thời Việt Nam Cộng Hòa
Trần Văn Chánh
27/10/2014
C. SƠ LƯỢC CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA
ĐẠI HỌC
Bậc đại học phổ thông (Văn khoa,
Luật khoa…) và chuyên nghiệp (Y, Dược, Sư
phạm…) của miền Nam trước 1975 đào tạo
cử nhân, cao học và tiến sĩ. Hệ thống
đại học được tự trị về
học vụ và chuyên môn theo quy định của Hiến
pháp 1967, không lệ thuộc Bộ Giáo dục, cũng không
có cơ quan chủ quản (trừ trường Y
Dược thuộc Bộ Y tế chủ quản), vì
thế chương trình học và sách giáo khoa cũng
được tự do, phần lớn chỉ tùy
thuộc ở giáo sư phụ trách giảng dạy bộ
môn dưới sự chấp thuận của Hội
đồng Khoa và Khoa trưởng của mỗi nhà
trường riêng biệt.
Nói chung, chương trình
học trong các cơ sở giáo dục đại học
miền Nam được chia làm ba cấp. Cấp 1
học 4 năm, nếu theo hướng các ngành nhân văn,
khoa học… thì lấy bằng cử nhân (như cử
nhân Triết, cử nhân Văn chương, Toán…); nếu
theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng
tốt nghiệp (như bằng tốt nghiệp
Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp
Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng
kỹ sư (thí dụ kỹ sư Điện,
kỹ sư Công chánh…). Cấp 2, học thêm 1-2 năm
sẽ thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ
đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur
de troisième cycle, tương đương thạc sĩ bây
giờ). Cấp 3, học thêm 2-3 năm có thể làm
luận án để lấy bằng tiến
sĩ (tương đương
với bằng Ph. D của Hoa Kỳ). Riêng ngành Y, vì phải
có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau
khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
học thêm 6 năm hay lâu hơn mới hoàn tất
chương trình đại học.
Vì hệ thống
đại học rộng lớn phức tạp, tri
thức đại học lại quá mênh mông, nên tại
đây, chỉ xin nói lướt qua riêng về chương
trình học của các trường đại học-cao
đẳng sư phạm, và về tình hình chung của sách
giáo khoa các trường đại học, cao đẳng,
giai đoạn 1955-1975.
Thời VNCH, có nhiều
trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu
học và giáo học bổ túc như Quốc gia Sư
phạm (Sài Gòn), Sư phạm Long An, Sư phạm Vĩnh
Long, Sư phạm Quy Nhơn, Sư phạm Ban Mê Thuột
(Buôn Ma Thuột)…, hoặc các trường sư phạm
đào tạo giáo sư trung học đệ nhất
cấp, đệ nhị cấp như Cao đẳng
Sư phạm sau đổi thành Đại học Sư
phạm (Sài Gòn, Huế, Đà Lạt). Có Đại học
Sư phạm 1 năm đào tạo giáo sư Trung học
Đệ nhất cấp; 3 năm đào tạo giáo sư
Trung học Đệ nhị cấp. Nói chung, loại
trường nào cũng gồm nhiều ban như Việt
văn, Triết, Sử Địa, Pháp văn, Anh văn,
Toán, Lý hóa, Vạn vật… tương ứng với các môn sẽ
dạy khi ra trường, vừa giúp các giáo sinh củng
cố, mở rộng kiến thức chuyên môn (học
về nội dung các môn mình sẽ dạy), vừa đào
tạo khả năng chuyên nghiệp cho họ về khoa
sư phạm cả lý thuyết lẫn thực hành.
Lấy Đại học Sư
phạm Sài Gòn (thuộc Viện Đại học Sài Gòn)
làm tiêu biểu. Chương trình học tại đây thay
đổi tùy theo ngành mà giáo sinh được lựa
chọn. Như ngành Đệ
nhất cấp học trong 2 năm với quyền
chọn một trong 4 ban: Việt văn, Anh văn, Toán, Lý
hóa. Ngành Đệ nhị
cấp học 4 năm, chọn một trong 4 ban: Anh
văn, Pháp văn, Toán, Lý hóa. Nếu đã có sẵn
Chứng chỉ Dự bị Đại học của
trường khác, giáo sinh được miễn học
năm Dự bị ở Sư phạm và chỉ phải
học 3 năm ở ngành Đệ
nhị cấp, với tất cả 7 ban
được lựa chọn, gồm: Việt Hán, Sử
Địa, Anh văn, Pháp văn, Toán, Lý hóa, Vạn vật.
Riêng ở ngành Đệ
nhị cấp Cấp tốc, giáo sinh chỉ học 1
năm.
Các môn học thay đổi tùy
theo từng ban. Thí dụ ban Việt Hán, phải học các
phần Việt học, Cổ học, Hán văn và
ngoại ngữ (Anh hoặc Pháp); ban Sinh ngữ phải
học về Văn hóa, Văn chương, Văn phạm
thực hành và một ngoại ngữ khác với sinh
ngữ đã chọn…
Về chuyên môn, phải học
một số môn như: Lịch sử giáo dục Việt
Nam và Đông phương, Tâm lý giáo dục, Giáo dục
hướng dẫn, Giáo dục đối chiếu,
Phương pháp dạy học, Luân lý chức nghiệp,
Vấn đề giáo dục, Quản trị học
đường.
Trước năm 1975, đã
thấy có những sách tiếng Việt xuất bản
phục vụ cho chuyên ngành sư phạm như sau:
- Sư
phạm khoa giản yếu của Phạm Xuân
Độ và Ngô Đức Kính, tác giả xuất bản
tại Sài Gòn năm 1957.
- Tâm
lý học ứng dụng của Phạm Xuân Độ,
Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất
năm 1958, lần thứ 3 năm 1970.
- Sư
phạm lý thuyết của Trần Văn Quế, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần thứ
nhất năm 1964, lần thứ 2 năm 1968.
- Sư phạm thực hành
của Trần Văn Quế, Bộ
Quốc gia Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964,
lần thứ 2 năm 1969.
- Sư
phạm chuyên biệt của
Hồ Văn Huyên, Bộ Quốc gia Giáo dục in
lần thứ nhất năm 1969.
- Phương
pháp dạy học của Mai Tâm và Long Điền, do Giáo
dục nguyệt san xuất bản.
- Nghệ
thuật dạy học của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo
dục nguyệt san xuất bản, in lần thứ 2
năm 1969.
- Sổ
tay sư phạm của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục
nguyệt san xuất bản.
- Tâm lý giáo
dục của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt
san xuất bản.
- Tâm lý thanh
thiếu niên của Sư huynh Mai Tâm, do Giáo dục
nguyệt san xuất bản.
- Triết lý
giáo dục của Mai Tâm, do Giáo dục nguyệt san
xuất bản.
- Luân lý
chức nghiệp nhà giáo của
Nguyễn Gia Tưởng, Bộ Quốc gia Giáo
dục in lần thứ nhất năm 1968.
- Luân
lý chức nghiệp của Lê Thanh Hoàng Dân-Nguyễn Hòa
Lạc, do Trẻ xuất bản tại Sài Gòn năm 1971.
- Tác
phong nhà giáo, dịch của H. Simon, do Giáo dục
nguyệt san xuất bản.
- Lịch
sử giáo dục của Nguyễn Văn Kế, do Giáo
dục nguyệt san xuất bản.
- Các
vấn đề giáo dục (2 tập) của nhóm Lê
Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức…, do Trẻ xuất
bản tại Sài Gòn năm 1971.
- Vấn
đề giáo dục của Nguyễn Hổ Dư và
Trần Doãn Đức, Văn khoa xuất bản năm
1971.
- Quản
trị học đường của Trần Văn Quế-Ngô Kim Xán-Vũ Nam
Việt, Bộ Quốc gia Giáo dục in lần
thứ nhất năm 1964.
- Quản
trị và thanh tra học đường của nhóm Lê
Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức…, Trẻ xuất
bản tại Sài Gòn năm 1972.
Ngoài ra, đáng chú ý có những
dịch phẩm dùng tham khảo cho ngành sư phạm
của nhà xuất bản Trẻ (phân biệt với Nxb
Trẻ TP HCM bây giờ) do Trần Hữu Đức và Lê
Thanh Hoàng Dân chủ biên. Đã dịch được
một số cuốn như: Lịch
sử giáo dục, Triết
lý giáo dục, Kinh nghiệm
nhà giáo, Giáo dục mới,
Tâm lý nhi đồng, Tâm lý giáo dục, Phái nữ, Phương pháp sư phạm, Tâm lý tình cảm, Tánh
tình và giáo dục, Trẻ khó
dạy... Tất cả đều đã được
xuất bản trong khoảng những năm 1970-1971.
Sách bàn về nghề giáo, nhà
giáo có 3 cuốn đáng chú ý: Vài
ý nghĩ của giáo Mưu của Vũ Ngô Mưu do Nhóm
Thiện Chí xuất bản, Sài Gòn, 1965 (dày 84 trang, gồm 7
chương, nêu những kinh nghiệm, những nhận xét
của tác giả “về một vài vấn đề
dạy học để gửi tới đồng
nghiệp bốn phương”); Câu
chuyện thầy trò của Huỳnh Phan (Nguyễn
Hiến Lê đề tựa, Nxb Trí đăng, 1970; tập hợp
các câu chuyện nhỏ và những bài thảo luận về
tình nghĩa thầy trò và quan hệ giữa thầy và trò); Nhà giáo
của Nguyễn Văn Y (Nxb Nam Hà, Sài Gòn, 1973).
Nếu tính chung về sách giáo
khoa đại học các ngành (ngoài ngành sư phạm) thì có
thể nói sinh viên trước đây phần lớn
đều học theo giáo trình (cours) do các giáo sư,
giảng viên đại học tự biên soạn cho môn
học mình phụ trách, phần lớn in roneo, một
số khác được in typo với kỹ thuật
đơn giản, ít chú trọng hình thức. Tỷ như
Đại học Luật khoa Sài Gòn, khi ghi tên theo học,
ngay đầu năm phải đóng luôn tiền mua sách
với giá khá cao, cho 9 môn học của năm thứ I
(gọi là Cử nhân I): Kinh tế học, Luật Hiến
pháp, Dân luật, Cổ
luật, Pháp chế sử, Quốc tế công pháp, Diễn
tiến kinh tế xã hội, Danh từ kinh tế, Luật
đối chiếu. Những sách này thường có ghi dòng
chữ ngoài bìa: “Giảng văn dùng cho các sinh viên, cấm
bán tại các hiệu sách”, hoặc “Sách này chỉ ấn
hành rất hạn chế để dùng trong phạm vi
trường Luật”… Vì sinh viên năm thứ I đông
(khoảng trên dưới 20 ngàn) nên sách giáo khoa cũng trở
thành một “nguồn lợi” kiếm thêm của một
số giáo sư Đại học Luật.
Ở Đại học Văn
khoa Sài Gòn, việc phổ biến sách giáo khoa cho sinh viên xem
ra có vẻ “văn nghệ” và phóng khoáng hơn. Phần
lớn giáo sư chỉ định cho tổ chức sinh
viên trong nhà trường quay ronéo bài giảng với giá
rẻ; một số khác dạy các môn Văn, Sử,
Triết… thường có sách vừa để học trong
trường vừa tiêu thụ ra ngoài như mọi sách
đọc phổ thông khác (như của các tác giả Thanh
Lãng, Phạm Văn Diêu, Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Thế
Anh, Kim Định, Nguyễn Văn Trung, Lê Tôn Nghiêm,
Nguyễn Duy Cần…), thường in đẹp. Ngoài sách
ở thư viện (với khoảng 20.000 sách và 200
chỗ ngồi) mà sinh viên được sử dụng,
các giáo sư cũng thường đề nghị sinh viên
quay ronéo thêm tài liệu tham khảo, đặc biệt là
đối với những sách cổ, sách cũ quý hiếm
(như Kinh Thi của
Tản Đà, Đường
thi trích dịch của Bùi Khánh Đản…), sách của
các tác giả miền Bắc.
Một số sách giáo khoa dùng
chung cho nhiều trường đại học hoặc có
đối tượng sử dụng rộng đã
được Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục
xuất bản, như Cây
cỏ miền Nam Việt Nam (in lần 2 năm 1970), Sinh học thực vật (in
lần 3 năm 1972), Tảo
học (in lần 2 năm 1972), Hiển hoa bí tử (in lần 1 năm 1968), Rong biển Việt Nam (in
lần 1 năm 1968), của Phạm Hoàng Hộ; Nông học đại
cương của Tôn Thất Trình (in lần 1 năm
1967); Sản khoa của BS
Đặng Hóa Long (in lần 1 năm 1968); Giao thoa (in lần 1 năm 1969), Nhiễu xạ (in lần 1 năm 1969), Phân cực (in lần 1 năm
1971), Phổ học (in
lần 1 năm 1971) của Nguyễn Chung Tú; Điện học của Võ
Đức Diễn (in lần 1 năm 1970); Việt Nam Dân luật khái luận (1961), Việt Nam Dân luật
lược khảo (1962) của Vũ Văn Mẫu; Luật Thương mại toát
yếu của Lê Tài Triển (in lần 1 năm 1959); Nhập môn Triết học
Ấn Độ của Lê Xuân Khoa (in lần 2 năm
1972); Lược khảo
văn học I, II của Nguyễn Văn Trung (in
lần 1 năm 1968); Luận lý
Toán học đại cương của Lê Thành Trị
(in lần 1 năm 1972); Lịch
sử Triết học Đông phương của
Nguyễn Đăng Thục (in lần 2 năm 1968); Tự điển chữ Nôm
của Nguyễn Quang Xỹ-Vũ Văn Kính (in lần 1
năm 1971).
Ngoài ra, còn có những sách về
danh từ chuyên môn do Ủy ban Soạn thảo Danh từ
Khoa học của Khoa học Đại học
đường (năm 1967 đổi thành Ủy ban
Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn) biên soạn,
như Danh từ Toán học
Pháp Việt, Danh từ Hóa
học Pháp Việt, Danh
từ Thực vật Pháp Việt, Danh từ Động vật Pháp Việt, Danh từ Mỹ thuật Pháp
Việt…
Cũng có trường
đại học lập được Ban Tu thư,
như Viện Đại học Huế, nhưng chỉ in
được lẻ tẻ vài sách tham khảo. Đôi khi
cũng có một nhà xuất bản tư nhân nào đó
chịu nhận in sách cho giáo sư đại học,
chắc do có sự quen biết, nhưng trường
hợp này hiếm, và thường thì tác giả phải
tự lo xuất bản lấy.
Việc in sách giáo khoa bậc
Đại học do tư nhân phụ trách có lẽ chỉ
bắt đầu phát triển và thành nếp khá hơn
kể từ năm 1969 khi có sự tham gia của nhà
xuất bản Lửa thiêng, xuất bản tổng
hợp nhiều thứ sách nhưng chủ yếu nhắm
vào sách giáo khoa đại học hoặc sách tham khảo cho
trình độ tương đương đại
học. Đây là một nhà xuất bản tư nhân có quy
mô hoạt động lớn, chỉ trong vòng 5 năm, tính
đến năm 1974, đã xuất bản được
khoảng 130 đầu sách, thuộc đủ các bộ
môn khoa học. Có thể kể vài cuốn trong số đó
như: Dân số học của
Lâm Thanh Liêm (1969), Bán đảo
Ấn Độ (Từ khởi thủy đến thế
kỷ XVI) của Phạm Cao Dương (1970), Việt Nam dưới thời
Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh (1970), Thổ nhưỡng học
đại cương của Thái Công Tụng (1970), Nhân chủng học và
lược khảo thân tộc học của Bửu
Lịch (1971), Phương pháp
nghị luận và phân tích văn chương của
Nguyễn Thiên Thụ (1971), Căn
bản địa chất học của Trần Kim
Thạch (1971), Khí tượng
canh nông của Nguyễn Kim Môn (1972), Địa chấn học nhập môn của
Nguyễn Hải, Pháp văn
tuyển dịch của Lê Trung Nhiên (1972), Văn chương Nam Bộ và
cuộc kháng Pháp 1945-1950 của Nguyễn Văn Sâm (1972),
Triết học và Khoa học
của Đặng Phùng Quân (1972), Sắt thép thế giới của Sơn Hồng
Đức (1972), Hình luật
tổng quát của Nguyễn Quang Quýnh (1973), Cơ cấu Việt ngữ
của Trần Ngọc Ninh (1973), Lịch sử các học thuyết chánh trị
của Nguyễn Ngọc Huy (năm 1973), Hán văn tân khóa bản của Nguyễn Khuê (1973),
Dân số thế giới
của Ngô Văn Lắm (1973), Nham
thạch thông thường của Liêu Kim Sanh (1973), Văn học và Ngữ học
của Bùi Đức Tịnh (1974), Thống kê thực dụng của Châu Nguyệt
Hồng (1974)…
TẠM
KẾT
Qua sự tổng hợp tư
liệu và phân tích, nhận định cho từng phần
như trên, chúng ta nhận thấy chương trình học
và sách giáo khoa miền Nam trước năm 1975 có cả
những mặt ưu điểm lẫn khuyết
điểm. Nhất là về chương trình, mặt
khuyết điểm tồn tại khá nhiều, bị
không ít nhà giáo dục lên án, đại khái cho rằng còn quá
nặng mà lại thiên về cái học từ chương
khoa cử thoát ly thực tế cuộc sống, vốn
chịu ảnh hưởng chương trình học cũ
của thời phong kiến và của Pháp. Tuy nhiên, các nhà
chức trách giáo dục nói chung đã rất có thiện chí
biết lắng nghe dư luận của các giới quan
tâm, nên qua nhiều lần sửa đổi, chương
trình học cũng ngày càng nhẹ đi, nhất là ngành giáo
dục những năm cuối cùng của chế
độ đã tích cực hướng sang chương
trình giáo dục Tiểu học Cộng đồng bằng
việc cộng đồng hóa 100% các trường tiểu
học (theo Nghị định số 2463-GD/PC/NĐ ngày 25/11/1969),
cũng như đã khởi động trên thực tế
chương trình trung học tổng hợp với nội
dung giảng dạy sát với đời sống hơn qua
việc thử nghiệm ở Trường Trung học
Kiểu mẫu Thủ Đức và một số
trường khác ở các tỉnh.
Khi nghe lời phê bình gay gắt
của các nhà hữu tâm với giáo dục, chúng ta dễ có
cảm giác như thể tất cả các bộ
chương trình Trung, Tiểu học do Bộ Giáo dục
soạn ra đều hỏng bét hết cả nhưng
thực tế chắc không phải vậy. Việc
đời cũng như việc trị nước thông
qua công trình tổ chức giáo dục quốc dân, bao giờ
cũng có hai mặt, nếu “nhân bản, dân tộc, khai
phóng” quá cũng chết, còn như ngược lại,
cứ quá đà chạy theo khoa học-kỹ thuật
thực dụng để công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước như bây giờ
người ta hay nói cũng có chỗ không ổn. Vì phát
triển khoa học-kỹ thuật hướng tới
thực dụng mà không dựa trên nền tảng triết
lý giáo dục nhân bản thì tất yếu cũng sẽ
sinh ra nhiều điều tai hại, về mối quan
hệ giữa người với người trong xã
hội cũng như giữa con người với thiên
nhiên, mà hậu quả là sự tha hóa con người và phá
hủy môi trường sống, vô phương cứu
chữa, như trường hợp Trung Quốc hiện
nay sau mấy mươi năm “đại nhảy vọt”
mà nhà cầm quyền Trung Quốc tự hào là thành công
nhưng chính họ cũng đang phải xét lại
nhiều mặt.
Cho nên bình tĩnh mà xét, có lẽ
chúng ta cũng nên cảm thông sâu sắc với những nhà
soạn thảo chương trình thời đó: nắm
quyền “định đoạt” giáo dục trong tay
với chút ít quan liêu chủ nghĩa, phần lớn họ
đều được đào tạo trong thời Pháp
thuộc, đã quen với những bộ chương trình
học nặng nề dày cộp đầy lý thuyết
của Pháp, nên tuy có thực tâm cải cách họ vẫn khó
thay đổi tư duy nhanh chóng trong một sớm một
chiều; mặt khác, họ cũng có phần hơi hào
hứng, lãng mạn, lý tưởng ở chỗ đòi
hỏi nỗ lực học tập quá nhiều ở con em
mình, cũng như đã quá chú mục theo đuổi
triết lý giáo dục nhân bản, nên dễ thoát ly thực
tế. Tuy nhiên, nếu chọn một đường
lối chiết trung nào đó thì có lẽ hay hơn, bởi
một phần nếu học hành theo lối của họ
bên cạnh cái dở cũng có nhiều điều bổ
ích, trên thực tế đã đào tạo nên một
thế hệ thanh niên tương đối tốt về
chất lượng học vấn, nhất là ở
chỗ họ không bao giờ quên phải giáo dục nhân cách
con người và lòng nhân ái qua những bài học của
các môn Văn, Sử, Đức dục, Công dân giáo dục…,
trên tinh thần luôn không hoàn toàn đồng thuận với
mọi sự kích động về lòng căm thù giữa
đồng bào và đồng loại.
Còn về sách giáo khoa,
chương trình học định ra thế nào thì sách giáo
khoa cũng như thế ấy. Nói chung, về nội dung
biên soạn tốt theo chương trình quy định
của Bộ Giáo dục, theo đúng triết lý “nhân
bản, dân tộc, khai phóng” ở những môn khoa học
nhân văn, và nhờ tính cạnh tranh trong quyền
được tự do biên soạn của tư nhân và quyền
chọn của người sử dụng nên phong phú đa
dạng và ngày càng được cải tiến tốt
hơn.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
- Giáo dục Mỹ thuật
Bộ, Chương trình Trung
học, in lại trong La
Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I, Nxb Giáo dục,
1998.
- Bộ Quốc gia Giáo dục
Việt Nam, Chương trình
giáo dục (Bậc Tiểu học và Trung học), Nhà in
các Công báo, Sài Gòn, 1953.
- Chương
trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài
Gòn, 1960.
- Chương
trình Tiểu học (áp dụng kể từ niên khóa
1967-1968), Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, 1968.
- Chương
trình Trung học, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn,
1960.
- Bộ Quốc gia Giáo dục
Việt Nam Cộng hòa, Chương
trình Trung học Phổ thông (Cập nhật hóa), Sài Gòn,
1970.
- Bộ Giáo dục, Chương trình Trung học,
Sài Gòn, 1971.
- Trần Thái Hồng, Khảo sát hiện trạng Giáo
dục Trung học Tổng hợp, Tiểu luận
đệ trình Hội đồng Cao học Giáo dục
Trường Đại học Sư phạm, Viện
Đại học Sư phạm, Viện Đại
học Sài Gòn, 8/1973.
- Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng & phát triển
văn hóa giáo dục, Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970.
- Lê Thanh Hoàng Dân (Chủ biên), Các vấn đề giáo dục I,
II, Trẻ xuất bản, Sài Gòn, 1971.
- Nguyễn Hổ Dư-Trần
Doãn Đức, Vấn
đề giáo dục, Văn khoa xuất bản, 1971.
- Phòng Tâm lý và Hướng
nghiệp Đắc Lộ, Chỉ
nam giáo dục cao đẳng Việt Nam, Sài Gòn, 1974.
- Văn
hóa tập san XIII, Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo
dục, Sài Gòn, 1974.
- Tập san Minh đức, Số ra mắt (đặc
biệt về Phát triển & Giáo dục), Sài Gòn, tháng 6
& 7, 1972.
- Giáo
dục nguyệt san, các số 28 (12/1968), 49 (5/1971), 53
(12/1971), 54 (1/1972), 59-60 (6-7/1972).
- Bách
khoa, các số 128, 129, 130, 131 (từ 1/5/1962 đến
1/6/1962), và 184 (1.9.1964).
- Lê Ngọc Trụ, Mục lục báo chí Việt
ngữ trong 100 năm (1865-1965), bản in ronéo, Sài Gòn,
1966.
- Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Thư
tịch báo chí Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998.
- Nguyễn Hùng Cường, Thư tịch về khoa học
xã hội tại Việt Nam, Phủ Quốc vụ khanh
đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970.
-
Nguyễn Q. Thắng, Khoa
cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa, 1998.
-
Trần Văn Quế, Sư
phạm thực hành, Bộ Văn hóa Giáo Dục, in
lần thứ nhất, Sài Gòn, 1964.
- Nguyễn Phú Phong, “Quốc
ngữ trong chương trình tiểu học thời Pháp
thuộc”, Từ Đông sang
Tây, Cao Huy Thuần chủ biên, Nxb Đà Nẵng, 2005.
- Lê Thanh Hoàng Dân (Chủ biên), Quản trị và thanh tra học
đường, Trẻ xuất bản, Sài Gòn, 1972.
- Sách giáo khoa thuở xưa (hình chụp các bìa sách), https://www.facebook.com/media/set
- Sách giáo khoa các thời kỳ (hình
chụp các bìa sách), thuongmaitruongxua.vn
- Thư
mục 1972 Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục, Sài
Gòn, 1972.
- Một số sách dạy
Văn bậc tiểu học từ lớp Năm tới
lớp Nhất (Lớp 1 tới lớp 5) xuất bản
trước năm 1975.
Nguồn: Tạp chí Nghiên Cứu & Phát Triển, số 7-8 (114-115).2014
(Chuyên đề: Giáo dục miền Nam Việt Nam 1954-1975)
Trần Văn Chánh
27/10/2014
Cám ơn ô. Trần Văn Chánh đã gìn vàng giữ ngọc !
Trả lờiXóa