Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

VIỆN HÁN NÔM TRIỂN LÃM THƯ PHÁP "TỔ QUỐC VÀ BIỂN ĐẢO"

Đón mừng năm mới Ất Mùi - 2015, Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức Triển lãm Thư pháp Hán Nôm về chủ đề TỔ QUỐC VÀ BIỂN ĐẢO do các nhà thư pháp của Viện và bè bạn thực hiện. Triển lãm khai mạc vào ngày 30 tháng 12 năm 2014 và được trưng bày suốt mùa Xuân tại sảnh lớn của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 183 Đặng Tiến Đông, Đống Đa, Hà Nội.

Những câu thơ, đoạn văn, lời tuyên bố đầy khí phách thể hiện hào khí dân tộc của các bậc đế vương, danh tướng, học giả, thi nhân xưa sẽ được thể hiện bằng chữ Hán Nôm và trưng bày trong triển lãm. Như vang vọng lời vua Lê Thánh Tông huấn thị quần thần: "Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di" - (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Như sấm sét còn vọng từ sân triều đình nhà Minh khi Sứ thần Đại Việt, Chánh sứ (Trưởng đoàn Ngoại giao VN) Giang Văn Minh - đối đáp đầy khí phách trước vua nhà Minh: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục / Đằng giang tự cổ huyết do hồng.

Và những câu thơ về Biển đảo, Tổ quốc, về Hoàng Sa - Trường Sa của các tác giả Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Việt Chiến, Trần Đăng Khoa... cũng được thể hiện bằng chữ Nôm, đem lại một cảm xúc mới mẻ cho người thưởng ngoạn. 

Triển lãm có sự tài trợ về kinh phí của Cafe Trung Nguyên 
và Những người bạn của TS. Nguyễn Xuân Diện.
 .

感懷


世事悠悠奈老何, 無窮天地入酣歌。

時來屠釣成功昜, 運去英雄飲恨多。

致主有懷扶地軸, 洗兵無路挽天河。

國讎未報頭先白, 幾度龍泉戴月磨。


Phiên âm: 

Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma. 

Dịch nghĩa: 

Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

 


Thơ Nguyễn Việt Chiến

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa.

(Tổ quốc nhìn từ biển)


Bức ở giữa:







Phiên âm:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. 

Dịch nghĩa: 

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Bức ở Hai bên:

銅柱至今苔已綠
藤江自古血猶紅

Phiên âm: 
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Đằng giang tự cổ huyết do hồng

Dịch nghĩa: 
Cột đồng đến này rêu đã mọc xanh 
Sông Bạch Đằng từ xưa đến nay nước vẫn đỏ. 
 





不辞萬里整師徒
惟欲邊方赤子蘇
天地不容奸黨在
古今誰赦叛臣誅
忠良自可應多福
暴悖終難保壹軀
帶礪不移神子節
名垂萬世與山俱

Phiên âm: 

Bất từ vạn lí chỉnh sư đồ
Duy dục biên phương diệc tử tô
Thiên địa bất dung gian đảng tại
Cổ kim thùy xá bạn thần chu
Trung lương tự khả ưng đa phúc
Bạo bội chung nan bảo nhất khu
Đái lệ bất di thần tử tiết
Danh thùy vạn cổ dữ sơn câu 

Dịch nghĩa: 

Đem quân chẳng ngại đường xa
Muốn yên trăm họ mới ra biên thùy
Bọn tà trời có dung chi
Xưa nay ai có tha gì kẻ gian
Hiền lương hưởng phúc chứa chan
Những phường bội nghịch khó toàn được thân
Đá đai ghi tiết trung thần
Tiếng tăm cùng núi muôn xuân dội truyền .



 Lời vua Lê Thánh Tông:
我尺山寸河豈宜拋棄,爾宜堅辯勿許漸侵。如他不從,尚可差官北使詳其曲直。汝感以太祖尺地寸土踐賊,罪顯誅夷。 
 Dịch nghĩa:
"Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di" (Lời vua Lê Thánh Tông) - (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
.


Văn bản Tờ lệnh Lý Sơn cấp cho các ông Đặng Văn Siểm và Dương Văn Định ở Lý Sơn 
đi Hoàng Sa năm Minh Mệnh 1834.




銅柱至今苔已綠
藤江自古血猶紅 

Phiên âm:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
Đằng giang tự cổ huyết do hồng

Dịch nghĩa: 
Cột đồng đến này rêu đã mọc xanh
Sông Bạch Đằng từ xưa đến nay nước vẫn đỏ. 




Hai bức hai bên cạnh: 

Đất là nơi Anh đến trường
Nước là nơi Em xuống tắm 
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm


TỔ QUỐC
Dẫu ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
Cột Biên giới đóng từ thương đến nhớ

Thơ Nguyễn Duy


1 nhận xét :

  1. Không biết đến lúc nào người ta mới bỏ sự nhí nhố "Viết thư pháp bằng mẫu tự Latin" ("thư pháp tiếng Việt")? Báo hại mọi người phải đứng đực cả buổi để chơi trò "đoán chữ"!

    Trả lờiXóa