối tiếp hợp
lý giữa các cấp bậc học đường,
chương trình giáo dục ở Trung học cũng
như ở Đại học cần phải sửa đổi
lại cho phù hợp với những nguyên tắc căn bản
của nền giáo dục Việt Nam mà Hội nghị
đã ấn định trong bản quyết nghị đầu
tiên:
b) Tương quan về Sinh ngữ:
1) Sinh ngữ ở bậc Trung học:
-Đệ nhất cấp: chỉ học
một sinh ngữ.
-Đệ nhị cấp: học hai
sinh ngữ (một sinh ngữ chính và một sinh ngữ phụ).
2) Chuyển ngữ ở bậc
Đại học:
(a) Sẽ tiến tới việc dùng tiếng
Việt làm chuyển ngữ ở bậc Đại học,
nhưng việc này phải được chuẩn bị
ngay từ bây giờ bằng:
-
Việc đào tạo giáo
sư đại học.
-
Việc thống nhất danh từ.
-
Việc biên soạn và dịch
thuật các sách.
(b) Mặc dù chuyển ngữ ở
đại học là tiếng Việt, sinh viên cũng cần
phải thành thạo một sinh ngữ và biết qua một
sinh ngữ khác.
IV.
Chia bậc và chia Ban
Ở Đệ
nhất cấp: không chia thành ban.
Ở Đệ
nhị cấp từ lớp Đệ tam lên đến tới
Đệ nhất chia làm 4 ban:
-Văn
chương sinh ngữ,
-
Văn chương cổ ngữ,
- Khoa học Toán,
-Khoa học Thực
nghiệm.
V. Thời hạn học tập
ở bậc Trung học
- Đệ nhất
cấp: 4 năm.
- Đệ nhị
cấp : 3 năm.
VI. Các môn
học, số giờ của mỗi môn, của mỗi ban
1. Trung học Đệ nhất cấp:
BẢNG PHÂN PHỐI
GIỜ CHO MỖI MÔN Ở BẬC TRUNG HỌC ĐỆ I
CẤP
MÔN
HỌC
|
Lớp
Đệ thất
|
Lớp
Đệ lục
|
Lớp
Đệ ngũ
|
Lớp
Đệ tứ
|
1. Quốc
văn và Hán tự ………………………. 2. Sử địa …………………………………….. 3. Công dân giáo dục (lý thuyết và thực hành) ……………………………………………….. 4. Sinh ngữ ………………………………….. 5. Vạn vật …………………………………… 6. Lý hóa …………………………………… 7. Toán ………………………………………
Cộng ………………..
|
5
+ 1
2
2
6
1
2
3
|
5
+ 1
2
2
6
1
2
3
|
5
+ 1
2
2
5
2
2
1/2
3
1/2
|
5
+ 1
2
2
5
2
2
1/2
3
1/2
|
22
|
22
|
23
|
23
|
|
Vẽ …………………………………………... Âm nhạc ……………………………………. Thể dục ……………………………………... Thủ công (Nam) ……………………………. Nữ công Gia chánh Dưỡng nhi (Nữ) ………… Tổng cộng ………….. |
1
1
3
1
1
|
1
1
3
1
1
|
1
1
3
1
1
|
1
1
3
1
1
|
28
|
28
|
29
|
29
|
2. Trung học Đệ nhị cấp
BẢNG PHÂN PHỐI
GIỜ DẠY Ở CÁC MÔN HỌC CHO BẬC TRUNG HỌC
ĐỆ II CẤP
BAN
|
VĂN CHƯƠNG SINH NGỮ
|
VĂN CHƯƠNG CỔ NGỮ
|
KHOA HỌC TOÁN
|
KHOA HỌC THỰC NGHIỆM
|
||||||||
Môn học
|
III
|
II
|
I
|
III
|
II
|
I
|
III
|
II
|
I
|
III
|
II
|
I
|
1. Quốc văn …………………... 2. Sử địa ……………………….
3.
Công dân giáo dục (lý thuyết và thực hành) ………………….
4. Triết học ……………………5. Sinh ngữ 1 …………………. 6. Sinh ngữ 2 …………………. 7. Cổ ngữ (Hán văn hoặc Latin) 8. Lý hóa ……………………… 9. Toán ………………………… 10. Vạn vật …………………… Cộng ………….. Thể dục (1) ………………... Nam học sinh ……………... Nữ học sinh ……………….. Nữ công gia chánh dưỡng nhi Tổng cộng …….. |
5
2
2
0
6
6
0
1
1
1
|
5
2
2
0
6
6
0
1
1
1
|
0
2
1
9
6
6
0
1
1
1
|
5
2
2
0
6
0
6
1
1
1
|
5
2
2
0
6
0
6
1
1
1
|
0
2
1
9
6
0
6
1
1
1
|
3
2
2
0
4
4
0
4
6
1
|
3
2
2
0
4
4
0
4
6
1
|
0
2
1
3
3
3
0
6
8
1
|
3
2
2
0
4
4
0
4
4
3
|
3
2
2
0
4
4
0
4
4
3
|
0
2
1
4
3
3
0
6
4
4
|
24
|
24
|
27
|
24
|
24
|
27
|
26
|
26
|
27
|
26
|
26
|
27
|
|
3
3
1
|
3
3
1
|
3
3
0
|
3
3
1
|
3
3
1
|
3
3
0
|
3
3
1
|
3
3
1
|
3
3
0
|
3
3
1
|
3
3
1
|
3
3
0
|
|
27
và 28
|
27
và 28
|
30
|
27
và 28
|
27
và 28
|
30
|
29
và 30
|
29
và 30
|
30
|
29
và 30
|
29
và 30
|
30
|
(1)
Khi
có đủ phương tiện và huấn luyện viên,
số giờ thể dục có thể tăng lên tới 6
giờ mỗi tuần.
b.
Nội dung chương trình
CHƯƠNG
TRÌNH QUỐC VĂN
Phần Việt
văn
A. Giảng
văn và Văn học sử
(Lược bớt, không
trích phần B. Chính tả và Văn phạm, và C. Bài tập
Quốc văn)
Mục
đích: Mục đích của môn Giảng
văn là làm cho học sinh thấu hiểu giá trị về
hình thức và nội dung của một tác phẩm hay một
đoạn văn, để nhờ đó hun đúc tính khí
và tâm hồn, mở mang kiến
thức về văn học và thâu thái những điều
bổ ích cho việc luyện văn.
1.
Phần Kim văn: Hình thức và nội dung
của những bài Giảng văn phải phù hợp với
chương trình Luận văn đương được
giảng dạy: chẳng hạn, dạy những bài Giảng
văn có tính cách miêu tả trong giai đoạn dạy Luận
văn về loại miêu tả, có tính cách thuật sự
trong giai đoạn dạy Luận văn về loại
thuật sự, v.v…
Phải lựa những bài văn có giá
trị để rồi bắt học sinh học thuộc
lòng hầu luyện ký ức và văn khiếu.
2.
Phần Cổ văn: Phải chọn
những đoạn rất tiêu biểu, nhiều hay ít, dài
hay ngắn tùy theo lớp và cấp học. (Về điểm
này, bộ sẽ có những chỉ thị rõ ràng để
ấn định nên trích những đoạn nào trong một
tác phẩm, giảng những bài nào của một tác giả).
3.
Việc đọc sách: Giáo sư phải
hướng dẫn học sinh đọc sách. Học sinh
phải có vở riêng để ghi chép những đoạn
văn hay, tóm lược cuốn sách đã đọc. Mỗi
tháng nên kiểm soát vở đó một lần để
theo dõi sự tự học của học sinh, khuyến
khích sự đọc sách cho thành một sự ham mê để
khi ra đời học sinh nhờ đó mà luôn tiếp tục
việc học hỏi.
ĐỆ THẤT
I.- Văn xuôi hiện kim:
Mỗi tuần 2 giờ
Bài chọn trong tác phẩm của nhà
văn hiện kim, phù hợp với chương trình Luận
văn.
II.- Văn vần và truyện cổ:
Mỗi tuần 1 giờ
Trích giảng
a) Văn vần: Tục ngữ,
ca dao, vè; Lục súc tranh công;
Nhị thập tứ hiếu.
b) Truyện cổ: của Nguyễn
Văn Ngọc, Phan Kế Bính (Nam
Hải dị nhân, Hưng
Đạo Vương)
ĐỆ LỤC
I.-
Văn xuôi hiện kim: Mỗi tuần 2
giờ
Cũng như ở năm Đệ thất
nhưng chọn nhiều bài về loại thuật sự,
loại hỗn hợp (vừa miêu tả vừa thuật sự).
Lẽ tất nhiên bài dài hơn năm Đệ thất.
II.-
Văn vần và truyện cổ: Mỗi tuần
1 giờ
Trích giảng:
a) Văn vần: Gia huấn ca (Nguyễn Trãi); Bích Câu kỳ ngộ; Bà Huyện Thanh Quan.
b) Truyện cổ: Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của
III.- Văn thể: Lục bát
và biến thể.
ĐỆ
NGŨ
I.- Văn xuôi:
Mỗi tuần 2 giờ 30
1) Một
số bài về loại miêu tả, thuật sự có tính
cách tế nhị, phức tạp.
2)
Văn nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn
Bá Học, Phan Kế Bính và những bài trích trong tạp chí
văn chương, khoa học (Đông Dương tạp
chí, Nam phong tạp chí, Tri tân,Thanh nghị, Tao đàn…)
II.- Văn vần:
Mỗi tuần 1 giờ 30
Trích giảng:
Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chinh phụ ngâm, Lục
Vân Tiên, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khắc Hiếu.
III.- Văn thể:
Song thất lục bát và biến thể; thơ Đường
luật.
ĐỆ TỨ
I.- Văn xuôi:
Mỗi tuần 2 giờ
Văn
nghị luận của Phạm Quỳnh, Trần Trọng
Kim, Phan Chu Trinh.Trích các bài nghị luận trong các tạp chí
(như đã nói ở năm Đệ ngũ).
II.- Văn vần:
Mỗi tuần 1 giờ
1) Trích giảng: Cung oán ngâm khúc, Đoạn
trường tân thanh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương.
2) Một
hai bài tiêu biểu: Cao Bá Quát, Tôn Thọ Tường, Phan
Văn Trị.
Thi ca của
các nhà ái quốc: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.
III.- Văn thể:
Hát nói.
IV.- Văn học sử:
Đại cương về văn học sử Việt
Nam từ thời khởi thủy đến thời hiện
kim (5 giờ cho toàn niên khóa).
ĐỆ TAM VĂN
CHƯƠNG (Sinh ngữ và Cổ ngữ)
I.-
Văn học sử: Văn
chương truyền khẩu; - Văn nôm từ đời
Trần cho đến hết đời Nguyễn Du; - Giới
thiệu những tác phẩm Hán văn do người Việt
sáng tác tương ứng với các thời kỳ của
nền văn nôm.
II.- Văn thể:
Đối, phú, văn tế.
III.- Trích giảng:
Tục ngữ, ca dao
1) Một
hai bài tiêu biểu: Thơ Hồng Đức, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phạm Thái, Nguyễn Huy Lượng, Lê Quý Đôn.
- Đặng
Đức Siêu (Văn tế)
- Nguyễn Văn
Thành (Văn tế)
2) Trích
nhiều hơn: Chinh phụ
ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Hoa tiên truyện, Đoạn trường tân thanh.
ĐỆ
TAM KHOA HỌC (Toán và Thực nghiệm)
I.
Văn học sử: Cũng như
đệ tam Văn chương nhưng khái quát, sơ
lược hơn (với mục đích mở mang kiến
thức phổ thông và đào tạo tâm hồn nhân bản
hơn là hướng dẫn vào các ngành văn học nghệ
thuật như ở các ban văn chương).
II.
Trích giảng
1) Một hai bài tiêu biểu:
- Tục ngữ ca dao, thơ Nôm đời
Hồng Đức, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Văn tế trận
vong tướng sĩ.
2) Trích: Chinh phụ ngâm
khúc, Cung oán ngâm khúc, Đoạn trường tân thanh.
ĐỆ NHỊ
VĂN CHƯƠNG (Sinh ngữ và Cổ ngữ)
I.
Văn học sử: Từ sau Nguyễn
Du đến năm 1945.
- Giới thiệu những tác phẩm
bằng Hán văn do người Việt sáng tác trong thời
kỳ đó.
II.
Văn thể: Ôn lại Hát nói, thơ
Đường luật, Thơ mới.
III.Trích
giảng:
- Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình
Chiểu (thơ và văn tế), Nguyễn Khuyến,
Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Trần Tế
Xương, Tự tình khúc.
- Nhóm Đông
Dương tạp chí (Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế
Bính).
- Nhóm Nam phong (Phạm
Quỳnh, Nguyễn Trọng Thuật).
- Nguyễn Khắc
Hiếu (văn vần).
- Tự lực văn đoàn: Nhất
Linh (Đoạn tuyệt),
Khái Hưng (Nửa chừng xuân), Hoàng
Đạo (Mười điều
tâm niệm).
ĐỆ NHỊ
KHOA HỌC (Toán và Thực nghiệm)
I.
Văn học sử: Cũng như lớp
Đệ nhị Văn chương nhưng khái quát, sơ
lược hơn (với mục đích mở mang kiến
thức phổ thông và đào tạo tâm hồn nhân bản
hơn là hướng dẫn vào các ngành văn học nghệ
thuật như các ban văn chương).
II.
Văn thể: Thơ mới
III.
Trích giảng: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Khuyến, Trần Tế Xương, Nhóm Đông
Dương tạp chí (Nguyễn Văn Vĩnh), Nhóm Nam phong
(Phạm Quỳnh), Nguyễn Khắc Hiếu (văn vần),
Tự lực văn đoàn: Nhất Linh (Đoạn tuyệt), Khái Hưng (Nửa chừng xuân), Hoàng Đạo (Mười điều tâm niệm).
CHƯƠNG TRÌNH CÔNG DÂN
GIÁO DỤC
HUẤN THỊ
VỀ CÁCH GIẢNG DẠY
MÔN CÔNG DÂN GIÁO DỤC
Môn Công dân giáo dục có mục đích
làm cho học sinh:
- Nhận
định được chân giá trị của con người
cùng địa vị và bổn phận con người trong
gia đình, giữa xã hội;
- Thấu
triệt quyền lợi cùng bổn phận người
công dân trong một quốc gia dân chủ và độc lập.
Trong
chương trình này, Đức dục và Công dân giáo dục
bổ túc lẫn nhau, dùng học đường để
chuẩn bị học sinh bước vào đời sống
xã hội và quốc gia, đào luyện một “con người”
đầy đủ đức tính đồng thời
cũng là một “công dân” xứng đáng.
Trong phương pháp giảng dạy,
lý thuyết sẽ đi đôi với thực hành. Về mỗi
vấn đề đem ra giảng dạy có hai phần:
- Phần lý thuyết gồm một bài
học ngắn, giản dị, dùng ít danh từ trừu
tượng, và một bài học thích ứng trích trong
văn chương, sử ký;
- Phần
thực nghiệm một bài vấn đáp cốt làm sáng tỏ
ý nghĩa bài học hoặc giải thích những điểm
phụ thuộc vào bài học và một hoạt động
để thực hành những điều giảng dạy.
Từ Đệ thất đến
Đệ nhị, giờ Hiệu đoàn [Sinh hoạt học
đường] sẽ dành riêng cho hoạt động thực
hành này. Tại lớp Đệ nhất, không còn một giờ
lý thuyết về môn Công dân giáo dục, giờ Hiệu
đoàn sẽ dùng để thực hành và nhắc lại
những điều đã học trong những năm
trước.
Sự giảng dạy phải có tính
cách thực tế và linh động làm cho học sinh hiểu
những điều học tập. Giáo sư cần phải
nêu rõ lý do của những bổn phận hoặc quy tắc,
tránh cách học nhồi sọ. Trong khi diễn giảng,
giáo sư có thể dùng tranh ảnh, đĩa thâu thanh hoặc
các phương tiện khác. Giáo sư sẽ lấy thí dụ
trong thời sự, đời sống hàng ngày và những sự
kiện lịch sử hiện đại Việt Nam. Học sinh không được
thụ động: bài vấn đáp rất quan trọng
giúp cho học sinh suy nghĩ, đặt câu hỏi diễn
tả và trao đổi ý kiến. Hoạt động thực
hành dưới sự điều khiển của giáo
sư, có thể dùng phương pháp diễn kịch, du học
thực hành, điều tra, phỏng vấn, thuyết
trình, bích báo, tham gia các tuần lễ xã hội do chánh phủ
tổ chức (tuần lễ giao thông vệ sinh…).
CHƯƠNG
TRÌNH CÔNG DÂN GIÁO DỤC
(Từ Đệ
thất đến Đệ nhị: 2 giờ mỗi tuần)
ĐỆ THẤT
Nhân bản:
Thể xác và tinh thần- Con người
và ngoại vật- Bổn phận không phung phí vật phẩm,
không hành hạ súc vật.
Bổn phận đối với bản
thân: Thân thể-Tình cảm- Ý chí-Trí tuệ. Trau dồi nhân
cách và đề cao tinh thần tự trọng.
Đời sống
trong gia đình:
- Tổ tiên, cha mẹ; anh em, thân thuộc
(họ nội, họ ngoại), gia nhân.
- Tri ân tổ tiên, gia đạo, hiếu
đễ, tương thân, tương ái.
Đời sống
tại học đường:
- Bổn phận đi học, học
nghề - Bổn phận đối với thầy học
(kính trọng, vâng lời, tri ân).
- Cách đối xử với bạn học-
(sự ganh đua, nghĩa đoàn thể, tính khiêm nhượng,
lòng tôn trọng lẫn nhau).
- Kỷ luật học đường-
(chuyên cần, tôn trọng kỷ luật, danh dự học
đường, giữ gìn vật dụng học
đường).
- Tư cách học sinh (y phục, cách
ăn nói, danh dự và giá trị cá nhân).
ĐỆ LỤC
Đời sống
trong xã hội:
Liên hệ giữa cá nhân và xã hội-nhân
loại-hoạt động và công trình liên đới của
các thế hệ đã qua, hiện tại và tương
lai.
Chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, tập
quán, tục lệ.
Các đoàn thể nhân quần: xóm giềng,
làng xã, quốc gia, quốc tế - ái hữu, hiệp hội,
hợp tác xã, nghiệp đoàn.
Bổn phận
đối với xã hội:
- Kỷ luật trong đoàn thể và
luật pháp trong xã hội, công lý và bác ái.
- Bổn phận cần lao, đời
sống người cần lao, bổn phận góp sức
vào sự tiến triển của nhân loại.
- Yêu chuộng hòa bình (những đức
tính cần thiết).
Xã giao:
Phép lịch sự và kỷ luật xã hội:
phục sức, chào hỏi, giới thiệu, tiếp khách;
cử chỉ tại những nơi công cộng: ngoài
đường, rạp hát, tiệm ăn…
ĐỆ
NGŨ
Tổ chức
công quyền Việt Nam:
Hiến pháp và luật lệ (căn bản
của tổ chức công quyền).
Quốc kỳ, quốc ca.
Tổng thống; Quốc hội; Các bộ,
các công sở, các tòa án; Các địa phận hành chánh: làng,
tổng, quận, tỉnh, thành phố, thủ đô.
ĐỆ TỨ
Quốc gia:
Yếu tố cấu thành quốc gia:
lãnh thổ, dân tộc, chính quyền.
Quốc gia độc lập, giao dịch
quốc tế: tình thân hữu và chính sách không bài ngoại.
Chính quyền trong quốc gia: hiến
pháp (thành lập, sửa đổi).
Sơ lược về các chính thể:
quân chủ, dân chủ, độc tài, cộng hòa.
Quyền lợi
và nhiệm vụ của công dân:
Các đảm bảo về bản
thân (an ninh cá nhân, tôn trọng
đời tư và danh dự cá nhân, quyền làm việc),
các tự do tư tưởng (tín ngưỡng, ngôn luận,
hội họp, vãng lai, cư trú, hành nghiệp, tham chính), các
quyền kinh tế và xã hội (quyền tư hữu, tiết
kiệm, kinh doanh, các an ninh xã hội) - lòng ái quốc, bổn
phận tôn trọng và bảo vệ hiến pháp, tinh thần
trọng luật, bổn phận đóng thuế, quân dịch.-
Nhấn mạnh về quyền và bổn phận bầu cử.
Ghi
chú:
Về chương trình Đệ ngũ và Đệ tứ,
giáo sư sẽ lấy thí dụ cụ thể trong những
thực hiện của Chánh phủ Việt Nam để củng
cố nền độc lập và chính thể Cộng hòa.
ĐỆ
TAM
Khái lược
về chính trị:
- Chế độ dân chủ: nguồn
gốc, tiến triển.
- Nguyên tắc phân quyền.
- Hình thức tổ chức chính quyền:
Tổng thống chế, Đại nghị chế và Quốc
hội chế.
- Tổ chức quốc tế : Liên Hiệp
Quốc và thí dụ về vài cơ quan Quốc tế
(cơ quan Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Quốc tế
(U.N.E.S.C.O.), cơ quan Lao động Quốc tế ( B.I.T.),
cơ quan Y tế Quốc tế (O.M.S.)
Giao tế và
sinh hoạt xã hội: nơi công cộng-
lễ gia đình (lễ cưới, tang lễ…) - hội họp,
tiệc tùng.
Hiệp hội
có tính cách xã hội: nghiệp đoàn, hội
ái hữu, đoàn thể văn hóa…
ĐỆ NHỊ
Khái lược
về kinh tế:
- Chủ nghĩa kinh tế, chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, kinh tế
tự do, kinh tế chỉ huy.
- Yếu tố sản xuất: vốn,
nhân công, kỹ thuật, tài nguyên, thiên nhiên.
- Cơ quan sản xuất và mậu dịch:
xí nghiệp tư và công, công nghiệp và nông nghiệp, hợp
tác xã.
- Tiền tệ: tiền vàng và tiền
giấy.
- Ngân hàng và tín dụng.
- Mậu dịch và quốc tế.
CHƯƠNG
TRÌNH TRIẾT HỌC
ĐỆ NHẤT
Ban
Văn chương: Sinh ngữ, Cổ ngữ
(Mỗi tuần
lễ 9 giờ)
I.
Tâm lý học
Đối tượng Tâm lý học -
Tính cách các hiện tượng tâm lý. Những tương
quan giữa hiện tượng tâm lý và hiện tượng
sinh lý. Quan điểm nội quan và quan điểm ngoại
quan.
Tri giác. Cảm giác và hình ảnh.
Liên tưởng. Ký ức. Trí tưởng
tượng. Chú ý.
Trừu tượng và khái quát. Công dụng của ký hiệu. Ngôn ngữ
và tư tưởng.
Phán đoán và suy luận.
Cảm giác và hoạt động. Khuynh
hướng và cử động.
Khoái lạc và đau khổ tinh thần
và vật chất. Cảm xúc. Đam mê.
Bản năng.Tập quán. Ý chí. Tình
hình.
Ý thức.Vô ý thức. Nhân cách. Nhân vị.
Lý trí và tự do.
II.
Luận lý học
Những
nguyên tắc căn bản của lý trí.
Phương pháp thông thường của tư tưởng:
trực giác và suy luận.
Diễn
dịch và quy nạp, Phân tách và tổng hợp.
Khoa học
và tinh thần khoa học. Khoa học và kỹ thuật.
Toán pháp:
Đối tượng - nền tảng -
phương pháp - lý luận. Công dụng.
Khoa học
thực nghiệm: Sự kiện - giả thuyết - khám
phá và kiểm chứng định luật - nguyên lý - lý thuyết.
Một vài thí dụ về những thuyết
lớn thuộc Vật lý học, Hóa học và Sinh lý học
hiện đại.
Khoa học
nhân văn: Tâm lý học, Sử ký và Xã hội học.
III.
Đạo đức học
Vấn
đề đạo đức. Đạo đức và
khoa học.
Lương tâm: bản chất và giá trị.
Bổn
phận và quyền lợi. Trách nhiệm.
Công lý và
bác ái.
Các quan
niệm lớn của đời sống đạo đức
Đông và Tây.
Đạo
đức và đời sống cá nhân.Thân thể và tinh thần.
Nhân phẩm. Nhân vị và cộng
đồng.
Đạo đức và đời sống
gia đình: Gia đình. Vấn đề hôn nhân và vấn
đề sinh sản.
Đạo đức và kinh tế. Phân
công. Liên đới. Nghề nghiệp, vấn đề xã
hội.
Đạo
đức và chính trị. Chủ nghĩa “dân vi quý” của
Mạnh Tử. Tự do và bình đẳng. Tổ quốc, quốc gia, nhà nước
(Patrie-Nation-Etat).
Luật pháp. Quyền lợi và bổn
phận của công dân. Vấn đề dân tộc thiểu
số.
Đạo đức và giao thiệp
quốc tế.
Nhân loại. Bổn phận
đối với nhân loại.
Thuyết “nhân ái” của Khổng
Tử. Thuyết “từ bi” của Phật giáo. Thuyết
“bác ái” của Thiên Chúa giáo.
IV. Triết học tổng quát
Nhận thức luận, những
nguyên tắc căn bản của lý trí.
Vấn đề chân lý.
Triết học và khoa học.
Triết học và đạo đức.Triết học và
tôn giáo.
Không gian
và thời gian. Vật chất.
Sự sống.
Tinh thần.
Tự
do. Nhân vị và giá trị.
Thượng
đế.
V.
Triết học Đông phương
Khái quát về:
Khổng
Mạnh.
Lão Trang.
Phật
nguyên thủy.
VI.
Tác phẩm triết học
Trong số
9 giờ học, định cho mỗi tuần lễ 2 giờ
trong đệ nhị lục cá nguyệt sẽ dùng để
đọc một tác phẩm triết học Tây
phương và một tác phẩm Đông phương, tùy ý
lựa chọn trong bảng sau đây:
Hai tác phẩm
ấy sẽ ghi vào học bạ và sẽ có hỏi đến
lúc thi vấn đáp.
Platon: Phédon,
Gorgias, La République (một quyển).
Aristote : Morale à Nicomaque (một quyển)
Marc Aurèle: Pensées.
Descartes: Discours de la methode.
Pascal: Pensées
et Opuscules.
J.J. Rousseau: Le contrat social (một quyển)
CI. Bernard: Introduction à l’étude de la
medicine expérimentale (phần đầu).
Bergson: Le
rire. La pensée et le mouvant. Les deux sources de la morale et de la
religion.
Emmanuel Mounier: - Le Personnalisme.
- Introduction
aux existentialismes.
Gabriel Marcel: Etre et avoir.
Tác
phẩm Đông phương:
Bộ Tứ thư: Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận
ngữ.
Đạo
đức kinh.
Dharma
Pada. Khóa hư lục.
Ban Khoa học thực
nghiệm
(Mỗi tuần 4 giờ)
1. Tâm lý học:
Như ban
Văn chương, trừ những điểm:
- Trừu
tượng và khái quát.
- Công dụng
và ký hiệu.
- Ngôn ngữ và
tư tưởng.
- Phán đoán và
suy luận.
- Ý chí – tính
tình.
- Lý trí và tự
do
2. Luận lý học (Như ban Văn chương)
3. Đạo đức học (Như ban
Văn chương)
Ban khoa học Toán
(Mỗi tuần 4 giờ)
1.
Luận lý học (Như ban Văn chương)
2.
Đạo đức học (Như ban Văn
chương)
c) Nhận xét
về Chương trình Trung học 1958-1959
(1) Nhận định tổng quát
Chương trình Trung học 1958-1959
với một số điểm cải biên, phát triển
lên từ những chương trình đã có trước là
một nỗ lực lớn của ngành giáo dục
thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đồng
thời cũng là kết quả thu lượm được
từ những cuộc thảo luận trong Đại
hội Giáo dục Quốc gia lần I (năm 1958)
dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo
dục Trần Hữu Thế. Có thể nói, đây là
bộ chương trình đã được áp dụng
chính thức ở miền Nam xuyên suốt gần 20 năm,
vì những chương trình khác gọi là “cải cách” hay “cập
nhật hóa” sau đó thật ra chỉ chép lại nguyên
văn chương trình này với một vài chi tiết thay
đổi không đáng kể, như chúng ta sẽ thấy
ở những đoạn khảo sát kế tiếp.
Chương trình “mới” 1958-1959 so
với chương trình cũ có vài điểm tiến
bộ như ở Trung học Đệ nhất cấp
chỉ học một sinh ngữ chính (thay vì hai); ở
Đệ nhị cấp có phân ban ngay từ lớp
Đệ tam (lớp 10 bây giờ)…
Mặc dù vậy, Chương trình Trung
học 1958-1959 vẫn phải chịu khá nhiều sự
phê bình của học giới và giới giáo chức công
cũng như tư ngay từ khi nó mới ra đời và
cả trong khi đang được áp dụng.
Đa số ý kiến đều cho
rằng chương trình chỉ cải biên, phát triển
lên từ Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn (1945)
vốn đã lạc hậu với thời thế vì
chịu ảnh hưởng của chương trình Pháp
cũ, vừa nặng nề vừa quá thiên về lý
thuyết, không hợp với hoàn cảnh Việt Nam,
thiếu thực tế, còn nhiều phần lỗi
thời vô dụng (xem phần đúc kết của
Tiểu ban Trung học trong Đại hội Giáo dục
Toàn quốc 1964, Văn hóa
nguyệt san, tập XIV, tlđd., tr. 598), thiếu
cải tiến cập nhật theo đà phát triển
của khoa học, ít chú trọng hướng nghiệp,
với cái học từ chương để phục
vụ thi cử hơn là hướng tới những môn
học thực dụng cần ích cho xã hội hiện
đại đang cần nhiều hơn về các ngành khoa
học-kỹ thuật. Các nhà biên soạn chương trình
đã có quá nhiều tham vọng, nên đưa ra nhiều
yêu cầu cao hơn so với tuổi tác và trình độ
thực tế của học sinh, dường như
muốn biến học sinh trung học trở thành
những con người vừa hoàn thiện về nhân cách
vừa bác học đa năng về tri thức, học
vấn.
Ngoài những “nguyên tắc căn
bản” (Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng, áp dụng chung cho
cả bậc Tiểu học), Bộ Giáo dục còn
đưa ra những “nguyên tắc đại cương”
cho việc soạn thảo chương trình với quá
nhiều cao vọng, đòi hỏi một cách lãng mạn
về những mục đích cao đẹp cần
phải đạt, nên đã thiết lập một
chương trình học quá nặng quá cao, mà theo ông
Nguyễn Hiến Lê, nếu đọc hết cả
chương trình mỗi môn từ Việt văn, Hán
văn, Pháp văn, Anh văn đến Toán, Lý hóa, Triết
học, Âm nhạc…, “người ta càng phải thán phục
rằng học sinh trung học Việt Nam có một trình
độ vượt hết cả các học sinh trung
học thế giới” (“Phải mạnh bạo cải
tổ nền giáo dục Việt Nam”, bài 1 trong loạt 5
bài, tạp chí Bách khoa,
số 128, tlđd, tr. 15). Rồi tác giả bài viết phê
phán xuống từng môn, về Việt văn, Sinh ngữ,
Khoa học (Toán, Lý, Hóa, Vạn vật), mà môn nào cũng
nặng hơn trước khi cải tổ mấy năm,
đặc biệt ở hai môn Triết học và Âm
nhạc. Một câu hỏi khác được tác giả
đặt ra là giả định Bộ Quốc gia Giáo
dục có khả năng làm cho học sinh trung học có
được trình độ học thức tổng quát
và quảng bác như Bộ muốn đi nữa, thì
liệu khi học hết trung học họ có làm
được việc gì không, có đủ khả năng ra
đời không, hay chỉ làm được cái việc
cạo giấy? Ý tác giả muốn nói rằng
Chương trình Trung học 1958-1959 cải tổ rồi
vẫn còn nặng nề khó theo, khó thực hiện
hiệu quả và nhất là thiếu hẳn tính thực
dụng so với hoàn cảnh thực tế đất
nước.
Trong bài “Góp ý kiến Chương trình
Trung học” (Bách khoa, số
184, ngày 1.9.1964), ông Đoàn Thêm cũng cho rằng
chương trình học vẫn còn quá nặng. Môn Triết
quá khó hiểu đối với hạng thiếu niên 17, 18
tuổi, mà chính ông đọc còn không hiểu, đề
nghị chỉ nên giữ lại phân môn Luận lý học
“vì môn này đi đôi với khoa học cùng toán học mà
trẻ đã quen thuộc trong nhiều năm”; ở ban
Toán (B) và ban Vạn vật (A), số giờ Việt văn
quá nhiều trong khi số giờ Sinh ngữ quá ít; môn
Thủ công ở Đệ nhất cấp dạy qua
về các nghề mộc, rèn, hàn… nhưng sao không dạy
trồng cây, trồng rau, nuôi gia súc ở một xứ canh
nông, hoặc có dạy nhưng lại liệt vào
chương trình kinh tế gia đình (lớp Đệ
ngũ) dành cho con gái; môn Âm nhạc thì chương trình “phong
phú quá thể, đọc qua chắc ai cũng tưởng
lạc vào một Viện Âm nhạc”; môn Công dân giáo dục
thì cần phân phối lại vì một mục có khi
được ghi nhiều lần ở các lớp khác nhau,
lại cũng nặng về phần chính trị và kinh
tế còn phần xã hội chỉ lướt qua…
“Chương trình Trung học
đầy những khuyết điểm không thể
kể xiết. Đáng lẽ Chương trình Trung học
phải là một chương trình sửa soạn cho
trẻ vào đời, người ta lại quy cho chúng
một mục đích sai lầm là học để thi. Vì
thế những môn cần thiết cho một thanh niên ra
đời đã bị xem nhẹ như Sử Địa,
Công dân, Sinh ngữ và nhất là các môn dạy cho con
người sống xứng đáng là con người…;
đó là môn Đức dục hay là Đạo đức…
Chúng ta thử hỏi với cái kiến thức phổ
thông, những kiến thức về khoa học, về Toán
học ở Trung học, chúng ta có thể dùng vào
được việc chi… Với những môn học khác
cũng vậy… Về Sinh ngữ, chương trình thì quá
nặng mà học sinh thì lại càng ngày càng kém…” (Hà Văn
Kỳ, “Giáo dục trong chiều hướng phát triển
quốc gia”, tập san Minh
đức, số 1 & 2, tháng 6-7/1972, tr. 166-167).
Chương trình lại rời
rạc, thiếu tính liên kết chặt chẽ thành hệ
thống, như có người nhận định: “Không ai
thấy rõ chủ điểm của giáo dục hiện
tại xuyên qua cái chương trình đang được
áp dụng, hoặc giả người ta ngụp lặn
trong từng phần chuyên môn rời rạc, không có một
sự kết hợp chặt chẽ để đồng
quy về một chủ điểm duy nhất. Chính vì
thế mà giáo dục chỉ đóng vai trò tích tụ
kiến thức góp nhặt từ mọi phía, còn cái
trọng trách phát huy kiến thức một cách sâu rộng theo
một chiều hướng nào đó, quy về một
chủ đích, hầu đạt đến một
đường hướng chung để thống
nhất tư tưởng và hành động của
quần chúng, đã không được để ý
đến…” (Quang Minh, “Vai trò của giáo dục trong sự
phát triển xã hội”, Giáo
dục nguyệt san, số 53, tháng 12/1971, tr. 2).
(2) Nhận
định về chương trình Việt ngữ
Chương trình Trung
học Phổ thông 1958-1959 nói chung và chương trình
Việt ngữ nói riêng tuy có được “cập
nhật hóa” vài lần vào những năm 1970-1971, 1971-1972…
nhưng hầu như không có gì thay đổi, (như chúng
tôi sẽ trình bày ngay ở đoạn tiếp sau), nên
những nhận định sắp nêu ra dưới
đây về chương trình Việt ngữ dù có
được phát biểu sau đó 10 năm là nói chung và
phù hợp cho cả nhiều bộ chương trình từ
chương trình 1958-1959 này trở đi cho đến lúc
chế độ VNCH cáo chung tháng 4.1975.
Trước hết, theo đánh giá của ông
Nguyễn Hiến Lê (tlđd, tr. 15), chương trình môn
Việt ngữ (cũng quen gọi Việt văn, Quốc
văn) năm 1958-1959 là quá cao, hơn cả chương
trình của Pháp: bắt những học sinh 14, 15 tuổi
của ta ở lớp Đệ ngũ, Đệ tứ
phải học cách “nghiên cứu thân thế và thời
đại tác giả” từ Lê Thánh Tôn… đến Phạm
Quỳnh, Khái Hưng…, rồi lại phải học
nghị luận tổng quát, nghị luận luân lý,
nghị luận văn chương nữa, trong khi
những học sinh cùng tuổi đó ở các
trường bên Pháp còn đương học làm bài miêu
tả và tự sự.
Thứ đến, có ý kiến cho rằng
chương trình Việt ngữ trong suốt 10 năm
hầu như không thay đổi, vẫn rườm rà
giẫm chân lên nhau giữa lớp Đệ ngũ (lớp
8) và Đệ tam (lớp 10), lớp Đệ tứ
(lớp 9) và Đệ nhị (lớp 11), “làm như không có
gì đáng để học thêm”; nó lại được
sắp xếp theo lịch sử văn học mà không để
ý sự phát triển tâm hồn học sinh, như một
học sinh lớp 7 lại bắt học những tư
tưởng ủy mị, ướt át trong Bích Câu kỳ ngộ. Thêm vào
đó là sự vắng bóng của những nhà thơ yêu
nước, nhất là trong thời kháng Pháp. “Cuối cùng
Việt văn cũng chỉ là một môn được
dạy cho có mà không nhằm một mục đích nào
hết cả” (Hà Văn Kỳ, tlđd, tr. 168).
Trong bài viết “Nhận định về
chương trình Việt văn bậc Trung học” của
Bảo Cự (Giáo dục
nguyệt san, số 57-58, tháng 4-5/1972, tr. 38-65), tác giả
còn phê phán mạnh mẽ hơn, trong mục số 2
“Những điểm phản động và sai lầm trong
nội dung học trình”, do thiếu một định
hướng và những mục đích rõ rệt. Có thể
tóm tắt thành một số điểm chính như sau:
- Tính cách thoái hóa và
phản dân tộc. Tác giả trích lại một số ý
kiến của GS Nguyễn Văn Trung đăng trên
tạp chí Tự quyết
(số 4, tháng 11/1970), đại khái: (a) Chương trình
Việt văn bỏ quên không cho học văn chương
chữ Hán và chữ Nôm của những phong trào nhà văn
cách mạng chống Pháp, hoặc có nhưng rất ít
(lớp 9 chỉ nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh). Trong khi đó lại học trùng nhau quá nhiều
về Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…
(ở lớp 9 rồi lại lớp 11), về Đoạn trường tân thanh
(ở lớp 9 rồi lại lớp 10); cho học Chinh phụ ngâm khúc… mà không cho
học 2 bài “thiên cổ hùng văn” là “Bình Ngô đại cáo”
và “Hịch tướng sĩ văn” (với 2 bản
dịch tiếng Việt hay nổi tiếng, đều
của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim) khêu gợi lòng yêu nước,
ý chí chống giặc ngoại xâm.
- Trong chương trình
lớp 11, về Tự lực văn đoàn học
đến 3 tác giả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng
Đạo mà lại bỏ quên những tác giả hiện
thực xã hội như Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng, Nam Cao… trong khi văn chương tiền chiến
không phải chỉ có Tự lực văn đoàn…
- Người soạn chương trình đã
“miệt thị” và không hiểu được giá trị
của văn chương truyền khẩu, qua việc
bỏ phần giảng văn về văn chương
truyền khẩu ở Đệ tam (lớp 10), chỉ
học khái quát trong phần Văn học sử, như thế
suốt 7 năm Trung học học sinh chỉ
được học văn chương bình dân truyền
khẩu vốn rất phong phú ở lớp Đệ
thất (lớp 6), nên sự hiểu biết về tục
ngữ, ca dao, truyện cổ của học sinh rất
khiếm khuyết.
Rồi tác giả bài viết đưa ra kết
luận bằng những lời lẽ nặng nề
(cũng chủ yếu dựa theo ý kiến của
Nguyễn Văn Trung): “Chương trình Việt văn
hiện tại ở bậc Trung học có tính cách thoái hóa, phản
dân tộc và do đó phản giáo dục. Chương trình
đó chỉ nhằm đào tạo một số
người cầu an, đầu hàng, hèn nhát, khuất
phục ngoại bang. Nó phải được phê phán và
sửa đổi tận gốc rễ… Không thể
chỉ dạy Văn học một cách thưởng
ngoạn hay với thái độ vô thưởng vô phạt,
nhằm cung cấp một vài kiến thức để thi
cử, nhưng phải coi Văn học như một
phương tiện giáo dục khêu gợi, nuôi
dưỡng lòng yêu nước, ý chí quật cường,
truyền thống bất khuất của dân tộc qua
việc khai thác, đề cao văn chương cách
mạng và những việc tố cáo, phơi bầy tính
chất phản dân tộc, thoái hóa của văn
chương công khai tay sai đồng lõa” (tr. 52-53).
- Tính cách mơ hồ và có tác dụng nguy hiểm:
Ở cả phần Kim văn và Cổ văn của các
lớp Đệ nhất cấp (từ Đệ thất
đến Đệ tứ/ lớp 6 đến lớp 9),
Bộ Giáo dục chỉ nêu gợi ý chung chung mà không xác
định cần trích những bài văn, thơ nào cụ
thể. Ngoài ra, còn thiếu sách giáo khoa chính thức do
bộ biên soạn để cụ thể hóa, thống
nhất hóa và hữu hiệu hóa môn Văn, “kéo nó về
với thực tại, tận dụng năng lực, phát
huy tính chất phục vụ đích thực” (tr. 53-56).
- Thiếu hợp lý trong phân phối giờ dạy
ở các lớp Đệ nhị cấp: môn Sinh ngữ
ở bất cứ ban nào và Toán ban B quan trọng hơn
gấp đôi môn Việt văn, làm cho học sinh các ban khoa
học đều khinh thường môn này…
Từ những nhận
định nêu trên, tác giả Bảo Cự đã mạnh
dạn đưa ra một số đề nghị tóm
tắt: (1) Cần định hướng và xác
định những mục đích rõ rệt cho môn Việt
văn (như: xiển dương văn học dân
tộc, rèn luyện tinh thần dân tộc, xây dựng nhân
sinh quan, luyện óc suy luận, sáng tạo và tài ăn nói,
mở mang kiến thức văn học và hướng
dẫn vào các ngành văn học nghệ thuật); (2)
Sửa đổi nội dung học trình hiện tại vì
học trình này phản động và sai lầm…
(3) Nhận
định về chương trình Triết học lớp
12
Tất cả các bậc thức giả và giáo chức
đều thừa nhận chương trình Triết
học (chỉ dạy ở lớp Đệ nhất
tức lớp 12) là quá nặng nề. Dường như
các nhà biên soạn chương trình muốn cho học sinh
lớp cuối cấp ban Triết (tức ban C, D) trong lúc
còn trẻ đều trở thành những nhà thông thái
hoặc triết gia!
Chỉ trong vòng một năm học ở lớp
cuối cấp, lần đầu tiên xiếp xúc với
môn Triết mà học sinh đã bị nhồi nhét quá
nhiều kiến thức mới lạ, trừu
tượng và cao siêu đến bội thực.
Theo ông Nguyễn Hiến Lê, Triết học thì
học trọn chương trình của Pháp nhưng còn
học thêm triết học Đông phương. Học sinh
mỗi năm phải đọc 2 cuốn sách Triết
viết bằng ngoại ngữ, một của Đông
phương và một của Tây phương, trong khi
học sinh cùng cấp lớp ở Pháp chỉ phải
đọc có 1 tác phẩm.
Tình hình nặng nề nêu trên đã khiến ông Bùi
Hữu Sủng phải viết loạt 2 bài “Nên bỏ hay
nên sửa chương trình Triết ở bậc Trung
học” (Bách khoa số 130 và
131, ngày 1/6/1962 và và 15/6/1962) để thảo luận
vấn đề.
Sau khi thừa nhận việc thêm vào phần
triết Đông phương làm cho chương trình trở
nên quá nặng so với chương trình của Pháp, tác
giả đề nghị hoặc phải bãi bỏ môn
Triết, hoặc phải bằng cách này cách khác giảm
nhẹ chương trình đi để tránh sự lao tâm
cho học sinh. Nếu cứ giữ như cũ, trong
tương lai Việt Nam sẽ thiếu số giáo sư
đủ khả năng đảm nhận môn Triết;
hơn nữa, chương trình học vừa thoát ly
thực tế đời sống đã không đáp ứng
nguyện vọng của các bậc phụ huynh, vừa quá
cao không hợp với trình độ học sinh, nên nếu
không bãi bỏ thì cũng phải tìm cách sửa đổi
dựa theo một phần kinh nghiệm cải cách năm
1960 về môn Triết của Pháp theo hướng giản
lược và thích nghi kiến thức Triết học
với thời đại mới. Vì vậy, Việt Nam
cũng cần dự thảo một chương trình
học thích hợp với thanh niên học sinh trong
nước, theo 4 nguyên tắc đề nghị của tác
giả: (1) Rút nhẹ chương trình và bớt giờ
Triết (lớp Đệ nhất ban C, D, 9 giờ rút
xuống còn 5 giờ; Đạo đức học và Siêu
hình học sẽ đưa lên bậc Đại học
tùy theo ngành chuyên môn…); (2) Bắt một nhịp cầu
giữa Triết và môn văn chương đã học
ở các lớp dưới (như “Tư tưởng
triết lý trong Đoạn
trường tân thanh”…); (3) Cần kim hơn cần
cổ (linh động lý trí bằng cách hướng nó
về thời sự, về thực tế, như muốn
luyện tập óc phê bình và xây dựng cho học sinh
một nhân sinh quan thì phải mang những nhân sinh quan
của Nguyễn Công Trứ, của Nguyễn Du ra xét
lại dưới ánh sáng của thời đại…); (4)
Rút nhẹ chương trình đọc Triết phẩm
bằng cách định ra mỗi tuần một giờ
“đọc sách có chỉ dẫn” (lecture dirigée) cho lớp
Đệ nhất (lớp 12).
Cuối bài viết, tác giả còn “Thử phác họa
vài nét về chương trình mới” dựa trên 4 nguyên
tắc đã đề ra, nhưng thiết tưởng
không cần thiết giới thiệu, vì đây chỉ là
một đề xuất có tính cá nhân chưa từng
được chính thức công nhận và áp dụng.
4. Chương
trình Trung học Phổ thông Cập nhật hóa 1970-1971
a. Được ban hành theo Nghị
định số 1152A-GD/KHPC/HV/NĐ ngày 26/6/1970, “hợp
thức hóa chương trình Trung học đã cập
nhật hóa” để áp dụng từ ngày khai giảng niên
học 1970-1971, do Phó thủ tướng kiêm Tổng
trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Lưu Viên ký,
dưới thời Đệ nhị Cộng hòa.
Chương trình này được
cập nhật hóa từ Chương trình Trung học
1958-1959 sau khi đã lần lượt ban hành một số
văn kiện gồm nghị định, thông tư
sửa đổi chương trình ở một số môn
học trong khoảng thời gian từ 1959 đến 1966
với vài chi tiết sửa đổi không đáng kể,
với “Lời nói đầu” nêu rõ:
“Mặc dù vậy, trước sự
tiến bộ không ngừng của tư tưởng và
khoa học, việc cải tiến giáo dục phải
được coi là một công tác thường xuyên.
Do đó bộ đã triệu tập
Hội đồng Chương trình gồm một số
giáo chức Đại học, Trung học công lập và
tư thục để: (1) Cập nhật hóa chương
trình cho niên khóa 1970-1971, và (2) Chuẩn bị cải tổ
toàn bộ chương trình vào niên học 1972-1973 tới
đây.
Hội đồng đã thực
hiện xong nhiệm vụ thứ nhất và Bộ Giáo
dục chấp thuận cho áp dụng chương trình
đính kèm kể từ niên học 1970-1971” (theo Chương trình Trung học
Phổ thông Cập nhật hóa, Bộ Giáo dục, Sài Gòn,
1970).
b. So sánh với chương trình cũ
1958-1959, ta thấy về tên gọi các cấp, lớp,
chương trình mới 1970-1971 đã đổi gọi
theo Sắc lệnh 660/TT/SL do Tổng thống VNCH ký ngày
1/12/1969 quy định hệ thống giáo dục mới duy
nhất gồm 12 năm học chia thành hai cấp: cấp
1 từ lớp 1 đến lớp 5 (bậc Tiểu
học), cấp 2 từ lớp 6 đến lớp 12
(tức là từ Đệ thất đến Đệ
nhất ở hệ thống cũ) (xem Giáo dục nguyệt san, số 37, tháng 3/1970, tr.
22-23).
Về nội dung chương trình
cụ thể, ở 3 môn Quốc văn, Công dân giáo dục
và Triết học, ta nhận thấy có vài thay đổi
nhỏ như sau:
- Việt
ngữ:
Lớp 6, phần trích giảng văn
vần bỏ bớt Lục
súc tranh công; Lớp 7, phần trích giảng văn
vần bỏ bớt Gia
huấn ca; Lớp 8, phần trích giảng văn vần
bỏ bớt Chinh phụ ngâm,
Chu Mạnh Trinh; Lớp 9,
phần trích giảng văn vần bỏ bớt Cung oán ngâm khúc; Lớp 10 ban C,
D (Đệ tam văn chương Sinh ngữ và Cổ
ngữ), phần trích giảng văn vần bỏ Tục ngữ, ca dao, thay vào vài bài hát bội
trích trong các vở Kim thạch
kỳ duyên, Địch Thanh
ly hận, Tượng
kỳ khí xa; Lớp 10 ban A, B (Đệ tam khoa học
Toán và Thực nghiệm) không thay đổi; Lớp 11 ban C,
D (Đệ nhị văn chương Sinh ngữ và Cổ
ngữ), Văn học sử bỏ bớt “Giới
thiệu những tác phẩm bằng Hán văn do
người Việt sáng tác…”, phần trích giảng văn
vần và văn xuôi bỏ bớt Dương Khuê, Tự tình khúc, nhóm Đông
Dương tạp chí bỏ Nguyễn Văn Vĩnh;
Lớp 11 ban A, B (Đệ nhị khoa học Toán và
Thực nghiệm), không thay đổi.
- Công dân
giáo dục:
Lớp 6 (Đệ thất), bỏ
“Đời sống tại học đường”, thay vào
bằng Luật đi đường; Lớp 7 (Đệ
lục), bỏ “Đời sống trong xã hội”, “Bổn
phận đối với xã hội”, thay vào bằng Tổ
chức học đường và Bổn phận của
học sinh; Lớp 8 (Đệ ngũ), thay Tổ chức
công quyền Việt Nam bằng: Đời sống trong xã
hội, Bổn phận đối với xã hội,
Đời sống tôn giáo; Lớp 9 (Đệ tứ),
Quốc gia, Quyền lợi và nhiệm vụ công dân, thay
bằng: Nhân quyền (Bản tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền), Công dân quyền, Quyền tự do cá nhân,
Quyền tự do tư tưởng, Quyền kinh tế xã
hội, Bổn phận công dân; Lớp 10 (Đệ tam),
Khái lược về chính trị, thay bằng: Quốc gia
(Yếu tố cấu thành quốc gia, Quốc gia
độc lập, Giao dịch quốc tế, Căn
bản tổ chức và điều hành công quyền,
Tổ chức công quyền- lấy thí dụ tại VNCH),
Xã hội (Giao tế xã hội, Vấn đề thiếu
nhi phạm pháp); Lớp 11 (Đệ nhị), “Khái
lược về kinh tế” đổi thành “Kinh tế
phổ thông”, với những tiết mục gần như
tương tự.
Nhìn chung, môn Công dân giáo dục qua
chương trình cập nhật hóa 1970-1971 có sự thay
đổi khá nhiều, có phần sát thực tế hơn,
để cập nhật kiến thức với những
biến chuyển mới về chính trị, xã hội trong
nước và thế giới.
-
Triết học:
Lớp 12 ban Văn chương Sinh
ngữ và Cổ ngữ, phân môn Đạo đức
học bỏ cả đoạn chương trình từ
“Đạo đức và kinh tế” đến hết
“Bổn phận đối với nhân loại”.
Lớp 12 ban Khoa học Thực
nghiệm A, phân môn Luận lý học vẫn “như ban
Văn chương”, nhưng bỏ: - Một vài thí dụ
về những thuyết lớn thuộc Vật lý học,
Hóa học và Sinh lý học hiện đại.- Khoa học
nhân văn: Tâm lý học, Sử ký và Xã hội học.
Lớp 12 ban Khoa học Toán B (ban khoa
học Toán), 2 phân môn Luận lý học và Đạo
đức học, thay vì “như ban Văn chương” thì
đổi thành “như ban Khoa học Thực nghiệm”.
5. Chương
trình Trung học (Cập nhật hóa) 1971-1972
Ban hành theo Nghị định số
1867-GD/KHPC/HV/NĐ ngày 4/10/1971 “ban hành Chương trình
cập nhật hóa áp dụng từ niên khóa 1971-1972”,
dưới thời Tổng trưởng Bộ Giáo dục
Ngô Khắc Tỉnh. Chương trình này thực tế
chỉ là bản sao chép lại gần nguyên xi Chương
trình Trung học Phổ thông Cập nhật hóa 1970-1971
vừa giới thiệu ở trên, chỉ biên tập câu chữ,
xáo trộn trật tự trình bày với vài chi tiết
sửa đổi không đáng kể ở một số
môn học.
Chỉ riêng môn Triết học lớp
12 là có thay đổi khá nhiều theo hướng tinh
gọn, giảm nhẹ chương trình: đổi
gọi phân môn Triết học tổng quát thành Siêu hình
học; bỏ bớt Triết học Đông phương
và Tác phẩm triết học. Chỉ còn lại 4 phân môn:
Tâm lý học, Đạo đức học, Luận lý
học, Siêu hình học. Cụ thể như sau:
CHƯƠNG TRÌNH TRIẾT HỌC
LỚP MƯỜI HAI
Ban Văn chương Sinh ngữ,
Cổ ngữ [C, D]
(Mỗi tuần lễ 9 giờ)
TÂM
LÝ HỌC
I. Đại cương về Tâm lý
học: Đối tượng, phương pháp,
tương quan, Tâm sinh lý và Tâm xã hội.- II. Khuynh
hướng.- III. Bản năng.- IV. Tập quán.- V. Khoái
lạc và đau khổ (tinh thần và vật chất).- VI.
Cảm xúc.- VII. Đam mê.- VIII. Ý thức và vô thức.- IX.
Cảm giác và tri giác.- X. Ảnh tượng và trí
tưởng tượng.- XI. Liên tưởng.- XII. Ký
ức.- XIII. Chú ý.- XIV. Ký hiệu và ngôn ngữ.- XV. Ý chí.-
XVI. Tính tình và nhân cách.
ĐẠO ĐỨC HỌC
I. Đại cương về
Đạo đức học: Vấn đề đạo
đức. Đạo đức và khoa học.- II. Ý
thức đạo đức (lương tâm).- III. Bổn
phận.- IV. Quyền.- V. Trách nhiệm.- VI. Công bình và bác ái.
LUẬN LÝ HỌC
I. Đại cương về
Luận lý học.- II. Nguyên lý căn bản của lý trí.-
III. Phương pháp tổng quát của tư tưởng:
Trực giác và suy luận- Phân tích và tổng hợp.- IV. Khái
luận về Khoa học: Nhận thức khoa học và
tinh thần khoa học – Khoa học và Kỹ thuật.- V.
Khoa học Toán: Đối tượng - Phương pháp -
Công dụng.- VI. Khoa học thực nghiệm: Đối
tượng - Phương pháp - Nguyên lý và lý thuyết.- VII.
Khoa học nhân văn: Tâm lý học - Sử học - Xã
hội học.
SIÊU HÌNH HỌC
I. Đại cương về Siêu hình
học: Siêu hình học và khoa học - Siêu hình học và tôn
giáo.- II. Vấn đề chân lý.- III. Tinh thần.- IV.
Tự do.- V. Thượng đế.
LỚP MƯỜI HAI
Ban Khoa học Thực nghiệm A
(Mỗi tuần lễ 4 giờ)
TÂM LÝ HỌC: Như ban Văn
chương, nhưng bỏ bớt: Cảm giác và tri giác -
Ảnh tượng và trí tưởng tượng - Liên
tưởng - Ký ức - Chú ý - Ký hiệu và ngôn ngữ - Bản
năng - Ý chí - Tính tình và nhân cách.
ĐẠO
ĐỨC HỌC: Như ban Văn chương.
LUẬN
LÝ HỌC: Như ban Văn chương, nhưng bớt:
Khoa học nhân văn.
LỚP MƯỜI HAI
Ban Khoa học Toán B
(Mỗi tuần lễ 3 giờ)
ĐẠO
ĐỨC HỌC và LUẬN LÝ HỌC: Như ban Khoa
học Thực nghiệm.
Kèm phía sau nội dung chương trình
còn có một PHỤ BẢN về phân phối giờ và
về chương trình. Riêng phụ bản về
chương trình ghi rõ các tiểu tiết cho từng bài
học, nên xem cũng giống như bảng mục
lục sách giáo khoa dành cho từng phân môn của mỗi ban.
Được biết, sau
Chương trình 1971-1972, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh
niên còn cho ra thêm Chương trình Trung học 1972-1973 với
ít nhiều sửa đổi nhưng không đáng kể.
Đại khái, như loại bỏ môn Hán văn ra
khỏi Trung học Đệ nhất cấp và 3 ban A, B, C
của Trung học Đệ nhị cấp, chỉ còn
giữ lại môn này ở Ban Văn chương Cổ
ngữ D với số giờ học mỗi tuần
được giảm bớt…
6.
Chương trình Trung học Tổng hợp
Có thể nói, Chương trình Trung
học Tổng hợp là kết quả của sự
tiếp thu đầy thiện chí của Bộ Giáo dục
trước những ý kiến đóng góp từ nhiều
giới trong nhiều năm về những khuyết
tật căn bản của giáo dục phổ thông
nhằm chuyển nền giáo dục nặng tính cách từ
chương/ thi cử này sang hướng đại chúng
và thực dụng, chú trọng
đến khía cạnh hướng nghiệp, khả dĩ mang lại lợi
ích thiết thực cho bản thân đời sống
của mỗi học sinh sau khi rời khỏi bậc Trung
học.
Được biết, Chương
trình Trung học Tổng hợp Việt Nam đã
được đem ra thử nghiệm và thực
hiện tại Việt Nam từ năm 1964 là năm thành
lập các trường kiểu mẫu đầu tiên
ở Thủ Đức và ở Huế.
Trong quá trình thực hiện nhưng còn
dang dở, đã có 2 bản chương trình Trung học
Tổng hợp được biên soạn, một của
Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức
(khởi thảo từ năm 1965; trường khai giảng lần đầu ngày
11/10/1965) để áp dụng
thí điểm, và một của Bộ Giáo dục (khởi
thảo từ năm 1970) ban hành để áp dụng
tại các trường Trung học Tổng hợp trên toàn
quốc, theo Nghị định 2346/GD/TTHBD/HV/NĐ ngày
10/12/1971 cho Đệ nhất cấp và Nghị định
5770/GD/THH/HV/NĐ ngày 22/6/1972 cho Đệ nhị cấp.
Chương trình Trung học
Tổng hợp của Trường Trung học Kiểu
mẫu Thủ Đức có mấy đặc điểm
đáng chú ý như: có chương trình hướng dẫn
học sinh, có thêm những môn học thực nghiệm,
ngoài các môn học bắt buộc còn có một hệ
thống các môn học nhiệm ý (tùy chọn).
Chương trình của Bộ Giáo
dục được soạn thảo khá vội vã và
chưa hoàn chỉnh, bằng cách pha trộn, ghép phần
phổ thông của chương trình trung học phổ thông
với phần chuyên nghiệp của chương trình Trung
học Kiểu mẫu Thủ Đức, nên nó cũng có
chương trình hướng dẫn, có thêm những môn
học mới và những môn nhiệm ý mới. Do chưa
được hoàn chỉnh nên sau đó, vào cuối năm
1972, Bộ Giáo dục còn tổ chức thêm vài cuộc hội
thảo nữa để nghiên cứu, chỉnh lý bổ
sung cho chương trình nhưng kết quả vẫn
tiếp tục dang dở….
Các môn học trong Chương trình Trung
học Tổng hợp Đệ nhất cấp (lớp 6
đến lớp 9) của Bộ Giáo dục gồm có
những môn học bắt buộc và những môn học
nhiệm ý.
- Môn bắt buộc gồm: Quốc
văn, Sử Địa, Công dân, Sinh ngữ, Toán, Lý hóa,
Vạn vật, Âm nhạc, Hội họa,
Công-Kỹ-Nghệ (Nam), Kinh tế gia đình (Nữ), Doanh
thương, Canh nông, Hướng dẫn, Thể dục.
- Môn nhiệm ý, cũng bắt buộc
học nhưng học sinh được tùy chọn 2 môn
trong số những môn: Hội họa, Âm nhạc,
Công-Kỹ-Nghệ (Nam), Kinh tế gia đình (Nữ), Canh
nông, Doanh thương, với số giờ học
đầu cấp (lớp 6) tổng cộng 30 hoặc 31
giờ tùy theo nam, nữ.
Chương trình Đệ nhị
cấp (lớp 10 đến 12) chia làm tới 8 ban cho
cả 3 cấp lớp 10, 11, 12, gồm: Ban A Khoa học
Thực nghiệm, Ban B Khoa học Toán, Ban C Văn
chương Sinh ngữ, Ban D Văn chương Cổ
ngữ, Ban E Kinh tế gia đình, Ban F Doanh thương, Ban
G Công-Kỹ-Nghệ, Ban H Canh nông. Còn các môn học thì
cũng tương tự như chương trình
Đệ nhất cấp nhưng có thêm Sinh ngữ II
(hoặc Cổ ngữ), Triết, với số giờ
học đầu cấp (lớp 10) tổng cộng 33,5
hoặc 34,5 giờ tùy theo nam, nữ.
II. TÀI LIỆU VÀ SÁCH GIÁO KHOA TRUNG HỌC
1. Những
tạp chí giáo khoa Trung học
Cũng như ở bậc Tiểu
học, trong giai đoạn đầu phát triển nền
giáo dục Trung học chuyển ngữ tiếng Việt,
sách giáo khoa cũng rất thiếu, nên đi trước
một bước, một số tư nhân đã cho
xuất bản những tạp chí giáo khoa để làm tài
liệu học tập hoặc để tham khảo cho
việc giảng dạy các môn học trong nhà trường.
Căn cứ theo 2 bản mục
lục thư tịch đã dẫn trên về báo chí, và
một số tạp chí còn lưu trữ ở các thư
viện, tính từ khoảng năm 1948 trước khi thành
lập Quốc gia Việt Nam tới thời kỳ
đầu Việt Nam Cộng hòa, chúng tôi thấy có một
số tuần san, nguyệt san chuyên về giáo khoa bậc
Trung học như sau:
- Học
báo (1948), Le guide autodidactique (Hướng dẫn tự
học), xuất bản hàng tuần tại Sài Gòn. Số 1
ngày 21/8/1948, số 19 (Bộ mới) ngày 25/12/1948. Chủ
nhiệm: Nguyễn Thị Tứ; Thư ký tòa soạn:
Thiếu Lăng Quân.
- Tìm
học (1948-1949), tuần báo xuất bản ở Sài Gòn.
Chủ nhiệm: Lê Huỳnh Mai. Năm I, số 1 ngày
11/1/1948, số 2 ngày 27/2/1949.
- Giáo
dục nguyệt san (1948-1949), Enseignement 2 è degrée/ Giáo
dục Trung học, Hà Nội. Số 2 năm 1948-1949.
- Việt
Nam giáo khoa (1950-1951), tuần san xuất bản tại
Sài Gòn do Lê Tràng Kiều làm chủ nhiệm. Năm thứ I
số 1 ngày 26/11/1950, năm thứ II số 10, năm 1951.
- Cần
học (1951), Ban Trung học, xuất bản không
định kỳ tại Gia Định, do Cha Jacques
Của làm Giám đốc (Lê Ngọc Trụ ghi: Tập 22,
năm thứ II, số 35, ngày 30/6/1951).
- Việt
Nam giáo khoa, Dạy theo chương trình Đệ
thất ban Trung học phổ thông (Chương trình Trung
học 1949), xuất bản mỗi tháng 2 kỳ vào ngày 1 và
15 tại Sài Gòn do Thẩm Thệ Hà chủ biên. Bộ
mới số 1 (Số tựu trường) ngày 15/9/1951.
Mỗi số đều có Phần giáo khoa và Phần
tổng quát. Phần giáo khoa “có đủ bài giảng
dạy rành rẽ” về: Việt văn, Hán văn, Pháp
văn, Toán học, Lý hóa học, Vạn vật học,
Sử ký, Địa dư, Luân lý, Công dân giáo dục, Âm
nhạc, Mỹ thuật… “Với chí cần học, bạn
không phải chỉ bỏ tinh thần trong một khuôn
khổ nhỏ hẹp nào, mà bạn có thể vươn
mình lên cao, nhìn vào nền giáo dục mới thuần túy
Việt Nam đang hình thành, để tìm những cái gì mà
bấy lâu nay bạn mong mỏi, bạn khao khát” (trích
“Bức thư gởi cho các bạn học sinh Việt Nam”
của Thẩm Thệ Hà).
- Việt
Nam giáo khoa tập san, Trung học phổ thông (Lớp
Đệ thất và lớp Đệ tứ), xuất
bản tại Sài Gòn. Năm thứ nhứt số 1 ngày
1/3/1952; năm thứ nhì số 12, ngày 15/10/1952 (Lớp
Đệ thất, Đệ lục và Đệ tứ).
Giám đốc: Phạm Trường Xuân; Cố vấn:
Trần Cửu Chấn; Thơ ký tòa soạn: Nguyễn Khoa.
“Các bạn sẽ thấy nơi đây nhiều bài học
soạn một cách kỹ càng, hợp phương pháp giáo
khoa và chương trình giáo dục hiện hành, bởi
một nhóm giáo sư và văn nhân mà các bạn từng nghe
tên, biết tiếng” (trích “Cùng quý độc giả”
của Trần Cửu Chấn).
- Tập
sách hồng, Luyện thi Trung học Đệ nhất
cấp, dành cho lớp Đệ tứ. Bộ A tập 1
đến tập 7 (15/3/1957 đến 1/6/1957). Do Nxb
Thăng Long chủ trương, đã ra từ tập 1
đến tập 26.
- Tập
sách xanh, Luyện thi Tú tài phần I, dành cho lớp
Đệ nhị. Do Nxb Thăng Long chủ trương,
đã ra từ tập 1 đến tập 24.
- Giáo khoa
Trung học (1959), do Thanh quang xuất bản không
định kỳ tại Sài Gòn. Tập 1-tập 5 (1959).
- Hiếu
học (1959), tuần báo do Nxb Sống mới phát hành
tại Sài Gòn. Tập 1 đến 16 (1959).
- Siêng
học (1959-1962), tuần báo xuất bản tại Sài
Gòn. Chủ nhiệm: Trịnh Vân Thanh (Lê Ngọc Trụ ghi:
Tập 1 đến tập 21, niên khóa 1959-1960, và các tập
về niên khóa 1960-1962).
- Chăm
học (1959), tuần báo xuất bản tại Sài Gòn do
Nguyễn Văn Hợi làm Giám đốc. Tập 1
đến tập 12.
- Luyện
thi Trung học Đệ nhất cấp (1959), bán
nguyệt san do Nxb Văn hào phát hành tại Sài Gòn. Số 1
tháng 3/1959 đến số 5 tháng 5/1959.
- Khuyến
học (1959), tạp chí không định kỳ tại
Sài Gòn do Việt Nam Tu thư cuộc chủ trương.
Tập 1 đến tập 5 (1959).
- Học
báo Anh ngữ (1959-1960), mỗi tháng 3 số tại Sài Gòn
do Lê Bá Kông làm Giám đốc. Số 1 năm 1959, xuất
bản đến năm 1960.
- Học
báo dẫn giải (1961-1962), tuần báo xuất bản
tại Sài Gòn do Liêm Huyền Vũ chủ trương, Phan
Văn Sĩ làm Giám đốc. Số 1 không đề ngày,
số 3 ngày 15/10/1961 đến số 17 ngày 30/7/1962.
- Học
hỏi (1964), Trung học Đệ nhất cấp,
tuần san xuất bản tại Sài Gòn. Số 1 ngày
27/5/1964, đến số 10 thì đình bản.
2. Sách giáo khoa Trung
học
Đầu những năm 50 của
thế kỷ trước, trong thời kỳ Quốc gia
Việt Nam (1949-1954), sách giáo khoa các môn học bậc Trung
học lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ đã
bắt đầu xuất hiện lần lần.
Năm 1951, nhà xuất bản Tân
Việt (Sài Gòn) cho in sách Việt
Nam thi văn giảng luận (2 quyển) của GS Hà Như
Chi (Quốc học Huế), biên soạn rất công phu,
được coi là bộ sách giáo khoa tiên phong quy mô
nhất, đầy đủ nhất về môn giảng
văn/ văn học trích giảng dùng cho giáo chức
dạy Quốc văn ở các trường trung học.
Trước đó chúng ta còn được biết
đến cuốn Giảng
văn Chinh phụ ngâm của Đặng Thai Mai xuất
bản năm 1950…
Cũng khoảng năm 1951, nhà xuất
bản Thế giới (Hà Nội) do ông Nguyễn Văn
Hợi làm Giám đốc đã bắt đầu cho ra
nhiều sách giáo khoa thuộc đủ các môn học,
như Giảng văn
Đệ thất và Đệ lục của GS Lê Hữu
Thu, Sử Việt Nam
Đệ tứ của Lê Hữu Thu, Luận văn thị phạm (Đề thi Trung
học Phổ thông và Tú tài) của GS Nghiêm Toản, Địa lý từ Đệ
thất đến Đệ tứ của GS Bùi Đình
Tấn, Để hiểu rõ
mẹo tiếng Pháp (bậc Trung và Tiểu học)
của GS Nguyễn Văn Dung, Toán
pháp Đệ thất và Đệ tam của GS Ngô Duy
Cầu, Tính đại số,
Số học, Hình học, Vật lý, Hóa học
của GS Ngô Ngọc Bích, Toán lý
hóa Đệ ngũ và Đệ tứ của GS Đào
Văn Dương, Bản kê
số (table de logarithme)
của Nguyễn Dương Đôn…
Nhà xuất bản Trường Thi,
hoạt động từ hồi còn ở Hà Nội, sau
năm 1954 di cư vào Nam, tiếp tục in các loại
từ điển (Hán Việt
từ điển của Đào Duy Anh, Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn, Chánh tả Việt ngữ
của Lê Ngọc Trụ…), sách tham khảo văn học (Đại Nam quốc sử
diễn ca, Mai đình
mộng ký…), và cho ra những sách giáo khoa về Văn,
Toán, Thiên văn, Lý hóa… của một số tác giả
nổi tiếng (như Khảo
luận về Khái Hưng của Lê Hữu Mục, Thiên văn học của
Nguyễn Xuân Vinh…).
Từ
thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) trở
đi, sách giáo khoa trung học đủ loại của các
nhà xuất bản tư nhân trăm hoa đua nở.
Phải nói về mặt này nhà nước không theo kịp
tư nhân, phần vì số học sinh trung học tư
thục chiếm đến hơn 65% tổng số
học sinh trung học toàn miền Nam (xem H.G.C., “Tư
thục Việt Nam”, Giáo
dục nguyệt san, số 25, tháng 12/1968, tr. 11), phần
vì nhà nước lo không xuể, lại phải tập trung
ưu tiên mở trường, in sách, thực hiện chính
sách cưỡng bách giáo dục cho bậc Tiểu học.
Khoảng thời gian này, trong điều kiện tự do
báo chí-xuất bản, hàng chục nhà xuất bản ra
đời, cạnh tranh nhau in sách giáo khoa. Không ít nhà nổi
tiếng như Tân Việt, Bốn phương, Tao đàn,
Sống mới, Á Châu, Văn hào, Khai trí, Trí đăng, Trí
dũng, Hàn Thuyên, Yểm Yểm thư quán…. Sang thời
Đệ nhị Cộng hòa (1967-1975), trong lò lửa
chiến tranh ác liệt, việc học hành thi cử
trở nên vội vã và càng nhộn nhịp hơn (với
một phần mục đích thi đậu Tú tài
để được lên Đại học và
được hoãn dịch học vấn…), mạng
lưới trường tư thục và các lớp
luyện thi phát triển mạnh, không ít nhà xuất bản
mới được lập ra chỉ để in sách
giáo khoa, như Siêng học, Yên Sơn, Thăng Long, Bạn
trẻ, Học đường, Đăng đàng, Giáo
dục nguyệt san (tên gọi nhà xuất bản), Alpha…
- Về môn Quốc
văn cấp 2 có thể kể tiêu biểu một
số tác giả quen thuộc được tin cậy
như Phan Ngô, Đỗ Văn Tú, Vũ Khắc Khoan, Tô
Đáng, Phạm Xuân Thu…; cấp 3 có Phạm Thế Ngũ,
Trịnh Vân Thanh, Trần Trọng San, Nguyễn Sỹ
Tế, Nguyễn Duy Diễn, Vũ Ký, Tạ Ký, Lữ
Hồ, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Tăng Chương,
Võ Thu Tịnh, Hoàng Khôi, Cao Bá Vũ, Hà Khải Hoàn… Các sách
giảng luận/ luận đề văn chương dành
riêng cho từng tác giả có trong chương trình học
(như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Cao
Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Khắc Hiếu, Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh…) để “luyện thi” môn
nghị luận văn chương được xuất
bản hàng loạt, phần nhiều do nhà xuất bản
Thăng Long (từ Bắc di cư vào Nam năm 1954), như
những sách của Bùi Giáng, Nguyễn Sỹ Tế, Vũ
Khắc Khoan, Tạ Văn Ru, Kiêm Đạt…
Sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Hòa
- Về môn Công
dân giáo dục, từ năm 1956 trở đi có
đến hàng chục tác giả: Trần Mộng Chu,
Phạm Thị Tự, Lê Xuân Khoa, Lê Thái Ất, Nguyễn Quý
Bình, Nguyễn Huy Côn, Ngô Đình Độ, Phạm Gia
Hưng, Trần Đức Long, Cao Văn Luận,
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Bá Lương, Lê Kim Ngân, Đàm
Sỹ Hiến, Nguyễn Vũ Khương, Nguyễn Bá
Kim, Vũ Huy Chấn…
- Sách Triết
lớp 12, có vẻ ít người tham gia vì biên soạn
không đơn giản, và phần lớn là của
những tác giả từng đi du học nước ngoài
về. Đáng kể có: Nguyễn Văn Trung (Luận lý học, Đạo đức học),
Cao Văn Luận (Đạo
đức học, Luận
lý học, Tâm lý học),
Trần Văn Hiến Minh (Tâm
lý học, Luận lý học,
Đạo đức học,
Triết học tổng quát),
Phạm Mạnh Cương, Trần Bích Lan (Luận lý học, Tâm lý học), Trần Xuân Tiên
(Luận lý học, Đạo đức học,
Tâm lý học), Vĩnh
Đễ (Tâm lý học, Luận lý học, Đạo đức học,
Siêu hình học), Nguyễn
Đăng Thục (Triết
học Đông phương)… Vào những năm cuối
của chế độ Cộng hòa, bộ sách Triết
lớp 12 của Vĩnh Đễ được nhiều
người chọn dùng vì biên soạn gọn gàng, dễ
hiểu, và lại kịp cập nhật hóa theo
chương trình mới.
- Pháp
văn: Vũ Quý Mão, Đoàn Rạng, Trần Như
Thuần, Ngô Đức Kính, Roch Cường, Vũ Ngọc
Ánh…
- Anh văn:
Lê Bá Kông, Nguyễn Văn Khôn, Vũ Ngọc Ánh, Nguyễn
Văn Tạo, Trần Văn Điền, Đỗ Khánh
Hoan, Hà Văn Bửu, Đắc Sơn, Lê Văn Ruệ…
- Sử,
Địa: Tăng Xuân An, Trần Hữu Quảng,
Bằng Phong, Nguyễn Trọng Phong, Bùi Tân, Lê Như
Dực, Đặng Đức Kim…
- Toán:
Đặng Văn Nhân, Đặng Sỹ Hỷ, Nguyễn
Đình Chung Song, Nguyễn Văn Kỷ Cương, Đinh
Đức Mậu, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tá,
Nguyễn Phượng Các, Trần Kim Quy, Đoàn Văn Phi
Long…
- Lý hóa:
Bùi Phượng Chì, Phạm Đình Ái, Trần
Thượng Thủ, Hà Văn Dương, Nguyễn
Ngọc Huân, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Hữu Tài,
Nguyễn Thanh Khuyến, Nguyễn Mạnh Hà, Lê Khắc Huy,
Vũ Văn Tiên, Trần Xuân Hài, Chu Phạm Ngọc Sơn,
Cao Huy Tấn, Bùi Quang Hân.
- Vạn
vật học: Đỗ Đức Công, Nguyễn
Nhuận, Nguyễn Đức Thịnh, Vũ Văn Tuyên,
Nguyễn Ngọc Nam, Đỗ Đức Thịnh, Chu
Ngọc Thủy, Phùng Thanh Loan…
Riêng sách giáo khoa Trung học của Trung
tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản
tương đối ít, tính đến năm 1972 có
thể kể:
- Quốc
văn: Việt văn
độc bản lớp 10 (in lần thứ 6) và
lớp 11 (in lần thứ 7) của Trần Trọng San, Phương pháp làm bài nghị
luận của Thuần Phong Ngô Văn Phát (in lần
thứ nhất, 1968), Văn
phạm giản dị và thực dụng (dùng chung cho
giáo chức Trung, Tiểu học) của Bùi Đức
Tịnh (in lần thứ hai, 1972).
- Hán văn:
Hán văn giáo khoa thư lớp
6 và lớp 7 của Võ Như Nguyện-Nguyễn Hồng
Giao (in lần thứ nhất, 1964).
- Sử:
Thế giới sử
lớp 12 của Tăng Xuân An (in lần thứ 5 năm
1964).
- Anh
ngữ: Anh ngữ lớp
6 (in lần 1 năm 1962) và lớp 7 (in lần 1 năm 1964)
của Nguyễn Đình Hòa.
- Toán, Lý,
Hóa: Đại số
học lớp 12 của Nguyễn Bá Cường (in
lần 1, năm?), Lượng
giác học lớp 12 B của Nguyễn Xuân Vinh (in
lần thứ nhất, 1962), Hình
học họa hình lớp 12 B (in lần thứ nhất,
1960), Số học lớp
12 A, B (in lần thứ năm, 1968), Thiên văn học lớp 12 A, B (in lần thứ hai,
1960) của Đặng Văn Nhân; Vật lý học lớp 10 A, B (in lần thứ
ba, 1964), Vật lý thực hành
lớp 10 A, B (in lần thứ nhất, 1960), Vật lý quang học lớp
11 A, B (in lần thứ nhất, 1962), Thực tập vật lý lớp 11 A, B (in lần
thứ nhất, 1962) của Bùi Phượng Chì; Cơ học lớp 12 của
Nguyễn Xuân Vinh (in lần thứ hai, 1967); Hóa học lớp 10 (in lần thứ bảy,
1968), lớp 11 (in lần thứ sáu, 1970) và lớp 12 (in
lần thứ sáu, 1970) của Phạm Đình Ái.
- Thủ
công: Thủ công Trung học
lớp 6 của Lê Xuân Thủy (in lần thứ nhất,
1963).
Nhưng có lẽ quan trọng và có ý
nghĩa hơn hết là việc Trung tâm Học liệu
đã cho tái bản được một số sách tham
khảo rất có giá trị về Văn, Sử như: Việt Nam văn học sử
yếu (in lần 10 năm 1968), Việt Nam thi văn hợp tuyển (in lần 9
năm 1968), Văn học
Việt Nam (in lần 4 năm 1968) của Dương
Quảng Hàm; Thượng Chi
văn tập của Phạm Quỳnh (5 tập, in
lần thứ nhất, 1962), Nữ
thi hào Việt Nam của Phạm Xuân Độ (in
lần thứ hai, 1970), Việt
Nam sử lược (2 quyển) và Nho giáo (2 quyển) của Trần Trọng Kim.
Về nội dung, cũng như ở
những cấp/ bậc học khác, sách giáo khoa Trung học
ở miền Nam trước 1975 biên soạn theo
chương trình quy định của Bộ Quốc gia
Giáo dục, nhưng được tùy nghi vận dụng
theo sở kiến riêng của từng soạn giả. Giáo
viên đứng lớp, còn có thể tự do hơn nữa,
vì không bắt buộc phải dùng hẳn một cuốn
sách giáo khoa duy nhất nào, mà họ được dạy
theo sự tâm đắc về môn học do mình phụ
trách. Họ có thể dẫn một đoạn văn hay
bài toán nào đó, không có trong bất kỳ sách giáo khoa chính
thức nào, để giảng cho học trò. Riêng phần
Kim văn (tức văn học hiện đại) của
môn Quốc văn, trích giảng đầy đủ các tác
giả không phân biệt nhân thân, xu hướng chính trị
hay ý thức hệ, vì thế hầu hết những tác
giả là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê
bình văn học… đang sống, làm việc cho phía
đối kháng “bên kia dòng Bến Hải” đều
được đưa vào sách giáo khoa để giảng
dạy, như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Trần Tiêu, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Lân, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…,
không kể những tác giả miền Bắc khác vào lúc
đó đã quá cố.
Về hình thức, sách giáo khoa Trung
học phần lớn in bìa 2 màu, ruột sách in đen
trắng. Chỉ vào khoảng đầu những năm 70
của thế kỷ trước, nhà xuất bản Alpha
ở Sài Gòn do ông Lý Thái Thuận làm giám đốc mới
bắt đầu có sáng kiến cho ra những sách in màu
cả bìa lẫn ruột theo kỹ thuật in offset
hiện đại, cho những sách về các môn khoa học
tự nhiên như Toán, Lý hóa, Vạn vật…, và đã khá
thành công, vì lần đầu tiên ở Việt Nam sách
chữ Việt có màu mè đẹp, thu hút được
sự chú ý của giáo chức và học sinh Trung học
thời đó.
Còn tiếp....
Cả một quá khứ tưởng rằng chôn vùi mãi nay sống lại ! TNS quá cố Mc Cain từng nói : csVN lãng phí hàng triệu nhân tài của VNCH !
Trả lờiXóaỞ miền Bắc các học giả như Phan Ngọc, Cao Xuân Hạo v.v...cũng bị đá về ngồi ở thư viện đoc sách đâu được cất lên tiếng nói, họ là ̀những người có tư tưởng cấp tiến ngược với quan điểm của cs.
Trả lờiXóa