Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

GS. PHAN ĐÌNH DIỆU BÀN VỀ TOÁN HỌC VÀ DÂN CHỦ


    GS. Phan Đình Diệu bàn về Toán học 
    và Dân chủ

    Hiệu Minh giới thiệu

  • HM Blog xin đăng lại bài phỏng vấn Giáo sư Phan Đình Diệu được Diễn Đàn dịch từ Tạp chí Nordic Newsletter of Asian Studies (số 2, năm 1993, xuất bản tại Copenhagen, Đan Mạch). Xin cảm ơn Diễn Đàn và Còm sỹ Historian đã tìm ra bài này.

    Người phỏng vấn là một nhà sử học Na Uy, ông Stein Tønnesson, tác giả luận án tiến sĩ có giá trị Sự bùng nổ chiến tranh Đông Dương 1946 bảo vệ năm 1982 tại Oslo (bản tiếng Pháp: “ 1946: Déclenchement de la guerre d’Indochine”, Nhà xuất bản L’Harmattan, Paris 1987).

    Cuộc phỏng vấn được tiến hành vào tháng 9.1992 tại Viện Khoa học Việt Nam, khi đó Giáo sư Phan Đình Diệu là Viện phó. 

    Dù phỏng vấn đã có tử cách đây 2 thập kỷ, nhưng những gì Giáo sư Diệu nói, còn nhiều điều cho chúng ta suy ngẫm.

    Giáo sư có nhắc đến trí thức Việt nam, một vấn đề nóng trên mạng mấy tuần qua. Ông cho rằng “Chế độ XHCN đào tạo ra những chuyên viên hơn là những trí thức. Chúng tôi có nhiều nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, kỹ sư… và bây giờ thêm nhiều nhà kinh tế. Nhưng chưa bao giờ họ được học để suy nghĩ về các vấn đề của xã hội“.

    Gần đây Giáo sư Ngô Bảo Châu, khi luận về trí thức, nói theo một khía cạnh khác ”Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức”? Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.” Mặc dầu Ngô Bảo Châu có nói thêm:”Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.” 

    So sánh hai cách tiếp cận khác nhau về trí thức của hai giáo sư cũng thấy thú vị, nhất là chúng ta cần học để suy nghĩ về các vấn đề của xã hội.

    Phỏng vấn Phan Đình Diệu: Ứng dụng toán học và dân chủ

    Bởi Stein TØNNESSON

    Stein TØNNESSON: Năm 1982, ông công bố trên tạp chí Nghiên cứu Việt Nam một bài báo nhan đề “ ứng dụng toán học và máy tính điện tử”. Nay dường như ông muốn ứng dụng toán học vào cả vấn đề dân chủ. Vì sao một nhà toán học lại trở thành chính khách ?

    Phan Đình Diệu: Tôi không phải là chính khách, mà tôi chỉ muốn tham gia vào việc nước như một công dân. Là một người yêu nước, thiết tha với nhân dân nghèo khó, tôi muốn đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Là một người làm khoa học, đã từ khá lâu tôi phát hiện ra rằng chủ nghĩa Mác-Lê khó có thể mang lại điều gì hữu ích cho một nước muốn thoát ra khỏi nghèo nàn. Nghiên cứu khoa học điện toán, thuyết hệ thống và các vấn đề quản lý hiện đại, tôi nhận ra rằng mô hình xã hội chủ nghĩa như học thuyết Mác-Lê xác định không phù hợp với một nước muốn phát triển về xã hội, kinh tế và khoa học.Vì những lý do hiển nhiên, Marx và Lenin không có điều kiện tìm hiểu xã hội hiện đại. Song đảng cộng sản ở Việt Nam cũng như ở các nước khác đã ngây thơ tìm cách áp dụng học thuyết của họ vào xã hội hiện đại. Sự thất bại của họ đã được minh chứng rõ rệt nhất trong cuộc cách mạng điện toán, đặc trưng của thế giới trong thập niên 1980. Sự thất bại của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày nay hầu như mọi người đều thấy rõ. Vấn đề còn lại là biết rút ra kết luận một cách đầy đủ và từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê.

    ST: Tôi có cảm tưởng là trong lãnh vực kinh tế, thực ra Việt Nam đã từ bỏ mô hình xã hội chủ nghĩa rồi.

    PĐD: Nét nổi bật trong tình hình hiện nay là sự mâu thuẫn giữa một mặt là ý muốn duy trì sự chuyên chế của đảng, và mặt khác, phát triển thị trường tự do. Đây là là một sự kết hợp mới. Chưa hề có một nhà lý luận cộng sản nào nghiên cứu tình thế này trên một cơ sở có thể coi là thường trực.

    ST: Phải chăng hệ thống chính trị hiện nay phản ánh một quan niệm Á châu về dân chủ, khác với quan niệm dân chủ Tây phương?

    PĐD: Có thể có sự khác biệt về thực tế chính trị giữa châu Á và phương Tây, chứ không có quan niệm khác nhau về dân chủ. Dân chủ thì ở đâu cũng là dân chủ. Một hệ thống dân chủ đòi hỏi trước hết phải tôn trọng các quyền con người và quyền công dân. Điều này đặt ra ở mọi nơi. Và quyền công dân phải được tôn trọng bằng cách tổ chức bầu cử tự do. Nhân tố then chốt của một chế độ dân chủ là cách bầu ra người lãnh đạo. Bầu cử dân chủ nghĩa là bầu cử tự do, bỏ phiếu kín, và mọi người đều có quyền ra ứng cử. Không có những điều đó, không thể gọi là dân chủ. Cũng cần nói thêm: tất nhiên có những mức độ khác nhau về dân chủ. Theo tôi nghĩ, không có nơi nào nền dân chủ có thể coi là hoàn thiện, kể cả ở nước ông [tức là Na Uy, chú thích của người dịch], hay ở Đức, Pháp hoặc Hoa Kỳ. Chất lượng một chế độ dân chủ có thể đo bằng hai tiêu chuẩn. Thứ nhất là cách vận hành của thể chế bầu cử: cử tri có thực sự được chọn lựa hay không, kết quả cuộc bầu cử phản ánh dân ý tới đâu? Thứ nhì là khả năng của nhân dân tác động vào quá trình quyết định thông qua thảo luận trên các media, trong các cuộc hội họp, gặp gỡ ở địa phương, cũng như ở cấp vùng, và cấp toàn quốc.

    ST: Phải chăng ông chủ trương thiết lập một chế độ đa đảng ở Việt Nam?

    PĐD: Điều cốt yếu không phải là có nhiều đảng, không phải là có một chế độ đa đảng, mà là có sự chọn lựa thật sự. Muốn chọn lựa thật sự, hai đảng có thể cũng đủ, với điều kiện là hai đảng ấy thực sự khác nhau.

    ST: Ông có ngại rằng đặt ra những đảng đối lập có thể tác hại tới sự ổn định xã hội và sự tăng trưởng kinh tế hiện nay ở Việt Nam, thậm chí gây ra hỗn loạn chăng?

    PĐD: Vâng, tôi nghĩ có nguy cơ đó; bởi vậy tôi mới nói hai đảng cũng đủ. Trong toán học có một định lý cơ bản: một biểu đồ định hướng là cân bằng nếu như và chỉ nếu như nó có hai nhánh (tiếng Anh bipartite còn có nghĩa là hai bên, hai đảng). Nhiều đảng quá có thể dẫn tới hỗn loạn – trừ phi các đảng liên kết chung quanh hai cực. Hệ thống lưỡng đảng ở Hoa Kỳ hay ở Vương quốc Anh xem ra ổn định hơn là hệ thống nhiều đảng như ở Pháp dưới thời đệ tứ cộng hoà. Còn ở Việt Nam hiện nay là hệ thống chính trị độc đảng. Ngày nào chế độ còn trấn áp được mọi sự đối lập thì hệ thống còn ổn định, nhưng đó chỉ là một sự ổn định tĩnh. Còn sự ổn định động, hàm ý phát triển tích cực, chỉ có thể thực hiện bằng cách lập ra một “đối cực”. Xin hiểu đối cực theo nghĩa xây dựng của nó, chứ không phải phá hoại.

    ST: Các nhà lãnh đạo hiện nay của Việt Nam dường như đã tiến một bước khá dài trong việc thừa nhận quyền tự do ý kiến và tự do phát biểu.

    PĐD: Sự chuyên chế của đảng không còn toàn diện như trước kia. Có một thời, ngay cả khẩu phần lương thực cũng được quyết định trên cơ sở lòng trung thành đối với đảng. Bây giờ đã tự do hơn, nhưng theo ý tôi, 1987 và 1988 là những năm tự do hơn là từ đó đến nay. Trong hai năm ấy, chúng tôi đã bước đầu thể nghiệm thảo luận về chính trị và lý luận, sau đó bị dẹp.

    ST: Người ta vẫn khuyến khích báo chí tố cáo tham nhũng, lạm quyền.

    PĐD: Đúng thế, nhưng với những hạn chế rất rõ ràng. Điều cấm kỵ chủ yếu liên quan tới sự chuyên chế của đảng. Không ai được quyền phê bình đảng, cho dù ở cấp huyện. Tham nhũng thì được phép phê phán, vì tham nhũng không phải là vấn đề hệ thống chính trị. Đó là một vấn đề chung. Tham nhũng chung quy có nghĩa là bán quyền lực. Có lẽ ở đâu cũng có sự bán quyền lực, khác nhau là ở quy mô. Tình hình làm ăn hiện nay ở Việt Nam đang làm cho tham nhũng phát triển. Trong một xã hội cộng sản tập trung, sự tham nhũng chừng nào bị lệch dòng (deflected) vì thiếu vắng thị trường. Các đặc lợi phát sinh từ các đặc quyền hơn là do buôn bán quyền thế. Trong những xã hội dân chủ, do không giữ được (hoặc ít giữ được) bí mật, nên ở chừng mực nào đó, sự tham nhũng bị ngăn chặn, hay hạn chế; người ta không (hoặc ít) dám buôn bán quyền lực vì sợ bị tố cáo hoặc truy tố. Còn ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi gặp cả hai cái nạn ấy cộng lại: một thị trường mặc sức phát triển trong đó quyền lực là một thứ hàng hoá buôn đi bán lại, song song tồn tại với một giới cầm quyền giữ bí mật cao độ. Vừa qua có vụ hoá giá nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, cán bộ cấp cao được mua nhà công với giá rẻ, và bán lại với giá thật cao, chúng tôi đòi công bố danh sách, song người ta lờ đi. Hệ thống chính trị này không cho phép công bố đầy đủ thông tin về tham nhũng trong những vụ việc có quy mô quá lớn như vậy.

    ST: Tôi muốn trở lại vấn đề dân chủ: ông có cho rằng “ đối cực”, hay ít nhất, là cái cực kia, có thể phát triển ngay trong quốc hội hiện nay không?

    PĐD: Tôi không mấy tin tưởng vào Quốc hội mới được bầu [tháng 7.1992]. Cuộc bầu cử quốc hội vừa rồi là chọn giữa vài ứng cử viên đã được đảng và Mặt trận Tổ quốc lựa ra từ trước. Khoảng 40 người ra ứng cử độc lập, nhưng người ta chỉ chấp nhận cho 2 người ứng cử, và cả hai đều thất cử. Trình độ học vấn của các đại biểu khoá này cao hơn khoá trước, nhưng tôi không thấy ai có thể đóng một vai trò độc lập. Các cuộc thảo luận ở Quốc hội vẫn diễn ra trong lằn ranh do đảng vạch ra.

    ST: Thế thì ông đặt hy vọng vào đâu? Vào giới trí thức? Trong đại hội Đảng vừa qua, vai trò của trí thức đã được nâng cấp một cách đáng kể?

    PĐD: Trước khi bàn về vai trò trí thức, thử hỏi: trí thức là ai? Ở Việt Nam có hay không có một giới trí thức, một lực lượng trí thức độc lập về xã hội và chính trị? Đó là vấn đề quan trọng đặt ra cho mọi xã hội muốn thiết lập hay cải thiện chế độ dân chủ. Trước tiên, tôi muốn nói tới lớp những nhà trí thức đã được đào tạo dưới thời Pháp thuộc. Trong lớp này, có những nhân vật dũng cảm và đáng kính. Một vài vị còn sống nhưng không còn mấy ảnh hưởng. Thật ra, chỉ còn lại một số rất nhỏ. Chúng tôi quý trọng công lao của họ đối với dân tộc. Lớp thứ hai là một số đông những chuyên gia được đào tạo trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Trái ngược với nền giáo dục thời Pháp, chế độ xã hội chủ nghĩa đào tạo ra những chuyên viên hơn là những trí thức. Chúng tôi có nhiều nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, kỹ sư… và bây giờ thêm nhiều nhà kinh tế. Nhưng chưa bao giờ họ được học để suy nghĩ về các vấn đề của xã hội. Đảng nghĩ hộ cho mọi người. Ý thức chính trị của các chuyên viên nói chung là yếu. Những người giỏi tham gia chính quyền, và tự nhiên là đảng viên. Rất có thể nhiều chuyên viên, trong cuộc sống riêng, cũng có tư tưởng dân chủ, nhưng không có cách gì kiểm nghiệm điều đó cả. Thành phần thứ ba là những trí thức được đào tạo trước đây ở miền Nam. Phần đông đã bỏ đi. Tất nhiên có thể họ sẽ trở về giúp nước bằng cách này hay cách khác, nhưng muốn đóng một vai trò chính trị có ý nghĩa, thì người trí thức phải gần gụi nhân dân. Cuộc sống kéo dài ở hải ngoại không phải là mảnh đất thuận lợi cho một lực lượng trí thức tích cực. Cuối cùng là thanh niên, những người vừa được hay còn đang được đào tạo trong những năm gọi là đổi mới. Những năm gần đây, quả đã có một nền văn nghệ độc lập khởi sắc. Nhưng còn phải có thời gian thì các xu hướng nói trên mới có thể hình thành một lực lượng xã hội chính trị thực sự. Nói tóm lại, kết luận của tôi là hiện nay Việt Nam chưa có một giai cấp trí thức.

    ST: Nghĩa là nhìn về toàn cục thì ông bi quan? Hay ông còn thấy có hy vọng ở đâu đó?

    PĐD: Tôi nói điều này chắc ông ngạc nhiên: mặc dầu tôi đã nói như ở trên về sự chuyên chế của đảng cộng sản, song tôi vẫn hy vọng là đảng cộng sản tự nó sẽ thay đổi. Những ai suy nghĩ một cách có trách nhiệm về tiền đồ dân tộc tất phải tán thành sự thay đổi trong ổn định. Cách tốt nhất để thực hiện việc này là thuyết phục đảng cộng sản phải biết nhìn nhận thực tế và từ bỏ con đường cũ. Tôi đã soạn những bản kiến nghị và nói với những nhà lãnh đạo đảng. Ít nhất họ đã nghe tôi nói. Theo tôi, đảng cộng sản Việt Nam có hai mặt, mặt cộng sản và mặt yêu nước. Nó nên giữ mặt thứ nhì và bỏ mặt thứ nhất, nó có thể tự biến đổi thành một lực lượng yêu nước chân chính. Theo chỗ tôi biết, có những nhà lãnh đạo cấp cao là những người rất chân thành.

    ST: Nhưng làm thế nào đi tới cái thế lưỡng cực?

    PĐD: Đây chính là sự thử thách lớn về tinh thần trách nhiệm và sự dũng cảm của giới lãnh đạo. Nếu họ thực sự yêu nước thương dân thì họ phải chấp nhận biến đảng trở thành một đảng dân tộc, tôn trọng đầy đủ các quyền tự do cơ bản và tổ chức bầu cử tự do. Trong điều kiện đó, những tổ chức chính trị khác sẽ xuất hiện, từng bước triển khai thành một lực lượng đối lập xây dựng. Nếu đảng cộng sản tự cải tạo trong quá trình đó, thì trong suốt một thời gian dài, nó có thể thắng cử.

    ST: Ông có nghĩ rằng ông có thể đóng một vai trò trong tiến trình biến đổi đó hay không? Phan Đình Diệu phải chăng là Sakharov của Việt Nam?

    PĐD: Như tôi đã nói ở trên, tôi không phải là một chính khách và tôi không có tham vọng (chính trị). Song, với tư cách một nhà khoa học và một công dân yêu nước, tôi muốn tham gia việc nước. Dân chủ là tham gia việc nước.


    Viện KHVN nơi có cuộc phỏng vấn. Ảnh: VKHVN

14 nhận xét :

  1. Có một thời nói đến Phan Đình Diệu thì LĐ csVN không ưa . Ông bị mang cái mũ lệch quan điểm . Nhưng uy tín của Ông lớn quá , người ta chẳng làm gì được !

    Trả lờiXóa
  2. Giáo sư Phan Đình Diệu nhận định về đảng thật đúng: vừa muốn duy trì tính chuyên chế của đảng lại vừa muốn phát triển thị trường tự do.
    Đã nói đến thị trường tự do tức là bình đẳng mọi thành phần kinh tế, bình đẳng về mọi hoạt động trong một xã hội có thị trường tự do, nghĩa là phải có dân chủ hoàn toàn.
    Chính vì vậy mà dảng đã "chế tạo" ra cái "thuật ngữ" mà âm thanh của nó rất kiêu sa! Đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là một nền kinh tế có hai tính chất: thị trường tự do và hoạch định cứng rắn theo ý chí của đảng. Tiếc thay hai tính chất này không thể có cũng một lúc mà phải loại trừ nhau, cũng như một người không thể có hai tính chất liêm chính và tham nhũng hoặc chung thuỷ nhưng đồng thời lại lăng nhăng!
    Một nền kinh tế như thế thì tiến về đâu? Chẳng biết tiến về đâu cả!Kinh tế là hoạt động nền tảng của xã hội, thế mà kinh tế cứ loay hoay như thế thì xã hội chắc chắn sẽ bị tâm thần!
    Hết chuyện!

    Trả lờiXóa
  3. Giáo sư Phan Đình Diệu nói rằng ở Việt Nam có sự buôn bán quyền lực nhiều hơn ở các nước dân chủ vì chế độ độc đảng đã có quyền buôn bán quyền lực lại có khả năng giữ bí mật, tức là cấm người dân không được nói và người dân cũng không biết gì để mà nói khi giới buôn bán quyền lực lại có quyền lực bưng bít thông tin!

    Trả lờiXóa
  4. Kể ra thì giáo sư Phan Đình Diệu công bố một sự thật đau lòng, ấy là trong thời bao cấp, lòng trung thàng với đảng quyết định khẩu phần ăn của một người. Có một lần kể chuyện trên đài BBC, cố thi sĩ Lê Đạt kể rằng, sau vụ Nhân văn giai phẩm, ông bị đảng trừng phạt không có gạo, vợ của ông đang làm văn công, đảng vận động vợ ông bỏ ông, nhưng bà không đồng ý, thế là từ văn công,bà bị xuống làm cấp dưỡng, tình trạng lương thực gia đình ông lâm vào cảnh bi đát.
    Trong hoàn cảnh đó, ông đến gặp nhà văn Tô Hoài, ngỏ ý xin dịch một tác phẩm lấy tiền, Tô Hoài vồn vã bảo "ở đây thiếu gì tác phẩm, mày dịch rồi tao đưa in". Tuy nói thế thôi, nhưng Tô Hoài tránh chạm mặt cố thi sĩ Lê Đạt, mỗi khi thấy cụ Lê Đạt từ xa, Tô Hoài đã vội sang đường.


    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đấy là cái kiểu Dế Mèn Phiêu Lưu Ký . May quá ! Thời ấy đã qua rồi . Nhưng Lê Đạt cũng chẳng còn !

      Xóa
  5. Cố giáo sư Phan Đình Diệu nhận định điều này chưa chuẩn xác, ông nói rằng đảng cộng sản Việt Nam có hai mặt: mặt thứ nhất là cộng sản, mặt thứ hai là yêu nước. Giáo sư nói rằng nên bỏ mặt thứ nhất và giữ lại mặt thứ hai.
    Nhưng thực tế sau 80 năm hoạt động của đảng, nếu bỏ mặt thứ nhất thì đảng không còn là đảng nữa! Bởi vì đảng đâu có mặt thứ hai!

    Trả lờiXóa
  6. Thật ra thì quan niệm lao động trí óc là trí thức của giáo sư Ngô Bảo Châu không mâu thuẫn gì khi cố giáo sư Phan Đình Diệu gọi đó là các nhà toán học, nhà kinh tế, bác sĩ, chuyên viên. Điều cố giáo sư Phan Đình Diệu muốn nói chính là việc Việt Nam chưa có thể sản sinh ra các Trí thức nhân dân (Public Intellectual), trí thức nhân dân không phải chỉ là phản biện xã hội mà thôi, trí thức nhân dân là người làm sống lại cái tinh thần kẻ sĩ của dân tộc. Cố giáo sư Phan Đình Diệu đã chỉ rõ cái thất bại của nền giáo dục Việt Nam mà rất ít nhà giáo dục đề cập tới việc này! Nó không chỉ là phản biện xã hội mà là nền giáo dục mang hồn cốt dân tộc.

    Trả lờiXóa
  7. Dưới đây là nhận định của cố Giáo sư Phan Đình Diệu:

    1__“Chế độ XHCN đào tạo ra những chuyên viên hơn là những trí thức. Chúng tôi có nhiều nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, kỹ sư… và bây giờ thêm nhiều nhà kinh tế. Nhưng chưa bao giờ họ được học để suy nghĩ về các vấn đề của xã hội“. (hết trích)
    2__Trước khi bàn về vai trò trí thức, thử hỏi: trí thức là ai? Ở Việt Nam có hay không có một giới trí thức, một lực lượng trí thức độc lập về xã hội và chính trị? Đó là vấn đề quan trọng đặt ra cho mọi xã hội muốn thiết lập hay cải thiện chế độ dân chủ. Trước tiên, tôi muốn nói tới lớp những nhà trí thức đã được đào tạo dưới thời Pháp thuộc. Trong lớp này, có những nhân vật dũng cảm và đáng kính. Một vài vị còn sống nhưng không còn mấy ảnh hưởng. Thật ra, chỉ còn lại một số rất nhỏ. Chúng tôi quý trọng công lao của họ đối với dân tộc.(hết trích)
    (cố Giáo sư Phan Đình Diệu)
    __________________
    Cố Giáo sư có nhận định hết sức chuẩn xác và sắc bén về tính chất hai nền giáo dục thời Pháp thuộc và nền giáo dục XHCN. Rõ ràng có một sự chênh lệch về phẩm chất của hai lớp người ở hai nền giáo dục khác nhau. Nền giáo dục Pháp thuộc là nền giáo dục khai phóng, họ đã đưa vào nước ta tư tưởng tự do của Jean
    Jacques Rousseau, John Locke, và nhà tư tưởng có tinh thần thượng tôn pháp luật như Montesquieu và cả một nền thi ca ngợi ca tự do, tinh thần sáng tạo. Chính các nhà thơ hàng đầu của Việt Nam như Xuân Diệu cũng chịu ảnh hưởng phong trào lãng mạn (romantic Movement) của Pháp và các thi sĩ Pháp Alphonse de Lamartine, Rimbaud, Verlaine, Baudelaire, Apollinaire....và người Pháp cũng vui vẻ tiếp nhận và không cấm, không bài xích nền văn hóa thuộc địa, chính vì vậy người trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc vẫn có cái tinh thần kẻ sĩ của dân tộc và lại có tinh thần cởi mở tiếp nhận những luồng tư tưởng mới trên thế giới. Tất cả những điều này, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa hoàn toàn thiếu vắng!

    Trả lờiXóa
  8. Cố Giáo sư Phan Đình Diệu kỳ vọng đảng sẽ tự cải tạo để có ích cho quốc gia dân tộc, nhưng xem ra đảng không còn thì giờ để tự cải tạo, bởi vì đảng đang tự cứu nguy bằng cách diệt trừ tham nhũng đang tràn lan trong cơ thể đảng

    Trả lờiXóa
  9. Thật ra cái hệ thống: đảng cầm quyền-_xã hội_đảng đối lập nó cũng chỉ là các bộ phận của hệ thống điều chỉnh tự động (automatic control) mà thôi. Ở đây, đảng cầm quyền là nguồn tín hiệu vào, xã hội là cái hộp đen phát tín hiệu ra, đảng đối lập là tín hiệu phản hồi (feedback). Khi đảng cầm quyền (nguồn tín hiệu vào) ban hành một chính sách tác động vào xã hội (hộp đen) thì lập tức xã hội phát ra tín hiệu phản ứng, nếu như phản ứng của xã hội không hài lòng về chính sách ấy thì đảng đối lập phản hồi (feedback) với đảng cầm quyền, khi ấy đảng cầm quyền sẽ điều chỉnh chính sách ban hành sao cho hợp lòng dân! Thế thôi! Chẳng có gì là phản động cả!

    Trả lờiXóa
  10. Cái hệ thống Đảng_Nhân Dân_Mặt trận Tổ quốc cũng là một hệ thống điều chỉnh tự động (automatic control system), nhưng hệ thống này không hoạt động hiệu quả, vì nhiều lý do, thí dụ như tín hiệu phản hồi ( MTTQ) nhiều khi không trung thực vì sợ mất lòng đảng nên không dám phản hồi sự thật. Cho dù là MTTQ phản hồi đầy đủ sự thật nhưng đảng kiên quyết không điều chỉnh chính sách phù hợp với nguyện vọng người dân thì đương nhiên là hệ thống điều chỉnh tự động (automatic control system) này bị tê liệt hoàn toàn, không hoạt động được.



    Trả lờiXóa
  11. Bây giờ muốn hệ thống điều chỉnh tự động hoạt động tốt thì phải có căn cứ khi có sự tranh chấp giữa tín hiệu vào và tín hiệu phản hồi. Căn cứ ấy là hiến pháp. Việc phân xử đúng sai trong việc tranh chấp giữa tín hiệu vào và tín hiệu phản hồi là công việc của toà bảo vệ hiến pháp, xem bên nào vi hiến. Đó là lý do để hiến pháp là văn bản pháp quy tối cao của một quốc gia và toà bảo vệ hiến pháp cũng là toà án tối cao.

    Trả lờiXóa
  12. Hiện nay đảng ghi vào điều 4 hiến pháp khiến cho hiến pháp trở nên thiên vị. Chưa hết, để cho chắc như bắp, đảng lại không cho thành lập toà án bảo vệ hiến pháp, thì giả dụ có tranh chấp xảy ra thì người dân không có chỗ dựa khi đòi hỏi thực thi hiến pháp, người dân không biết kiện ở nơi nào!

    Trả lờiXóa
  13. Hệ thống điều chỉnh tự động phải hoạt động liên tục bất kể ngày đêm để duy trì ổn định hệ thống, đó là lý do Giáo sư Phan Đình Diệu đề xuất một xã hội "ổn định động", bởi vì khi hệ thống "ổn định tĩnh" có nghĩa là hệ thống này đã bị hỏng, bị cháy rồi, không còn hoạt động được nữa!

    Trả lờiXóa