Màu “đồng chí”
XUÂN DƯƠNG
19/05/14 06:47
(GDVN)-“Màu đồng chí” không chỉ đơn thuần chỉ là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người dân Việt Nam.
Trong
 thế giới động vật, Kỳ nhông được xem là bậc thầy về biến đổi màu sắc cơ
 thể. Trong các khoa học mà loài người nghiên cứu, chỉ có "Lịch sử" là 
luôn thay đổi màu sắc, chẳng thế mà người ta hay nói: “trang sử chói lọi
 của dân tộc” hay “thời kỳ đen tối của lịch sử” hay “thời hoàng kim của 
lịch sử” …
Không
 phải là thực dụng khi người ta nói: “Không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh 
viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn”. Một khi chủ 
quyền quốc gia là tối thượng thì quan hệ bạn bè, đồng chí phải xếp vào 
hàng thứ yếu, những sự kiện đang xảy ra trên biển Đông khiến người ta 
phải hỏi: “Phải chăng quan hệ đồng chí trong con mắt giới lãnh đạo Trung
 Quốc cũng thay đổi màu sắc như Kỳ nhông?”
Gần
 hai ngàn năm trước, sau khi đem binh hùng tướng mạnh nhà Hán sang đàn 
áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã tịch thu trống đồng của 
người Việt để đúc lên chiếc cột đồng với lời tuyên bố láo xược “đồng trụ
 chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng mà đổ thì Giao Chỉ (Việt Nam cổ) sẽ bị 
diệt vong). 
| Các chiến sỹ trên tàu Cảnh sát biển 8001 chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ ở Biển Đông. | 
Thời kỳ bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm tưởng chừng đã xóa tên nước 
Việt khỏi bản đồ thế giới, thế nhưng với bao cuộc khởi nghĩa bị dìm 
trong bể máu, với ý chí độc lập không gì ngăn cản được, người Việt và 
nước Việt vẫn tồn tại và ngày càng mạnh mẽ. Hàng trăm bộ tộc Việt ở phía
 nam sông Dương Tử, kể cả nước Việt của Việt vương Câu Tiễn rốt cuộc 
cũng bị người Hán đồng hóa, chỉ còn lại hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt 
lập nên nước Âu Lạc tức Việt Nam ngày nay.  
Theo
 triết lý của đạo Phật: “Trong sắc có không, trong không có sắc”, dù bị 
người Hán tìm đủ cách đồng hóa người, trong đêm dài nô lệ vẫn âm ỉ ngọn 
lửa hồng của niềm tin vào một ngày đất nước sạch bóng ngoại bang. Lòng 
yêu nước, của ý chí tự cường là di sản mà tổ tiên để lại đã thấm vào máu
 người Việt từ thủa khai sơn, lập quốc. 
Khi
 vua Minh Chu Do Kiểm (tức Sùng Trinh) ngạo mạn ra vế đối: “Đồng trụ chí
 kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến giờ rêu vẫn mọc xanh) với phái bộ sứ thần
 nước Việt thì Thám hoa Giang Văn Minh, dẫn đầu phái bộ đã kiêu hãnh 
đáp: "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Bạch Đằng từ xưa  máu vẫn 
loang đỏ). 
Điểm
 lại đôi nét lịch sử giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc để thấy, 
vấn đề xuyên suốt mấy nghìn năm qua là Trung Quốc luôn muốn bành trướng 
xuống phía nam, luôn muốn Việt Nam trở thành quận huyện của Trung Quốc, 
chí ít cũng trở thành chư hầu nghe theo lời chỉ bảo của Trung Quốc. 
Khi
 chủ nghĩa cộng sản phát triển, người ta có một niềm tin ngây thơ về thế
 giới đại đồng, các quốc gia cùng ý thức hệ sẽ chung một mái nhà, rằng 
tình đồng chí là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt chính trị, kinh tế, xã 
hội…  Điều này có vẻ đúng trong nửa đầu thế kỷ 20, khi đó “màu đồng chí”
  thường là màu đỏ. 
Trong
 cái đỏ nhiệt huyết, đỏ cách mạng, người ta vẫn thấy cái vằn đỏ trong 
ánh mắt của “đồng chí” phương Bắc, “màu đồng chí” không chỉ đơn thuần 
chỉ là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người dân 
Việt ở biên giới Tây Nam do bọn Pôn Pốt gây ra dưới sự giật dây của 
“đồng chí”, là máu của hàng vạn chiến sĩ chúng ta đã đổ trong cuộc chiến
 chống xâm lược năm 1979 mà các “đồng chí” khoe là “dạy cho Việt Nam một
 bài học”.
Sau
 năm 1979, màu “đồng chí” lúc vàng lúc xanh, vàng vì hàng ngày, hàng giờ
 khắp núi rừng biên giới không lúc nào bình yên, hết cột mốc bị dịch 
chuyển, đến tung tiền mua rễ cây, lá cây  khiến cây vàng lá chết lụi. 
Xanh vì hàng trăm hecta rừng biên giới được thuê làm gì không biết, xanh
 vì những lồng bè rình rập trên sóng biển Nha Trang khi bị phát hiện thì
 “đồng chí” vội bỏ chạy về nước.
Cho
 đến hôm nay, màu “đồng chí” không đỏ vàng hay xanh, nó đã trở thành màu
 đen, màu của dầu mỏ ngoài biển Đông, màu của lòng tham, của sự dối trá,
 thói hợm hĩnh của kẻ giàu và coi thường đạo lý.
Ông
 Tập Cận Bình, lãnh đạo Trung Quốc cho rằng “người Trung quốc không có 
gen xâm lược”? Quả đúng như vậy, tập hợp toàn bộ tinh hoa của nhân loại 
để phân tích bản đồ gen người cũng không tìm được “gen xâm lược”. Thế 
mới thấy sự thâm trầm của người mà ta ngộ nhận là “đồng chí”. Ông Tập 
Cận Bình không dại gì mà nói rằng Trung Quốc không hề mang quân đi xâm 
lược nước khác, nói thế thiên hạ không cười trước mặt thì cũng cười sau 
lưng. 
Người
 ta không khỏi thắc mắc Tôn Tử viết binh pháp để làm gì? Phải chăng binh
 pháp Tôn Tử chỉ để dành cho người Hoa đánh lẫn nhau? Những đạo quân 
Trung Quốc từ đời Hán, Đường đến đời “đồng chí” tấn công Việt Nam không 
với mục đích xâm lược thì vì mục đích gì?
Trong
 số 10 vị nguyên soái khai quốc công thần của Trung Quốc, chín người đã 
nhận cái chết một cách buồn thảm chưa kể Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Đối
 đãi với đồng chí trong nước còn như thế thì người ta còn ngại gì với 
các “đồng chí” nước ngoài?
Suy
 cho cùng, sự thị uy, ra oai của các con thú to với bầy thú nhỏ cũng là 
điều bình thường trong thế giới động vật. Những loài nhỏ bé cần có vũ 
khí tự vệ để không bị tiêu diệt, quan trọng không phải là sức mạnh, loài
 gấu to là thế chỉ bị vài con ong bé tẹo đốt là phải bỏ chạy.  
Trong
 thế kỷ 20, không có bất kỳ dân tộc nào như người Việt đã phải cầm súng 
chiến đấu với bốn kẻ địch mạnh nhất thế giới là Pháp, Mỹ, Nhật, Trung 
Quốc. Sự tôi luyện trong chiến tranh khiến người Việt không biết sợ bọn 
xâm lược, tuy nhiên sự cảnh giác không bao giờ thừa. Các nước lớn luôn 
có những thỏa thuận trên lưng nước nhỏ, trước kia người ta mong chúng ta
 cứ đánh nhau với Mỹ càng lâu càng tốt, ngày nay nhiều nước lại muốn 
chúng ta đánh nhau với Trung Quốc. Những lời hứa, những sự mách nước đều
 xuất phát từ quyền lợi của chính họ, nếu chiến tranh nổ ra bên thứ ba 
mới là kẻ hưởng lợi.
Người
 Việt cần một trái tim nóng trong cái đầu lạnh, chỉ cần biển Đông không 
yên ổn, dòng hàng hóa bị tắc nghẽn thì nhiều nền kinh tế sẽ rơi vào 
khủng hoảng, đó mới là điều mà chúng ta cần quan tâm để bảo vệ tổ quốc. 
Những biểu hiện quá khích không phải là điều kẻ mạnh theo đuổi. 
Chúng
 ta không nhằm vào những người Trung Quốc làm ăn trên đất Việt nếu họ là
 người lao động bình thường, tuân thủ pháp luật Việt Nam, chúng ta cũng 
không vơ đũa cả nắm như người nào đó rằng “người Trung Quốc không có gen
 xâm lược”. Đa số người dân lao động Trung Quốc cũng đang bị lừa bịp, bị
 nhồi sọ bởi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, họ không đáng bị ghét, đương 
nhiên bọn do thám, gián điệp, bọn làm ăn phi pháp thì phải nghiêm trị. 
Kinh
 dịch của người Trung Quốc coi số chẵn là số tử, đặc biệt là số 4 ứng 
với bước tử trong tiến trình “sinh, lão, bệnh, tử”, vì lẽ đó người ta 
không làm bậc cầu thang chia hết cho 2 hoặc cho 4. Quan hệ đối ngoại 
Việt Nam - Trung Quốc từng dựa vào “16 chữ vàng” và “4 tốt”, xem ra cả 
hai con số này đều rơi vào bước tử, chúng ta chẳng trông mong được gì 
vào cái khẩu hiệu mà người ta vẽ ra nhằm che mắt kẻ khờ. Nếu cần phải 
chọn, hãy chọn số 9, đó là nơi thượng đế ngự trị (9 tầng mây) đó chính 
là 9 từ trong lời dạy của Cụ Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Đã
 đến lúc, chúng ta nên tự hỏi sau màu đen, màu “đồng chí” sẽ là màu gì? 
Hãy sòng phẳng với họ và cũng sòng phẳng với dân để tránh ảo tưởng về 
một người bạn đang thủ dao găm trong túi.
Nếu phải đối đầu trong cuộc chiến, người Việt sẽ không rút gươm trước kẻ thù nhưng sẽ là người tra gươm vào vỏ sau cùng./.
Nguồn: Giáo dục VN.
 
Cảm ơn tác giả Xuân Dương - bài viết rất hay, sâu sắc và rất đáng để suy ngẫm!
Trả lờiXóaTQ bán đứng Việt Nam, cướp lãnh thổ, làm hại Việt Nam quá nhiều lần rồi, nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm gìn giữ công thức gia truyền 16+4.
Trả lờiXóaKhổ lắm các bác ơi, mình chưa kịp chọn số 9 thì cái giàn khoan dầu nó đã chọn số 981 (8 cộng 1 cũng là số 9), nhưng tôi tin nó sẽ gặp điềm gở, thứ gian tà, đểu cáng, ngụy quân tử... thì chọn cho số mấy cũng là SỐ MẠT.
Trả lờiXóa