Việt Nam phải Tây phương hóa để phát triển dân tộc
Tùng Phong
Dân Luận: Đây không phải là một bài viết dài, mà là một trích đoạn của cuốn Chính Đề Việt Nam của tác giả Tùng Phong. Độc giả nên tìm đọc cả cuốn để hiểu về tư tưởng của tác giả và con đường Việt Nam nên đi.
Lời tòa soạn Văn Hóa Nghệ An: Hội nhập quốc tế
và hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài của chúng
ta hiện nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và chính trị - kinh
tế quốc tế hiện nay, việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước là
công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi phải tỉnh táo, khách quan, có tư duy
sáng suốt, có tầm nhìn xa và trên hết, phải thực lòng yêu nước. Trên
tinh thần đó chúng tôi giới thiệu bài viết của Ngô Tùng Phong bàn về con
đường phát triển đất nước để bạn đọc có thể tham khảo.
I. Lý do phải Tây phương hóa
Vì sao Tây phương hóa?
Kể từ thế kỷ 15, khi các nước Âu Châu chế ngự được kỹ thuật vượt
biển, và bắt đầu cuộc xâm chiếm thế giới, tất cả các quốc gia không
thuộc vào xã hội Tây phương, không trừ một nước nào đều bị sự tấn công
mãnh liệt của họ. Hoàn cảnh mỗi quốc gia bị tấn công đều khác, nhưng
chung qui tất cả các phản ứng đều có thể liệt vào hai loại. Các cuộc
chinh phục thường thường tuần tự diễn ra theo một bối cảnh không thay
đổi. Trước hết, các chiến thuyền ngoại quốc đến yêu cầu được trao đổi
thương mãi với người bản xứ. Một thời gian sau họ thương thuyết được đặt
những thương quán thường trực tại các hải cảng họ thường lui tới và
theo liền với các thương quán, những phong tục mới được đưa vào cùng với
những người có nhiệm vụ thương mãi.
Nếu số người càng ngày càng đông thì chẳng bao lâu nhu cầu về tinh thần lại đòi hỏi sự có mặt của những nhà tu sĩ.
Cho tới giai đoạn này các nhà cầm quyền bản xứ, dầu có ngạc nhiên và
ít nhiều báo động đối với các kỹ thuật tiến bộ của người ngoại quốc,
cũng chưa thấy cần phải có một thái độ đối phó. Nhưng từ giai đoạn này,
mãnh lực của tín ngưỡng mà giáo lý Gia Tô đã hun đúc cho người Tây
phương trong mấy thế kỷ, bắt đầu làm cho các nhà cầm quyền bản xứ lo
ngại. Họ lo ngại trật tự cổ truyền của dân tộc sẽ bị sự xâm nhập của một
vật ngoại lai, bởi vì các tu sĩ Gia Tô, tin tưởng nơi sứ mạng thiêng
liêng của mình đối với nhân loại, nên lúc nào cũng tìm cách thi hành
phận sự truyền giáo.
Bản năng tự vệ.
Phản ứng tự nhiên của các nhà cầm quyền bản xứ, là bản năng tự vệ
của một sinh vật đối với sự xâm nhập của một vật ngoại lai vào trong nội
bộ cơ thể của mình. Mà một tôn giáo mới là một vật ngoại lai vô cùng
nguy hiểm cho trạng thái điều hòa của một xã hội. Bởi vậy cho nên, phản
ứng của các nhà cầm quyền là bảo vệ trạng thái điều hòa của xã hội bằng
cách đóng cửa không để cho vật ngoại lai xâm nhập. Trong thực tế và
trong lĩnh vực chính trị một thái độ như vậy có nghĩa là bài ngoại, và
bế quan tỏa cảng không tiếp nhận những luồng gió ở ngoài đưa vào. Đó là
thái độ tự nhiên và hợp với bản năng tự vệ của mọi sinh vật, và cũng là
thái độ của hầu hết các dân tộc bị Tây phương tấn công khi nhận thức
nguy cơ đe dọa xã hội mình. Lịch sử đã chứng minh rằng một thái độ như
vậy sẽ đắc thắng nếu đồng thời, kỹ thuật vật chất có đủ tiến bộ và lực
lượng võ trang có đủ hùng hậu để làm hậu thuẫn, bằng không, thái độ đó
sẽ là một tử lộ.
Lý trí phản công.
Thái độ thứ hai là thái độ của một vài nước như Nga, Nhật và sau này
là Thổ Nhĩ Kỳ. Thay vì đóng cửa lại đê sống trong nhà và phủ nhận thực
tế đang xảy ra ngoài ngõ mình, vì sợ vật ngoại lai xâm nhập vào và gây
xáo trộn trong nội bộ, các nước trên đây đã có can đảm để nhìn nhận sự
thật và đủ lý trí để trấn áp bản năng, phân tích thực tế và tìm được
đường sống. Một sự tình cờ lịch sử đã đặt vào nhiệm vụ lãnh đạo các quốc
gia đó, những người sáng suốt khác thường khả dĩ dẫn dắt dân tộc họ lựa
chọn tìm được sanh lộ trong một giai đoạn quyết định cực kỳ nguy hiểm.
Thái độ thứ nhất có tính cách phòng thủ và bản năng. Thái độ thứ hai
có tính cách lý trí và phản công. Đứng trước nguy cơ, thái độ thứ nhất
có nghĩa là thi hành một biện pháp dễ nhưng đưa đến thất bại, thái độ
thứ hai là thi hành một biện pháp khó nhưng đưa đến sự thành công.
Trong thực tế, trong các quốc gia đã lựa chọn thái độ thứ nhất, các
nhà lãnh đạo đã đóng cửa các hải cảng, đánh đuổi người ngoại quốc ra
khỏi lãnh thổ, bài trừ tất cả các di tích của họ để lại. Nhưng những
người này, chẳng bao lâu sẽ trở lại với những khí giới tân tiến hơn, và
những lực lượng võ trang tổ chức hoàn bị hơn và sẽ chiến thắng dễ dàng
những khí giới lạc hậu và những lực lượng vô tổ chức của người bản xứ.
Và sau đó, tất cải điều gì mà họ không chiếm được bằng lối thương thuyết
thì họ lại chiếm được bằng võ lực. Hơn nữa, sự giao hảo giữa hai quốc
gia sẽ không còn và nhường chỗ lại cho sự kiện người chiến thắng thống
trị kẻ chiến bại. Hậu quả dành cho các dân tộc lâm vào hoàn cảnh ấy như
thế nào, chúng ta đã rõ. Nguyên nhân của sự thảm bại cho nhiều dân tộc
chỉ ở chỗ bản năng tự vệ của họ quá mạnh lấn áp cả trí sáng suốt, nên
các nhà lãnh đạo không nhận thức rằng kỹ thuật lạc hậu của mình kém xa
kỹ thuật của địch, và kỹ thuật đã kém thế thì không làm thế nào hậu
thuẫn cho bất cứ chủ trương chính trị nào được.
Trái lại, trong các quốc gia đã lựa chọn thái độ thứ hai, thì các
nhà lãnh đạo đã nhận thấy nguy cơ do vật ngoại lai mang đến cho trạng
thái điều hòa của xã hội mình. Tuy nhiên, đồng thời họ cũng đủ sáng suốt
và óc thiết thực để nhận xét rằng kỹ thuật lạc hậu của nước mình không
làm sao bảo đảm thắng lợi trong một cuộc chiến tranh. Và vì vậy mà
phương pháp hay nhất để bảo vệ xã hội bị đe dọa bởi các sự vật ngoại lai
lại chính là việc mở cửa để đón các luồng gió ngoại lai vào. Bởi vì chỉ
có cách đó mới giúp cho họ chế ngự được những kỹ thuật của địch thủ, để
chống lại địch thủ.
Như chúng ta đã thấy, đằng nào chúng ta cũng không tránh được sự xâm
nhập vào nội bộ xã hội chúng ta của các vật ngoại lai. Nhưng trong thái
độ thứ nhất sự xâm nhập sẽ xảy ra bằng võ lực, ngoài ý muốn của chúng
ta và chúng ta sẽ không chủ động được. Trong thái độ thứ nhì, chúng ta
tự ý để cho sự xâm nhập thực hiện và vì vậy nên chúng ta chủ động được
sự xâm nhập đó. Và chính vì chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó mà các
giá trị ngoại lai thay vì phá vỡ được trạng thái điều hòa của xã hội
chúng ta, chỉ có thể thay đổi được trạng thái đó. Trong khi đó một sự
xâm nhập không thể kiểm soát được sẽ làm sụp đổ trạng thái điều hòa của
xã hội. Và, trong một xã hội bình thường, việc thay đổi trạng thái điều
hòa là một sự kiện thông thường, trái lại sự sụp đổ là một tai biến.
Tóm lại, đứng trước sự tấn công của Tây phương, con đường chết là
con đường bế quan tỏa cảng ngăn cấm không cho văn minh Tây phương xâm
nhập vào xã hội của nước bị tấn công; con đường sống lại là con đường mở
cửa đón rước văn minh Tây phương để học chế ngự kỹ thuật của Tây phương
mà chống lại Tây phương.
Nước Nga, sau nhiều thế kỷ chống lại sự tấn công của Tây phương, đã
tìm thấy sự thật như trên, và nhiều lần trong lịch sử nước Nga đã chiến
thắng các cường quốc Tây phương sau khi đã Tây phương hóa kỹ thuật của
mình. Nhưng cũng nhiều lần bị Tây phương chiến thắng vì kỹ thuật của Tây
phương tiến triển không ngừng trong khi người Nga không làm cho kỹ
thuật đã lấy của Tây phương phát triển. Đây cũng là một điều vô cùng
quan trọng trong việc Tây phương hóa mà chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ sau
này.
Những nhà lãnh đạo Nhật, trong giai đoạn nước Nhật bị Tây phương tấn
công, đã nhận thấy được ngay những biện pháp cần thiết phải thi hành
trong giờ phút quyết liệt cho dân tộc. Thành công của họ như chúng ta
mục kích ngày nay là một xác nhận rõ rệt nhất về sự lựa chọn đúng hay
không giữa hai thái độ.
Ngày nay, thái độ mà nước Nga và nước Nhật đã lựa chọn trước một sự
tấn công của một nước tiến bộ hơn về kỹ thuật, đã được công nhận khắp
nơi, và đã được nghiên cứu và đúc thành một giải pháp khoa học, khả dĩ
áp dụng cho các nước khác trong hoàn cảnh đó. Công cuộc mà ngày nay
Trung Hoa đang dốc hết cố gắng của toàn dân để thực hiện chỉ là một sự
chấp nhận thái độ của Nga và Nhật đã chọn. Và các nước chậm tiến khác
hiện nay cũng đang cố gắng đi vào con đường đó.
Tuy nhiên, trước đây có nhiều người lãnh đạo chủ trương một thái độ
vô cùng cực đoan. Sau khi chiến bại rồi, và nước nhà đã bị ngoại quốc
thống trị, hay chủ quyền đã sứt mẻ, và vận mạng quốc gia không còn do
mình chủ động được nữa, nhiều nhà lãnh đạo vẫn chủ trương bảo vệ cho đến
kỳ cùng trạng thái điều hòa của xã hội cũ. Đó là một công cuộc nhất
định phải thất bại.
Bởi vì các giá trị tiêu chuẩn của xã hội kết hợp thành một trạng
thái điều hòa, cũng có một đời sống như sinh vật. Nghĩa là giá trị tiêu
chuẩn cũng sinh nở, phát triển, trưởng thành, suy đồi và chết. Như vậy
trong trường hợp chiến bại, các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền sẽ chết
lần, vì chủ quyền không phải người bản xứ trọn nắm, vận mạng quốc gia
không phải họ chủ động, thì các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền một mặt
không ai vun tưới, một mặt bị các giá trị ngoại lai, đang chiến thắng,
tấn công ồ ạt và đả phá uy tín.
Như vậy, các sự kiện lịch sử, trong vòng năm thế kỷ sau này, đã
chứng minh rằng khi một nền văn minh bị một nền văn minh khác, chế ngự
được những kỹ thuật tinh xảo hơn, tấn công, thì con đường sống của nền
văn minh bị tấn công, là mở cửa đón lấy các kỹ thuật của địch thủ.
Trường hợp Ấn Độ
Tuy nhiên, năm trăm năm là nhiều đối với đời sống của một người.
Nhưng với đời sống của các quốc gia, năm trăm năm không phải là nhiều.
Và chúng ta có thể tự hỏi rằng: thái độ trên, đành rằng là thái độ lợi
nhất mà các quốc gia bị tấn công phải lựa chọn, trong thời gian vài thế
kỷ. Nhưng nếu thời gian dài hơn, liệu thái độ ấy có lợi cho quốc gia hơn
thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ không? Chắc chắn rằng
những người hành động không bao giờ nghi ngờ nữa. Câu hỏi trên tiêu biểu
cho quan điểm của một sử gia.
Và trường hợp Ấn Độ là một trường hợp có thể đưa ra để làm hậu thuẫn
cho thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sau thời gian
thống trị của đế quốc, các giá trị tiêu chuẩn cũ của Ấn Độ có vẻ, chẳng
những còn đủ sinh lực để hấp dẫn quần chúng, lại còn có vẻ sáng chói ra
khắp hoàn cầu, mang các thần-thể-tính của văn minh Ấn Độ để đối chọi lại
với tính cách kỹ thuật vật chất của văn minh Âu Mỹ.
Các nghi vấn nói trên, có thể giải đáp bằng các nhận xét dưới đây:
– Nếu năm trăm năm là một thời gian chưa đủ dài để chứng minh rằng
thái độ tiếp đón các kỹ thuật ngoại lai là thích hợp nhất, chúng ta có
thể tìm trong lịch sử, những thời đại có những biến cố như thời đại của
chúng ta, và lấy phản ứng của các quốc gia lúc bấy giờ, làm tài liệu
nghiên cứu để soi tỏ thêm vấn đề.
Trong lịch sử, thời đại đế quốc La Mã hưng thịnh và chinh phục các
quốc gia trong cái thế giới được biết lúc bấy giờ, là một thời đại có
nhiều biến cố có thể so sánh được với những biến cố của thời đại hiện
nay. Cũng có một nước mạnh, thuộc một nền văn minh tiến bộ, đi chinh
phục những nước kém về kỹ thuật, thuộc một nền văn minh đã suy nhược.
Cũng có những quốc gia, nhất định không theo mới, và, cuốn mình lại,
sống cô lập và chết mòn để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn truyền thống.
Cũng có những quốc gia, mở cửa đón tiếp các kỹ thuật mới, và, thực hiện
công cuộc phát triển dân tộc, để sống ăn nhịp với các cường quốc. Lịch
sử là một bài học. Bài học của lịch sử Hy Lạp - La Mã mà chúng ta dẫn
chứng đây lại xác nhận rằng thái độ của các nước tiếp nhận kỹ thuật của
kẻ địch là đúng.
– Trường hợp của Ấn Độ là một trường hợp khác thường khiến cho chúng
ta nhận định sai lầm về thực tế. Ông Gandhi là người đã chủ trương mạnh
mẽ nhất thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ và triệt để bài xích
văn minh Tây phương. ông cực đoan đến nỗi hô hào đồng bào của ông, không
nên mặc áo bằng vải dệt ở các xưởng ở Anh quốc hay dệt ở Ấn Độ, trong
các xưởng của người Anh nhập cảng từ Anh quốc, mà chỉ nên mặc bằng vải
tự tay mình dệt lấy.
Sức mạnh tinh thần của ông Gandhi rất phi thường và ông đã tỏ ra
nhìn thấy vấn đề một cách sâu sắc, do đó ông đã khắc phục được sự trọng
vọng của nhân loại. Và ngày nay, sự thất bại của ông bộc lộ rõ rệt ở chỗ
các đệ tử trung thành của ông đang xây dựng cho Ấn Độ một bộ máy quốc
gia theo kiểu Tây phương và các đồng bào của ông đang nỗ lực Tây phương
hóa.
Những cuộc tranh đấu anh dũng và uy tín cá nhân sáng lạng của ông
Gandhi, hợp với sự ca tụng, chính của người Tây phương, đối với thần thể
tính của triết lý án Độ, cả, trước và sau, thời kỳ bị đế quốc thống
trị, làm cho một số đông có cảm tưởng rằng thái độ bảo vệ các giá trị
tiêu chuẩn cũ có thể thích hợp hơn thái độ đón tiếp các kỹ thuật mới của
Tây phương. Và, văn minh Ấn Độ, xây dựng trên nền triết lý tôn trọng
thần thể tính được xem như có thể đối phó một cách đắc thắng với nền văn
minh thường được gọi là kỹ thuật và vật chất của Tây phương. Nhưng một
cuộc phân tích tỉ mỉ và một sự đối chiếu với thực tế không xác nhận cảm
tưởng trên.
Người Tây phương ca tụng thần thể tính của triết lý Ấn Độ cũng như
ca tụng bất cứ sáng tạo nào của nhân loại có một giá trị thật là cao cả.
Và thái độ khách quan, khoa học, và tìm hiểu đó là một trong các bí
quyết thành công của văn minh Tây phương. Cho nên sự ca tụng của người
Tây phương đối với triết lý Ấn Độ không có nghĩa là triết lý của Tây
phương khiếm khuyết thần thể tính. Và sự kiện thần thể tính của triết lý
Ấn Độ đạt đến chỗ cao siêu và hấp dẫn lý trí thuần túy, lại không có
nghĩa là triết lý Ấn Độ có thể thiết thực giải quyết các thực tế đời
sống cho nhân loại, mục đích cuối cùng của mọi hệ thống triết lý.
Lý do của tình trạng đó ở chỗ, khi phải lựa chọn một trong hai quan
điểm căn bản cho các hệ thống triết lý: nhận sự sống hay là không nhận
sự sống, thì triết lý Ấn Độ đã chọn quan điểm không nhận sự sống. Theo
quan điểm ấy, cho sự sống ở cuộc đời này là không có thực và nhân loại
cần tìm và đạt cho được sự sống ở một nơi ngoài thế gian này, chúng ta
không phán đoán xem quan điểm đó đúng hay là không đúng. Chúng ta chỉ
nhận xét rằng, ngay lúc khởi điểm, quan điểm ấy đã tự mâu thuẫn với mình
bới vì, sự sống của nhân loại, nghĩa là sự phát triển hay suy vong của
các nền văn minh trên thế giới, cũng như sự sống hằng ngày của mỗi
người, là một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được. Tìm cách giải
quyết các vấn đề đặt ra bởi sự sống, bằng cách phủ nhận sự sống thì
đương nhiên các vấn đề đặt ra bởi sự sống không còn nữa. Nhưng như thế
thì hóa ra không giải quyết gì cả.
Chính vì chỗ đó mà triết lý Ấn Độ, mặc dù đã đạt đến một mức độ cao
siêu mà ít khi tư tưởng của nhân loại đã với tới được lại không thể giải
đáp được các vấn đề của nhân loại cũng như đã không giải đáp được các
vấn đề của dân tộc Ấn.
Sau một thời gian biến hóa lâu dài, triết lý của Tây phương, ngày
nay xây dựng trên căn bản thiết thực nhận sự sống, đã tẩy xuất được mâu
thuẫn nguyên khởi giữa hệ thống tư tưởng và thực tế của đời sống, mà các
triết lý không nhận sự sống đều mắc phải, nên đã thổi vào nền văn minh
của Tây phương một sinh lực chưa từng thấy trong lịch sử của nhân loại
Và chính sinh lực đó đã bảo đảm cho người Tây phương ưu thế mà họ vẫn
giữ đến ngày nay. Các sự kiện trên càng rõ rệt hơn nữa, nếu chúng ta nhớ
lại rằng, đã có một thời, triết lý Tây phương cũng đã lấy sự không nhận
sự sống làm căn bản, và lúc bấy giờ nền văn minh của họ cũng đã trầm
lặng thay vì chói sáng và chinh phục như ngày hôm nay. Chỉ từ khi nền
triết lý của Tây phương thoát khỏi sự tự kiềm hãm mình trong một quan
điểm trừu tượng của lý trí, để mạnh bạo đụng đầu vào thực tế của đời
sống, thì văn minh của Tây phương mới phát triển như chúng ta thấy ngày
nay.
Nếu phải dùng một hình ảnh để cho lý luận được nhận thức dễ dàng
hơn, thì chúng ta có thể nói rằng triết lý của Tây phương đã có lúc, một
mình, lên đến và sống say mê trong không khí cao siêu của đỉnh núi thần
thể tính. Nhưng triết lý đó lại đủ khách quan và can đảm để nhận thấy
rằng nhiều vấn đề của nhân loại không giải quyết được từ trên đỉnh núi
đó, và, nếu các vấn đề của nhân loại không giải quyết được thì triết lý
đã thất bại trong nhiệm vụ của mình.
Vì vậy cho nên triết lý Tây phương đã mạnh bạo từ bỏ không khí cao
siêu và thoát tục của đỉnh núi, vùi mình xuống đống lầy của thực tế,
sống với nhân loại để tìm cách giải quyết các vấn đề của sự sống. Triết
lý của Tây phương đang thành công, và hiện nay nó đang cùng nhân loại
leo lên triền của một ngọn núi khác. Nhưng mặc dù đang thành công, triết
lý Tây phương lại đầy cái khiêm tốn của những người đã đụng chạm với
thực tế và đang cố gắng đi lên.
Trái lại, triết lý của Ấn Độ vẫn còn say mê với không khí cao siêu
và thoát tục của đỉnh núi thần thể tính, không rứt nổi mình ra khỏi
không khí trong và thoát khỏi đó, nên chưa ý thức rằng, từ trên đỉnh núi
đó, các vấn đề mà đời sống đặt ra cho dân tộc Ấn không giải quyết được.
Ngày nay, khi đụng đầu với triết lý Tây phương và mặc dù, hay, chính là
vì, bị dồn vào thế yếu, triết lý Ấn Độ vẫn còn trù trừ, chưa cương
quyết lội xuống bùn lầy của thực tế vì sợ mất tính chất cao siêu và
thoát tục của mình. Vì tính chất cao siêu và thoát tục là lý do hãnh
diện của những người chưa có vật lộn với thực tế.
Nói một cách khác nữa, và dùng một hình ảnh thô sơ, thì triết lý Tây
phương có thái độ của các vị Bồ Tát và triết lý Ấn Độ có thái độ của
người nhập Niết Bàn.
Vì những lý do trên đây mà, mặc dầu cái bề ngoài có vẻ trái ngược
với luật chung, ngày nay xã hội Ấn Độ, cũng như xã hội của tất cả quốc
gia đã bị đế quốc thống trị, cùng lâm vào một hoàn cảnh trầm trọng, như
chúng ta thấy trên đây. Và các biện pháp mà các nhà lãnh đạo Ấn Độ cần
áp dụng cũng là những biện pháp cần thiết cho các quốc gia đồng hoàn
cảnh. Và công cuộc phát triển dân tộc Ấn Độ mà chính phủ Nehru và chính
phủ kế tiếp đang theo đuổi hàm một sự thú nhận rõ rệt rằng Ấn Độ mặc dù
có Gandhi và mặc dù có một triết lý cổ truyền cao siêu, vẫn phải đương
đầu với các vấn đề thiết thực và vật chất của các quốc gia chậm tiến.
II. Tất yếu phải Tây phương hóa
Tây phương hóa là một sự kiện không từ chối được.
Trên đây chúng ta đã phải suy luận dông dài về trường hợp của Ấn Độ.
Bởi vì, công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa là một
công cuộc liên hệ đến sự sống còn của dân tộc. Và, mặc dầu đầy khích
động, nhưng sẽ đòi hỏi nhiều cố gắng liên tục trong nhiều năm, ở mọi
người, và đòi hỏi nhiều hy sinh nặng nề ở mọi tầng lớp nhân dân. Cố gắng
liên tục sẽ làm cho dân chúng mệt mỏi, hy sinh nặng nề sẽ gây phẫn nộ
cho dân chúng. Trong hoàn cảnh đó nếu người lãnh đạo không quả quyết tin
vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân không tin rằng công cuộc phát
triển là con đường sống duy nhất của dân tộc, thì công cuộc phát triển
không sao thực hiện được.
Vì vậy cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng,
công cuộc phát triển dân tộc chúng ta bằng cách Tây phương hóa là một sự
kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát
triển ấy ra, dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai. Một sự
tin tưởng tuyệt đối như vậy chỉ có thể có được khi nào các trường hợp
đều được xem xét một cách không thiếu sót để cho các nghi vấn đều được
giải đáp.
Và khi các điều kiện trên đã thỏa mãn đầy đủ rồi, thì tất cả mọi
người Việt Nam chúng ta đều phải quả quyết tin rằng, chúng ta cần phải
dốc hết nỗ lực để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc, bằng cách Tây
phương hóa xã hội chúng ta, một cách toàn diện mà không do dự.
Thật sự ra, công cuộc Tây phương hóa xã hội chúng ta đã tự nó bắt
đầu thực hiện từ ngày người Pháp bước chân lên đất này. Chúng ta chỉ cần
nhìn quanh chúng ta: nhà ở cũng kiến trúc theo kỹ thuật và kiểu mẫu Tây
phương, giải trí cũng tổ chức theo Tây phương, thức ăn cũng nấu theo
Tây phương. Phần lớn các cử động trong đời sống của chúng ta đều rập
khuôn theo Tây phương. Nhìn lại chính con người của chúng ta, dù chúng
ta ở thành thị hay thôn quê, chúng ta thấy rằng tất cả con người chúng
ta đều Tây phương hóa từ đầu tới chân: tóc hớt theo Tây phương, áo và
quần cắt theo lối Tây phương, may bằng những cái máy do Tây phương sáng
chế, giây nịt và giày là sản phẩm của Tây phương. Đi ra, chúng ta dùng
xe đạp của Tây phương hay xe hơi của Tây phương. Vì vậy cho nên, những
người còn ngồi nhà mà nói là phải giữ lại phong tục Việt Nam để bảo vệ
quốc hồn quốc túy là những người tự dối mình.
Nếu đã như thế thì, trên kia chúng ta còn đặt thành vấn đề sự cần
thiết của công cuộc Tây phương hóa, có phải là một hành động thừa không?
Thừa, mà cũng không thừa.
Thừa đối với những người vẫn chưa chịu nhận rằng, dầu họ không có
muốn Tây phương hóa và họ có chủ trương bảo cựu đến mức độ nào đi nữa,
thì chính con người của họ cũng đã Tây phương hóa đi rồi.
Không thừa, đối với chúng ta, là những người mong muốn thực hiện
được công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa toàn diện.
Công cuộc Tây phương hóa xã hội chúng ta mà ngày nay chúng ta mục kích
những hiện tượng, như trên đã kể, là một công cuộc Tây phương hóa bắt
buộc, dẫn dắt đến tình trạng tan rã của xã hội chúng ta. Xã hội chúng ta
bị Tây phương hóa, chớ không phải tự ý Tây phương hóa. Vì vậy mà cuộc
Tây phương hóa đã được thực hiện một cách không đường hướng, không mục
đích và chỉ lên đến một mức độ thấp kém. Cũng vì vậy mà chúng ta không
chủ động được công cuộc Tây phương hóa đã qua của chúng ta, và không có
thể dẫn dắt nó vào một chiều hướng và đến một mức độ có ích cho công
cuộc phát triển dân tộc.
Trái lại công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta phải thực hiện cho dân
tộc là một công cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, đo đó, có đường hướng và
có mục đích. Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hóa này và sẽ đưa nó
đến một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá
trị mới khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hòa mới.
Như thế nào là Tây phương hóa có đường hướng?
Dưới đây chúng ta sẽ chứng minh rằng, trên phương diện dân tộc, một công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện toàn diện và đạt đến mức độ đủ cao.
Như thế nào là Tây phương hóa toàn diện?
Trong số các nhà lãnh đạo các quốc gia bị Tây phương tấn công, những
người có thái độ đóng cửa bảo vệ giá trị cũ, như ở Trung Hoa và ở Việt
Nam, cũng như những người có thái độ mở cửa để đón văn minh Tây phương
như ở Nga và ở Nhật, tất cả đều sớm nhận định rằng sở dĩ Tây phương
thắng thế là, trước tiên, nhờ ở kỹ thuật võ trang và kỹ thuật tô chức.
Và giữa hai thái độ cực đoan như chúng ta đã phân tích trên đây phần
đông lại lựa chọn một thái độ dung hòa và khôn ngoan nhất. Thái độ nửa
chừng dựa trên lý luận sau đây:
Tây phương hóa có giới hạn.
Chúng ta chiến bại vì vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo và quân đội chúng ta thua về tổ chức. Vậy,
để chống lại địch thủ một cách hiệu quả và lâm thời thắng địch thủ,
chúng ta chỉ cần học, một là kỹ thuật sử dụng vũ khí tối tân, lúc đầu
mua của chính những quốc gia Tây phương, sau học kỹ thuật để chế tạo
lấy; hai là kỹ thuật tổ chức quân đội theo Tây phương. Với hai khí giới
đó chúng ta có thể hy vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá
trị truyền thống của xã hội của chúng ta. Như thế có nghĩa là chúng ta
chỉ cần canh tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ, mọi cơ cấu khác
trong xã hội vẫn giữ nguyên vẹn. Nhưng, lịch sử của các quốc gia đã áp
dụng thái độ đó trong hành động lại chứng minh rằng, sự thật thì các sự
kiện đã xảy ra không như những người lãnh đạo của các quốc gia ấy dự
định.
Sau khi đã quyết định canh tân quân trang và cải tổ quân đội các nhà
lãnh đạo nói trên một mặt gởi người xuất dương du học các nước Tây
phương để hấp thụ kỹ thuật mới, một mặt mướn người chuyên viên Tây
phương đến tại xứ để vừa huấn luyện người, vừa để xây cất các xưởng chế
tạo vũ khí.
Vì sao người Tây phương lại đến nhận lãnh trách nhiệm chế tạo các vũ
khí đó và vì sao các cường quốc Tây phương nhận đào tạo các chuyên viên
ngoại quốc như vậy, mặc dù họ vẫn biết, cũng như mọi người đều biết,
rằng làm như vậy là họ sẽ trao cho địch thủ những khí giới đang bảo đảm
ưu thế của họ? Có nhiều lý do khiến cho người Tây phương, cũng như những
cá nhân của các quốc gia khác, đã hành động như vậy. Trước hết là vì bị
quyền lợi vật chất quyến rũ. Thứ hai giữa các cường quốc trong nội bộ
xã hội Tây phương cũng có nhiều mâu thuẫn chính trị khiến cho mỗi cường
quốc, trong một cuộc tranh giành ảnh hưởng ác hệt, sẵn sàng tìm đồng
minh cho mình ở những quốc gia ngoài xã hội Tây phương. Và sau hết,
trong thời kỳ đi chinh phục thế giới, kỹ thuật Tây phương đã đạt đến một
trình độ rất cao và tạo cho người Tây phương một sự hãnh diện và tự tin
mãnh liệt cho đến nỗi, nếu không phải vì lợi và vì ngoại giao, thì họ
cũng không ngần ngại mà hành động như họ đã làm. Dầu sao, như chúng ta
sẽ thấy sau này, những lý do trên là những yếu tố thuận lợi, mà toàn bộ
tạo thành cơ hội giúp cho các dân tộc ngoài xã hội Tây phương thực hiện
công cuộc phát triển của mình.
Tây phương hóa có giới hạn nhất định thất bại
Trở lại vấn đề canh tân quân trang và cải tổ quân đội.
Sau giai đoạn thi hành các biện pháp nói trên một thời gian, các nhà
lãnh đạo thu lượm được một kết quả mong muốn: quân đội, võ trang bằng
vũ khí của Tây phương và tổ chức theo lối của họ, đã trở thành một lực
lượng làm cho ngoại quốc phải kính nể. Nhưng, cũng chẳng bao lâu sau đó,
sang giai đoạn thứ hai, chính các nhà lãnh đạo đó lại nhận thấy thêm
rằng, nếu muốn duy trì cái lực lượng quí báu vừa mới tạo được thì việc
huấn luyện chuyên viên, chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự, lại không đủ. Đi
sâu vào một chút, lại tìm ra là tinh xảo của vũ khí Tây phương bắt
nguồn từ các phát minh của khoa học Tây phương, và, ngoại trừ mọi vấn đề
tổ chức vật chất, sức mạnh tinh thần của quân đội Tây phương lại do tư
tưởng cá nhân của mỗi người chiến binh và tư tưởng cá nhận lại do hoàn
cảnh xã hội tạo ra.
Như vậy, muốn nuôi dưỡng một lực lượng quân sự, đã được canh tân,
lại phải đặt vấn đề hấp thụ học vấn Tây phương và như thế, là phải canh
tân nền giáo dục. Và muốn gieo cho người chiến binh một sức mạnh tinh
thần như của người chiến binh Tây phương lại phải tạo cho họ hoàn cảnh
xã hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xã hội. Mà cải tạo xã hội thì
phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ. Như vậy thì, rốt cuộc lại, phải
bỏ giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các nhà lãnh đạo đang nói đây không
dự định làm và cũng không muốn làm, vì sở dĩ các nhà lãnh đạo này chủ
trương canh tân quân đội là với mục đích bảo vệ các giá trị truyền thống
của xã hội của họ.
Ngoài ra, sự canh tân quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả
khác mà các nhà lãnh đạo cũng không ngờ. Những người muốn học về tổ chức
quân đội theo Tây phương, trước tiên phải học ngôn ngữ Tây phương để
đọc sách về kỹ thuật tổ chức quân đội của Tây phương. Nhưng khi đọc được
ngôn ngữ của Tây phương rồi, thì không làm thế nào cấm họ đọc các sách
khác của Tây phương trong những lĩnh vực khác: chính trị, văn hóa, hay
xã hội. Do đó, và vì đã sẵn trong đầu sự cảm phục chính đáng đối với Tây
phương trong lĩnh vực quân sự, những người này tự nhiên nẩy ra sự cảm
phục Tây phương trong lĩnh vực xã hội và chính trị. Và họ sớm nhận thức
rằng sức mạnh của quân đội Tây phương cũng như tính cách tinh xảo của vũ
khí Tây phương là những kết quả đương nhiên, trong lĩnh vực quân sự của
tổ chức xã hội và chính trị của Tây phương. Như vậy, họ tin rằng không
thể nào có được một quân đội hùng mạnh theo mới mà không có một tổ chức
xã hội và chính trị theo mới. Và chính những người này sẽ biến thành
những cái mầm của cuộc cách mạng chính trị và xã hội sau này. Các sự
kiện trên đây lại giải nghĩa cho chúng ta thấy vì sao mà ở một nước Thổ
Nhĩ Kỳ, và nhiều nước khác ở Cận Đông, chính quân đội lại hướng dẫn các
cuộc cách mạng chính trị và xã hội trong đầu thế kỷ hai mươi.
Trở lại vấn đề canh tân quân đội trên đây, sau khi đã canh tân quân
đội, trong giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ hai, các nhà lãnh đạo sẽ
đứng vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu họ tiếp tục cuộc canh
tân quân đội, thì bắt buộc họ phải đi đến chỗ cải tạo xã hội. Đó là
điều họ không thể làm được, bởi vì mục đích của họ khi canh tân quân đội
là để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ.
Nhưng nếu họ ngưng lại cuộc canh tân quân đội, thì việc bảo vệ các
giá trị tiêu chuẩn cũ, cũng sẽ không thực hiện được đối với sự tấn công
của Tây phương. Hơn nữa, mộtcuộc duy tân, một khi đã manh nha, tự nó sẽ
tạo ra trong cơ thể của xã hội, bắt đầu duy tân, những lực lượng càng
ngày càng bành trướng để phát triển cuộc duy tân. Nếu những lực lượng ấy
được hướng dẫn sẽ đưa đến một cuộc duy tân có mục đích, nếu không, cuộc
duy tân sẽ hỗn loạn. Nếu các nhà lãnh đạo lại dùng bạo quyền, như đã
xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ hai mươi, để hoặc là bãi bỏ
công cuộc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân trong những giới hạn họ
muốn, mặc dù họ vẫn biết rằng hành động như vậy vẫn không cho phép họ
bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, thì lực lượng cách mạng, lãnh đạo do
những người ở trong quân đội đã hấp thụ được, chẳng những kỹ thuật quân
sự mới, mà lại thêm những tư tưởng chính trị và xã hội mới, sẽ nổi lên
lật đổ các nhà lãnh đạo này.
Công cuộc Tây phương hóa, nhất định phải toàn diện
Tóm lại, nếu đóng cửa không đón tiếp văn minh Tây phương, thì, vì
kém kỹ thuật, sẽ bị Tây phương chiến bại, và biến thành thuộc địa hay
bán thuộc địa. Sau khi chiến bại rồi sẽ bị Tây phương hóa nhưng công
cuộc Tây phương hóa sẽ không được hướng dẫn và sẽ đưa đến những kết quả
thảm hại mà chúng ta biết.
Nếu muốn Tây phương hóa có giới hạn để bảo vệ các giá trị cũ thì,
một là công cuộc bảo vệ sẽ không thực hiện được và quốc gia sẽ lâm vào
tình trạng của các nước đóng cửa không tiếp đón kỹ thuật Tây phương. Hai
là sẽ tạo hoàn cảnh cho một cuộc cách mạng nội bộ để đưa đến một cuộc
Tây phương hóa toàn diện. Như vậy thì, đằng nào rồi những sự kiện lịch
sử cũng sẽ đưa đến một cuộc Tây phương hóa toàn diện. Nếu đã thế thì
thượng sách không phải là nên tự ý Tây phương hóa toàn diện hay sao? Có
như vậy một mặt chúng ta sẽ có thể rút ngắn thời gian, một mặt chúng tạ
mới có thể chủ động được công cuộc Tây phương hóa đế cho những chấn
động, mà chắc chắn một công cuộc như vậy sẽ gây ra cho xã hội ta, không
có thể phá hoại xã hội ta, như trong trường hợp một cuộc Tây phương hóa
không hướng dẫn.
Tóm lại, một công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào chúng ta
được tự ý thực hiện nó và thực hiện toàn diện, nghĩa là trên lĩnh vực
quân sự, chính trị, xã hội và theo đó là kinh tế và văn hóa.
Nếu ta tự ý Tây phương hóa, thì chúng ta chủ động được công cuộc Tây phương hóa của chúng ta và chúng ta sẽ bảo vệ được độc lập và xã hội, nhưng nhiều giá trị tiêu chuẩn phải được đổi mới.
Nếu chúng ta không tự ý Tây phương hóa thì rồi cũng bị Tây phương
hóa. Nhưng cuộc Tây phương hóa sẽ không được hướng dẫn, không đường lối
và không mục đích. Sở dĩ sự kiện phải diễn tiến theo cơ thức như đã phân
tích trên đây là bởi vì một nền văn minh là một toàn bộ quân bình, gồm
có các tiêu chuẩn giá trị, có hiệu lực trong các lĩnh vực.
Nếu chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một lĩnh
vực nào đó thì sớm hay muộn những thực hiện đó cũng lần lần kéo đến và
bắt buộc chúng ta thâu nhận những thực hiện của Tây phương trong một
lĩnh vực khác có liên hệ. Một mặt khác, nếu chúng ta đã thâu nhận những
kỹ thuật trong một lĩnh vực thì lần lần chúng ta sẽ thâu nhận những
nguyên tắc khoa học, đã làm căn bản cho sự phát minh ra các kỹ thuật đó.
Và nếu chúng ta thâu nhận các nguyên tắc khoa học, thì chúng ta lại đi
đền chỗ thâu nhận lối suy luận đã tạo ra các nguyên tắc khoa học. Nghĩa
là cơ thức của sự Tây phương hóa đi từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, và
từ cương vị thấp đến cương vị cao, từ lĩnh vực cụ thể đến lĩnh vực trừu
tượng. Và sự diễn biến, tự nhiên sẽ đến không có gì ngăn trở được. Bởi
vì những yếu tố, mà toàn bộ hợp thành một trạng thái thăng bằng, trong
một nền văn minh, không thể tách rời ra được. Sự sống, của từng yếu tố,
tùy thuộc sự có mặt của các yếu tố khác. Nếu chúng ta nhận yếu tố kỹ
thuật quân sự, sớm muộn gì chúng ta cũng phải nhận yếu tố khoa học, bới
vì, mỗi yếu tố, không thể sống một mình được, tất sẽ tự gây lại trạng
thái thăng bằng từ đó nó đã phát sinh, và trong đó nó có thể sống mạnh.
Trong sự liên lạc giữa hai văn minh, một việc này lại mang đến một việc khác và tuần tự sẽ mang đến hết toàn bộ văn minh mới.
Ví dụ, nếu chúng ta mặc vải dệt ở các nhà máy Tây phương, thì chẳng
bao lâu chúng ta lại nhập cảng những nhà máy tương tự để dệt vải theo
Tây phương tại xứ ta. Lần lần, chúng ta lại sản xuất các nhà máy tại
chỗ, và, chừng đó người nông dân của chúng ta lại bỏ đồng ruộng để lên
làm việc tại các nhà máy, và lúc bấy giờ, ngoài giờ làm việc họ lại
thích các lối giải trí của Tây phương, và lần lần đầu óc của họ cũng
nghĩ theo Tây phương, và cuối cùng, họ sẽ Tây phương hóa, từ vật chất
lẫn tinh thần. Đó là một định luật xã hội nghiêm khắc.
III. Tây phương hóa thế nào, kinh nghiệm của Nga và Nhật
Như thế nào là Tây phương hóa đến mức độ đủ cao.
Bài học của nước Nga
Trong lĩnh vực này lịch sử của nước Nga là một bài học vô cùng quí báu.
Nước Nga ở phía Đông Âu châu. Đối với Âu châu, nước Nga là một tiền
đồn, mỗi khi các bộ lạc du mục Mông Cổ và Hung-nô ở các đồng hoang phía
Đông Bắc Á châu xua quân đánh phá các dân tộc đã định cư trên hai đại
lục Âu, Á. Vị trí địa dư ấy, đã dẫn dắt đến các sự kiện lịch sử quan
trọng sau đây. Quan trọng đến nỗi, sau mấy ngàn năm biến cố khuynh đảo,
nó vẫn còn chi phối nặng nề các nguyên tắc ngoại giao giữa Nga và các
cường quốc Âu Mỹ. Và đây là một ví dụ, hết sức sáng tỏ, để chứng minh
rằng, trong đời sống của một dân tộc, một thời gian mấy thế kỷ hay mấy
ngàn năm vẫn chưa thấm vào đâu. Và cuộc cách mạng Sô Viết của nước Nga
lại làm cho các sự kiện này trở thành một bằng cớ hết sức đích xác để
chứng minh rằng dĩ vãng của một dân tộc do hoàn cảnh địa dư và sự kiện
lịch sử tạo thành, không có thể san bằng được dù là bằng một cuộc cách
mạng vô cùng táo bạo, để xây dựng tương lai.
Ngay từ thế kỷ thứ X, nước Nga đã có những sự liên lạc thường xuyên
và chặt chẽ với đế quốc La Mã; khi đế quốc này chỉ còn ảnh hưởng ở phía
Đông Địa Trung Hải và đặt kinh đô tại Constantinople, phía Bắc nước Hy
Lạp, Gia Tô giáo cũng đã chia làm hai phái, Tây phái, Giáo chủ ở tại La
Mã và Đông phái, Giáo chủ ở tại Constantinople, chống báng nhau vì nhiều
điểm về hành giáo và nghi lễ. Nước Nga, vì liên lạc với Constantinople
nên ngả theo Gia Tô Đông phái, trong khi các nước Âu châu đều được Tây
phái La Mã truyền giáo. Sự kiện này vừa là cái mầm chia rẽ giữa nước Nga
và các nước Âu châu, lại vừa là một di sản tinh thần chung cho hai bên.
Vì vậy mà trong lịch sử bang giao giữa Nga và Âu châu, tùy theo hoàn
cảnh, có lúc thì sự kiện trên có hiệu lực như là một cái mầm chia rẽ, có
lúc lại có hiệu lực là một di sản tinh thần chung.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIII, tính cách di sản tinh thần
chung lấn thế, nên sự mậu dịch rất thịnh hành giữa hai bên. Và nhiều
cuộc hôn nhân chính trị, một yếu tố vô cùng quan trọng trong thời quân
chủ, đã xảy ra giữa giòng vua Nga và các giòng vua Anh Pháp. Nếu tình
trạng này kéo dài thì, mặc dầu những điểm dị đồng giữa hai phái Gia Tô,
di sản tinh thần chung có lẽ đã thắt chặt các nước Âu châu và nước Nga
lại làm thành một khối, và lịch sử đã có nhiều sự thay đổi lớn lao.
Nhưng sau đó, vào thế kỷ thứ XIII, các bộ lạc Mông Cổ, dưới sự lãnh
đạo của Thành Cát Tư Hãn và các vị vua kế tiếp đã đưa quân đánh chiếm
gần hết Châu Á và một phần lớn Âu châu, lập thành một đế quốc gồm các
nước Đông Âu ngày nay (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Ru-ma-ni, Bulgarie) cả nước
Nga, hết trung bộ Châu Á, nội Mông Cổ, Tây Tạng và hết nước Tàu. Sự đế
quốc Mông Cổ thống trị nước Nga trên 150 năm, ngày nay, vẫn còn lưu lại
nhiều di tích vật chất và nhất là một sự kiện mà hậu quả lịch sử vô cùng
lớn lao trong nhiều thế kỷ: sự thống trị của Mông Cổ đã cắt đứt hết các
dây liên lạc nối liền nước Nga với khối văn minh Tây phương đang phát
triển.
Trong khi nước Nga bị xâm chiếm, và, nhờ vị trí tiền đồn của nước
Nga mà các nước khác ở Tây Âu đã thoát sự đô hộ của Mông Cổ, thì các
nước này, chẳng những không có lúc nào tìm cách cứu viện một đồng minh
cùng chung một di sản tinh thần, ngược lại, đã lợi dụng hoàn cảnh suy
vong của Nga, để cắt xén và chiếm nhiều phần đất thuộc lãnh thổ Nga.
Trong những lúc đó, chính là tính cách mầm chia rẽ đã thắng tính
cách di sản tinh thần chung của sự kiện mà chúng ta vừa nêu lên ở trên.
Và sau khi đế quốc Mông Cổ tan rã, nước Nga thâu hồi độc lập, thì từ đó
sự bang giao giữa Nga và các nước Tây Âu lúc nào cũng mang dấu vết cay
đắng của thời kỳ vừa qua. Do đó, lịch sử của cuộc bang giao giữa hai bên
chỉ là một cuộc chiến đấu không ngừng, kéo dài cho tới ngày nay, lúc
thì Tây Âu chiến thắng, lúc thì Nga chiến thắng, và chúng ta đang sống
vào một thời kỳ mà Nga đang chiến thắng Tây Âu.
Luôn luôn, Tây Âu nắm phần thắng những lúc nào mà kỹ thuật của họ
tiến bộ hơn của Nga. Nhưng yếu tố dân đông và đất rộng của Nga, lần nào,
cũng cứu Nga thoát khỏi một sự chiến bại hoàn toàn. Sau đó, các nhà
lãnh đạo Nga lại tìm cách thâu thập các kỹ thuật mới và khi hai bên đã
ngang nhau trên phương diện kỹ thuật thì yếu tố dân đông lại đưa phần
thắng cho Nga. Thời gian qua, kỹ thuật của Tây phương lại tiến bộ hơn
trước và đồng thời mang thắng lợi về cho Tây phương. Tấn tuồng lại cứ
như thế mà tiếp tục diễn tiến, qua nhiều thế kỷ, lúc bên này được bên
kia thua, và lúc bên kia được bên này thua.
Thâu thập kỹ thuật.
Lúc đầu sự thâu nhập kỹ thuật Tây phương không khó khăn, bởi vì sự
cách biệt giữa hai nền kỹ thuật chỉ nằm trong một vài phát minh được xem
như là những bí mật quan trọng.
Kỹ thuật chưa tiến bộ nhiều, phương pháp nghiên cứu chưa có qui củ,
các phát minh còn thô sơ và rời rạc, thỉnh thoảng tình cờ mới tìm được
một phát minh mới. Và quốc gia nào nắm được một phát minh mới, tuy thô
sơ nhưng hiếm có đó, thì đã nắm được trong tay một sức mạnh vô địch làm
nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía mình.
Ở Trung Hoa, thời đại nhà Đường, vào thế kỷ thứ VII, sự tình cờ đã
đưa đến cho Đường Thế Dân một phát minh, ngày nay chúng ta xem là thông
thường, nhưng đã làm đảo lộn thế giới lúc bấy giờ: yên ngựa có chân
đứng. Trước đó, người cưỡi ngựa chỉ ngồi trên ngựa, hai chân buông lỏng,
vì vậy mà thăng bằng không vững và kỵ binh chỉ là một phương tiện vận
tải. Với phát minh mới, người ngồi trên lưng ngựa vững như dính liền với
thú và kỵ binh trở thành một khí giới tấn công vô cùng sắc bén và dũng
mãnh. Chỉ nhờ có hai sợi dây da thô sơ buộc vào yên ngựa, nhưng lại có
một tầm quan trọng rộng lớn không ngờ, mà nhà Đường, đã chuyển thế lâm
nguy của Trung Hoa lúc bấy giờ, đang sống dưới sự đe dọa xâm lăng thường
xuyên của các dân tộc du mục Trung Á, thành một thế chiến thắng. Và nhà
Đường chẳng những đã đánh bại các dân tộc xâm lăng, giữ vững độc lập
cho Trung Hoa, lại còn chinh phục ngược lại các lãnh thổ của họ, lập
thành một đế quốc hùng cường mà nền văn minh đã chói sáng khắp thế giới
lúc bấy giờ trong hơn ba thế kỷ. Tất cả những thành tựu đó chỉ nhờ cặp
chân đứng yên ngựa.
Hơn thế nữa, cặp chân đứng yên ngựa, sau khi đã chấn hưng Trung Hoa
đến cực độ, lại còn mãnh lực xoay chiều luồng sóng chinh phục, lúc đó
đang chảy từ Tây sang Đông, thành một luồng sóng chinh phục từ Đông sang
Tây. Các dân tộc du mục Trung Á sau khi bị Trưng Hoa chinh phục và đồng
thời thâu thập được phát minh mới, nguyên nhân chính yếu của sức mạnh
của nhà Đường, đã quay lại chinh phục các dân tộc láng giềng ở phía Tây
và lân hồi làn sóng chinh phục lại chuyển từ Đông sang Tây. Phát minh
chân đứng yên ngựa cũng theo làn sóng đó mà đi từ Đông sang Tây.
Cuối thế kỷ VII cặp chân đứng yên ngựa đã nhập vào xã hội Hồi Giáo,
và nhờ nó mà xã hội này đã chinh phục gần hết các phần đất bao quanh Địa
Trung Hải.
Ví dụ trên kia cho ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của kỹ thuật
trong đời sống của các dân tộc. Lịch sử, trong thời kỳ khoa học chưa
phôi thai, còn nhiều trường hợp như vậy: làm chủ được một phát minh kỹ
thuật mới có nghĩa là làm bá chủ một vùng.
Nhưng, cũng chính ký ức những trường hợp như vậy đã làm cho những
nhà lãnh đạo các quốc gia ngoài xã hội Tây phương, sau này, như chúng ta
đã thấy, lầm tưởng rằng, chỉ thâu nhận được kỹ thuật mới của Tây phương
là đủ bảo vệ nền văn minh cũ. Họ lầm bởi vì, sau khi khoa học đã phát
triển sự nghiên cứu đã có qui củ, sự tìm tòi đã có phương pháp, các phát
minh không còn rời rạc nữa và trở thành một toàn bộ di sản của một nền
văn minh. Cho nên, như chúng ta đã biết, nếu chúng ta thâu thập một kỹ
thuật Tây phương thì chúng ta phải thâu thập hết toàn bộ kỹ thuật Tây
phương.
Trở lại vấn đề cuộc chiến đấu giữa Nga Sô và các cường quốc Tây
phương, chúng ta hiểu rõ vì sao, lúc đầu, sự thâu thập kỹ thuật Tây
phương không khó đối với Nga. Nhưng về sau, từ lúc khoa học đã bắt đầu
phôi thai, các phát minh kỹ thuật càng phức tạp hơn, và sự thâu thập
càng khó khăn hơn.
Chúng ta thấy rõ sự tiến triển của cường độ khó khăn, khi chúng ta ý
thức rằng lúc đầu sự thâu thập một kỹ thuật mới có thể thực hiện được
một cách âm thầm, sau các chiến trận hoặc trong những cuộc trao đổi
thương mãi. Nhưng về sau, có lúc chính đại đế Pierre nước Nga đã phải
đích thân hai lần cải trang sang viếng các nước Âu Châu cùng với một đội
binh chuyên viên để thâu thập kỹ thuật Tây phương. Và sau đó đã bắt đầu
kêu gọi đến kỹ thuật gia Tây phương bằng những lợi lộc hấp dẫn.
Thâu thập khá năng sáng tạo kỹ thuật.
Sự thâu thập càng ngày càng khó khăn này là một lý do khả dĩ giải
thích một phần vì sao mà trong cuộc chiến đấu với Tây phương, Nga nhiều
lần bị kỹ thuật của Tây phương lấn áp. Lý do thứ hai dưới đây, có tính
cách trừu tượng hơn nhưng lại minh biện hơn.
Trong việc thâu thập kỹ thuật, Nga vẫn theo các nếp cũ, cho nên vẫn
tìm cách thâu thập các kỹ thuật, chớ không bao giờ tìm cách thâu thập
khả năng của lý trí, khả dĩ sáng tạo được kỹ thuật. Do đó, một khi Nga
vừa chế ngự được một 'mớ kỹ thuật, thì óc sáng tạo của Tây phương đã đẻ
ra những kỹ thuật mới, tinh xảo hơn. Thành ra lối thâu thập cũ nếu có
thể áp dụng ở thời kỳ tiền khoa học, thì vào thời kỳ khoa học chỉ vừa đủ
để cho những người áp dụng chạy theo đuôi Tây phương.
Nguyên do ở chỗ trước kia các phát minh kỹ thuật là một sự tình cờ,
thỉnh thoảng mới nẩy ra lúc thì nơi này lúc thì nơi khác. Nhưng từ ngày
xã hội Tây phương đã chế ngự được khoa học, phương pháp hóa sự nghiên
cứu, qui củ hóa sự tìm tòi thì các cuộc phát minh trở thành liên tục và
biến thành một thế độc quyền của những ai chế ngự được khả năng sáng tạo
khoa học. Vì vậy mà vấn đề thâu thập kỹ thuật trước kia đơn sơ và ở vào
trình độ bắt chước, sau khi khoa học đã phát triển, phải được đưa lên
đến trình độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học. Phải như vậy, nếu những
người thâu thập kỹ thuật Tây phương không muốn lúc nào cũng chỉ chạy
theo đuôi Tây phương và lúc nào cũng bị kỹ thuật Tây phương chi phối.
Nghĩa là công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào được thực hiện đúng đến mức độ đủ cao.
Đó là bài học mà nước Nga, sau nhiều thế kỷ kinh nghiệm và bằng một
giá rất đắt, đã thâu thập được. Và đó là một bài học vô giá cho các nước
ở trong tình trạng phải Tây phương hóa để bảo vệ sự sinh tồn của mình.
Chính nước Nga đã áp dụng ngay bài học đó trong cuộc cách mạng 1917.
Và chung qui cuộc cách mạng 1917 của Nga chỉ là một cuộc Tây phương hóa
toàn diện và tự đặt cho mục đích phải đến mức độ đủ cao. Nghĩa là phải
làm thế nào khắc phục được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương.
Cuộc Tây phương hóa ở Nga đã toàn diện, nhưng cuộc Tây phương hóa của
Nga đã đến mức độ đủ cao chưa?
Thời gian còn sớm quá nên chúng ta chưa có thể trả lời quả quyết
được Tuy nhiên, sự sáng tạo các hỏa tiễn liên lục địa, các vệ tinh và
hành tinh nhân tạo, các phi thuyền không gian, và nhiều phát minh khác
trong mọi lĩnh vực, tuy không kích thích dư luận đại chúng, nhưng vẫn
không kém phần quan trọng trên địa hạt khoa học, vượt hẳn khả năng sáng
tạo của nhiều quốc gia Tây phương, là những triệu chứng cho chúng ta
đoán rằng Nga đã thành công. Tuy nhiên, hãy còn sớm quá để chúng ta trả
lời một cách dứt khoát. Ví dụ dưới đây lại thêm phần rõ rệt về tính cách
tối quan trọng của mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.
Trường hợp của Nhật
Cái hay phi thường của các nhà lãnh đạo Nhật thời Minh Trị lúc bị
Tây phương tấn công, là, mặc dầu không có cái kinh nghiệm chiến đấu
trong mấy thế kỷ chống Tây phương như Nga, lại nhìn thấy ngay sự cần
thiết của một công cuộc Tây phương hóa toàn diện. Nhưng có lẽ quan niệm
về cao độ của công cuộc Tây phương hóa không được rõ rệt lắm cho nên đến
ngày nay, mặc dầu công cuộc Tây phương hóa của Nhật đã thành tựu một
cách không ai phủ nhận được, sự chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của
Nhật chưa có dịp xuất lộ một cách rõ rệt như của Nga. Trái lại một vài
trường hợp lịch sử chứng minh rằng người Nhật trong công cuộc Tây phương
hóa toàn diện, chưa đạt đến mức độ đủ cao.
Lúc khởi đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương giữa Nhật và Mỹ, các
phi công Mỹ đều khiếp sợ thành tích, tốc độ tầm hoạt động, sự dễ lái,
hỏa lực và sức chịu đựng của loại phi cơ khu trục của Nhật gọi là Zéro.
Và các cường quốc đều xem khu trục cơ của Nhật là một thực hiện bậc nhất
trong thế giới của khoa học hàng không Nhật. Nhưng sau hai năm chiến
tranh, trọng khi Mỹ lần lần cho xuất hiện những loại phi cơ vượt hẳn
loại phi cơ Zéro về mọi mặt; thì Tổng Tham Mưu Nhật và kỹ thuật hành
không Nhật vẫn không sáng chế được một loại phi cơ nào hơn loại Zéro
được. Do đó sự làm chủ không phận lọt vào tay Mỹ và chiến thắng cuối
cùng về Mỹ như chúng ta đều biết.
Có thể nhiều yếu tố đã ảnh hưởng cùng một lúc để đưa đến sự kiện
trên. Nhưng một điều chắc chắn là trong số các yếu tố đó, có sự kiện là
cuộc Tây phương hóa của Nhật, mặc dù đã kết quả rất tốt đẹp, vẫn chưa đi
đến chỗ chế ngự một cách đầy đủ khả năng sáng tạo khoa học của Tây
phương.
Trong thời bình, mặc dầu những bí mật của quốc phòng vẫn được mỗi
quốc gia giữ gìn kỹ lưỡng, các tin tức khoa học vẫn được trao đổi giữa
các cường quốc tiến bộ, hoặc bằng lối trao đổi văn hóa thông thường,
hoặc bằng lối tình báo bí mật.
Do đó, sự chênh lệch giữa các nước về kỹ thuật không đến đỗi to tát
lắm. Nhưng trong thời kỹ chiến tranh, cố nhiên là những luồng giao hoán
đều gián đoạn và mỗi nước phải sống với cái vốn sáng tạo riêng của mình.
Lúc bấy giờ, nếu trình độ chế ngự khả năng sáng tạo khoa học của nước
mình chưa đủ cao thì kỹ thuật sẽ sút kém và ảnh hưởng nặng nề đến chiến
cuộc.
Trường hợp trên đây của Nhật xác nhận hai điểm:
Tây phương hóa đến mức độ đủ cao.
1 -Tính cách thiết yếu của sự đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa.
2. Đạt đến mức độ đủ cao của công cuộc Tây phương hóa là một điều vô cùng khó khăn.
Nếu chúng ta không đạt đến mức độ đủ cao trong công cuộc Tây phương
hóa thì chính là mục đích của công cuộc Tây phương hóa chúng ta không
đạt được. Nghĩa là những kết quả của một công cuộc Tây phương hóa không
đủ cao, sẽ không giúp cho chúng ta bảo vệ được sự tồn tại của dân tộc,
lý do chính, vì đó mà chúng ta nhận định rằng công cuộc Tây phương hóa
là cần thiết.
Nước Nhật, trong công cuộc Tây phương hóa của họ, đã đạt được nhiều
kết quả mà, chẳng những chúng ta và các nước cùng đang theo đuổi công
cuộc Tây phương hóa, đều thán phục, mà đến các nước Âu Mỹ cũng ngợi
khen. Thế mà, trong giờ phút quyết liệt của cuộc chiến đấu quyết định sự
thắng bại của dân tộc, thì kỹ thuật của họ vẫn chưa sánh kịp với kỹ
thuật Tây phương. Xem thế đủ biết rằng, việc chế ngự được khả năng sáng
tạo khoa học không phải là việc dễ làm. Nếu chúng ta đã quan niệm rằng
sự đạt đến mức độ đó là thiết yếu, thì việc đạt được vẫn còn là một việc
vô cùng khó khăn. Nay nếu chúng ta không đặt vấn đề ấy là cần thiết,
thì chắc chắn là không bao giờ chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo
khoa học của Tây phương. Và như thế là chúng ta đã đầu hàng trước khi ra
trận.
Tất cả các điều trình bày trên kia lại càng xác nhận quan điểm cho
rằng, công cuộc Tây phương hóa toàn diện và việc đạt được đến mức độ đủ
cao là thiết yếu cho sự sống còn của dân tộc chúng ta. Và bởi vì một
công cuộc Tây phương hóa như vậy sẽ vô cùng khó khăn và đòi hỏi ở toàn
dân những nỗ lực lớn lao và những hy sinh nặng nề, thì nếu không phải
chính chúng ta chủ trương và lãnh đạo lấy, thì chắc chắn rằng không làm
thế nào chúng ta có thể thực hiện được công cuộc Tây phương hóa của
chúng ta.
Độc lập để Tây phương hóa.
Sau khi đã phân tích như vậy rồi, chúng ta mới nhận thấy rằng chủ
trương của một số nhà cách mạng trước đây, đề nghị nên hợp tác với Pháp
để duy tân Việt Nam, là một chủ trương sai lầm. Sai lầm vì những người
ấy đã không phân tích vấn đề thấu đến tâm, nên tưởng rằng người ngoại
quốc có thể trách nhiệm một công cuộc Tây phương hóa như chúng ta đã
trình bày ở trên. Thật sự, trong thời kỳ người Pháp ở đây, chúng ta đã
có một cuộc Tây phương hóa.
Nhưng chính vì sự thống trị của người Pháp ở đây, nên cuộc Tây
phương hóa đó không làm sao được hướng dẫn theo một chiều hướng có ích
lợi cho đần tộc. Vì vậy cho nên, đã mang đến những hậu quả vô cùng tai
hại, mà chúng ta đều biết.
Như thế, điều kiện tiên quyết và thiết yếu để thực hiện cho được
công cuộc Tây phương hóa là phải độc lập. Có độc lập chúng ta mới chủ
động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được công cuộc Tây phương
hóa, mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế
kỷ sắp tới đây.
Theo đó thì, những nhà cách mạng đã chủ trương hợp tác với Pháp đã
đi sai đường lối. Chủ trương của họ chỉ có thể dung nạp với tác dụng của
một chiến thuật giai đoạn, để có thể đỡ khổ cho dân chúng. Chính chủ
trương của những nhà cách mạng chống Pháp một cách cực đoan là một chủ
trương đúng. Vì vậy mà như chúng ta đã biết, và như chúng ta sẽ phân
tích chi tiết hơn sau này, các nhà lãnh đạo Việt Nam theo đường lối Cộng
Sản, đã hành động đúng hoàn cảnh khi họ tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản
của Nga Sô trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập. Nhưng độc lập không
phải là mục đích, mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết, như chúng ta vừa
thấy trên đây, để có thể thực hiện được cuộc phát triển dân tộc Và khi
bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, sự tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản
còn có phải là một hành động lợi ích cho dân tộc không? Sau này chúng
ta sẽ trả lời với chi tiết câu hỏi đã nêu lên. Bây giờ ta chỉ nên biết
rằng mặc dầu sự tự qui tụ dưới lá cờ Cộng Sản, đã đưa đến nhiều kết quả
trong công cuộc chiến đấu giành độc lập. Nhưng không phải vì những thành
tích ấy mà có thể quả quyết rằng nếu muốn đạt đến những thành tích khả
quan tương tự trong giai đoạn phát triển, chúng ta lại cần phải qui tụ
dưới lá cờ Cộng. Sản, như nhiều người đã nghĩ. Hoàn cảnh đã thay đổi và
vấn đề đã thay đổi, thì giải pháp không thể giữ như cũ được.
Tây phương hóa và bản chất dân tộc.
Trong phạm vi vấn đề Tây phương hóa, chúng ta còn phải trả lời một
câu hỏi. Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc Tây phương hóa toàn diện và
đến mức độ đủ cao như trên đã nói thì liệu bản chất của dân tộc chúng ta
có còn tồn tại nữa không? Và, nếu sau cuộc Tây phương hóa mà bản chất
của dân tộc đã mất, thì công cuộc Tây phưỡn hóa có còn đáng để chúng ta
theo đuổi để thực hiện với tất cả sự gian lao và hy sinh của toàn dân
chăng? Và đã hư vậy thì chúng ta thực hiện công cuộc Tây phương hóa để
bảo vệ cái gì?
Trước hết chúng ta nên nhận xét các sự kiện đã xảy ra nếu chúng ta
không tự ý Tây phương hóa. Như chúng ta đã thấy, nếu chúng ta không tự ý
Tây phương hóa, thì trước hết chúng ta sẽ mất độc lập và sẽ mất chủ
quyền định đoạt vận mạng của dân tộc chúng ta. Sau đó, cuộc Tây phương
hóa vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh
đạo và hường dẫn. Một cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn sẽ mang
đến sự tan rã của xã hội chúng ta.
Và nếu thật sự một cuộc Tây phương hóa tự ý và có lãnh đạo không làm
tan rã xã hội, lại có thê làm mất bản chất của dân tộc, thì chúng ta có
thề quả quyết rằng một cuộc Tây phương hóa bắt buộc và không hương dẫn,
làm tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất dân tộc
của chúng ta.
Như vậy giữa hai thái độ tự ý Tây phương hóa và bắt buộc Tây phương
hóa, không còn có thể do dự nữa. Làm thế nào cũng phải lựa thái độ tự ý
Tây phương hóa, dù mà, vì cuộc Tây phương hóa đó mà bản tính dân tộc của
chúng ta có bị mất. Nếu thật sự có mất, ít ra chúng ta cũng còn bảo vệ
được độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn của xã hội.
Nhưng chúng ta sẽ chứng minh dưới đây rằng, không có gì có thể cho
chúng ta quả quyết là công cuộc Tây phương hóa, như chúng ta chủ trương,
sẽ đưa đến sự mất bản chất dân tộc.
Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu một công cuộc Tây phương hóa toàn diện đòi hỏi ở chúng ta những thực hiện gì.
Sau đó chúng ta cũng tìm hiểu một công cuộc Tây phương hóa đến mức
độ đủ cao đòi hỏi ở chúng ta những thực hiện gì? Dựa trên đó chúng ta sẽ
có đủ tài liệu để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu chương này.
Cơ thức Tây phương hóa
Như đã trình bày trên đây, nguồn gốc của một cuộc Tây phương hóa tự
ý, trước tiên hết, là ý chí muốn thâu thập kỹ thuật tổ chức quân đội và
kỹ thuật võ trang quân đội.
Thường thường thì các nhà lãnh đạo, chủ trương thâu thập các kỹ
thuật trên, đều có ý định muốn ngừng lại sau giai đoạn đó. Nhưng mà như
thế là phủ nhận một định luật xã hội không làm sao tránh được: khi hai
nền văn minh gặp nhau, liền tháo chốt cho một giòng sự kiện tuần tự diễn
tiến theo một cơ thức nhất định. Và với tất cả nỗ lực và phương tiện có
thể vận dụng được, thì ngay ở giai đoạn này, các nhà lãnh đạo, đã bắt
đầu công cuộc Tây phương hóa cũng không còn có thể ngưng lại được nữa.
Công cuộc Tây phương hóa sẽ thực hiện với họ hay là không có họ. Theo
một cơ thức nhất định, sau lĩnh vực quân sự, làn sóng Tây phương hóa sẽ
làm tràn đến lĩnh vực cơ cấu chính trị. ít khi mà lĩnh vực cơ cấu chính
trị được Tây phương hóa một cách êm ái, trừ ra khi nào chính các nhà
lãnh đạo đã ý thức được rõ rệt vấn đề tự ý Tây phương hóa, như ở nước
Nhật. Thường thường thì sau nhiều cuộc chánh biến, các cơ cấu chính trị
của chế độ cũ, nhường chỗ cho những cơ cấu chính trị theo kiểu Tây
phương. Ví dụ chế độ quân chủ chuyên chế nhường chỗ cho một chế độ quân
chủ lập hiến theo kiểu Anh hay một chế độ cộng hòa theo kiểu Pháp, hoặc
một chế độ Tổng Thống chế theo kiểu Mỹ. Bới vì lĩnh vực chính trị là một
lĩnh vực chi phối tất cả đời sống của quốc gia, cho nên sức kháng cự
lại làn sóng Tây phương hóa thường mạnh nhất ở lĩnh vực này, và công
cuộc Tây phương hóa cũng đẫm máu nhiều nhất ở lĩnh vực này.
Nhưng sau đó, từ lĩnh vực cơ cấu chính trị sang lĩnh vực giáo dục và
sản xuất kinh tế thì công việc lại trở nên dễ dàng và như không còn gặp
trở lực nữa. Bắt đầu từ đây, công cuộc Tây phương hóa lại bước sang một
giai đoạn mới. Từ trước chủ trương Tây phương hóa chưa hoàn toàn thắng
lợi và phải nhiều cam go lắm mới lọt vào được nội thành của xã hội bị
tấn công. Nhưng từ đây, chủ trương đã chiếm được thành rồi, sang giai đoạn mới, công cuộc Tây phương hóa toàn diện sẽ
không gặp những trở lực do chủ trương thủ cựu dựng lên nữa. Sự thành tựu
hay không của công cuộc Tây phương hóa, từ lúc này, chỉ còn tùy thuộc ở
quan niệm một công cuộc Tây phương hóa đến mức hay không đến mức của
người lãnh đạo.
Tây phương hóa sâu và rộng, hay là thất bại và sụp đổ.
Giai đoạn mới này lại còn có một đặc điểm khác. Từ trước tới đây chủ
trương Tây phương hóa chỉ liên quan đến số người lãnh đạo. Chủ trương
Tây phương hóa cũng họ mà chống đối cũng họ. Nhưng từ đây trở đi, vân đề
Tây phương hóa, đã ngã ngũ ở trong giới của họ, mới bắt đầu lan ra đại
chúng. Và cuối cùng thì sự thành công hay thất bại của công cuộc Tây
phương hóa lại ở chỗ sự Tây phương hóa có thật sự lan rộng và ăn sâu đến
đại chúng không? Nếu sự Tây phương hóa có lan rộng và ăn sâu đến đại
chúng thì, trong một thời giai ngắn hay dài, tùy theo những biện pháp áp
dụng để thực hiện công cuộc Tây phương hóa, sự Tây phương hóa sẽ ăn rễ ở
quần chúng. Và ngược lại những sinh lực phát sinh từ quần chúng đã bắt
đầu Tây phương hóa, lại hợp thành một hậu thuẫn vừa củng cố vừa thúc đẩy
công cuộc Tây phương hóa.
Trái lại, nếu sự Tây phương hóa không lan rộng và ăn sâu đến đại
chúng thì, trong một thời gian ngắn, quần chúng sẽ ly khai với nhóm
người lãnh đạo, và xã hội sẽ rơi vào một tình trạng phân ly rất là nguy
hiểm cho sự tiến bộ của cộng đồng. Một bên, một thiểu số Tây phương hoá,
một bên, khối đại đa số vẫn sống theo các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sự
cách biệt sẽ rất trầm trọng giữa hai bên, và công việc lãnh đạo không
thể thi hành được, giữa hai khối người không sử dụng cùng một lối suy
tưởng và không cùng tôn trọng những giá trị tiêu chuẩn chung. Trong
trường hợp đó, sự nắm chính quyền của nhóm người, đã ly khai với đại
chúng, là một hiện trạng bất thường chỉ duy trì được bằng những biện
pháp cảnh sát cứng rắn. Tình thế đã chín mùi cho một cuộc cách mạng.
Cách mạng sẽ bùng nổ, khi nào khối quần chúng được một lãnh tụ qui tụ
bằng uy tín cá nhân, hay được một đảng phái qui tụ bằng một đường lối,
hay nữa, khi nào có một cuộc ngoại xâm. Xem thế chúng ta nhận thấy rõ
tất cả các nguy hại nếu công cuộc Tây phương hóa thất bại trong giai
đoạn này và đồng thời cũng ý thức tính cách thiết yếu của một sự thành
công.
Tây phương hóa nửa chừng.
Bây giờ chúng ta trở lại các giai đoạn tiến triển của công cuộc Tây
phương hóa. Những công cuộc Tây phương hóa, phân nửa thất bại, của các
quốc gia ở Cận Đông giúp cho chúng ta một bản kê khai, khá đầy đủ, về sự
tiến triển của công cuộc Tây phương hóa trong từng giai đoạn. Nhờ đó
chúng ta được biết chắc chắn các sự kiện dưới đây.
Từ lúc chủ trương Tây phương hóa đã lọt vào thành nội cơ cấu chính
trị của một quốc gia rồi, thì từ đó sự lan tràn sang lĩnh vực giáo dục
và kinh tế không gặp khó khăn nữa.
Từ hai lĩnh vực này, công cuộc Tây phương hóa mới bắt đầu ăn sâu và
lan rộng vào đại chúng. Ở nhiều quốc gia Cận Đông ý chí Tây phương hóa
đến mức này là mãn hạn, vì sự kém khả năng huy động quần chúng của chính
quyền Trung ương.
Trong trường hợp đó, công cuộc Tây phương hóa sẽ bắt đầu thất bại và
sẽ mang đến những hậu quả không tốt, như chúng ta đã thấy trên kia.
Cũng nhờ ở những sự thất bại, nhận thấy ở trên, mà chúng ta được biết
rằng trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia, thì lĩnh vực đời sống
thông thường, mà ngày nay chúng ta quen gọi là lĩnh vực xã hội và lĩnh
vực văn hóa, là hai lĩnh vực có sức kháng cự nhiều nhất đối với sự Tây
phương hóa, sau lĩnh vực tín ngưỡng mà chúng ta sẽ bàn đến, một cách
riêng biệt, sau này.
Sở dĩ như vậy, là vì hai lý do. Trước hết sự Tây phương hóa càng đi
sâu vào những lĩnh vực liên quan đến số đông người, sức kháng cự càng
mạnh, bắt nguồn ở sức thụ động của quần chúng. Lý do thứ hai là, sức
kháng cự càng mạnh khi đụng đến các lĩnh vực liên quan đến những di sản
tinh thần của dân tộc. Nếu hai lý do trên lại có cơ hội gặp nhau ở một
lĩnh vực thì sức kháng cự lại còn mãnh liệt hơn nữa: Ví dụ như lĩnh vực
tín ngưỡng và tôn giáo.
Cho đến ngày nay, chưa có một cuộc Tây phương hóa nào, kể cả hai
cuộc Tây phương hóa thành công nhất của Nga Sô và của Nhật, đã vượt qua
được lĩnh vực tôn giáo. Sự kiện này giải thích vì sao mà thế giới hiện
nay, mặc dầu ở dưới sự chi phối hoàn toàn của kỹ thuật Tây phương, vẫn
chia ra làm nhiều khu vực văn hóa và tôn giáo rõ rệt.
Nguồn: AivietNguyen.blogspot.com
NGUỒN: DÂN LUẬN
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét